Dương Đình Nghệ

Trang hạn chế sửa đổi (bán khóa)
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Dương Đình Nghệ
Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ
Tại vị931 – 937
Tiền nhiệmKhúc Thừa Mỹ
Kế nhiệmKiều Công Tiễn
Thông tin chung
Sinh22 tháng 11 năm 874[cần dẫn nguồn]
Làng Giàng[cần dẫn nguồn], Ái Châu
MấtTháng 3 năm 937
Đại La
Hậu duệDương Tam Kha
Tên đầy đủ
Dương Đình Nghệ
(楊廷藝)

Dương Đình Nghệ (chữ Hán: 楊廷藝), có sách như Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim chép là Dương Diên Nghệ (楊筵藝, 22 tháng 11 năm 874[cần dẫn nguồn]937)[1], người Ái châu, làm tướng cho Khúc Hạo. Đời Hậu Lương, vì Khúc Hạo chiếm cứ đất Giao Châu, nên Nam Hán Cao Tổ Lưu Nghiễm ở đất Quảng Châu, có cớ sai Lý Khắc ChínhLý Tri Thuận đánh chiếm Giao Châu. Kết quả của cuộc chiến này là con trai Khúc Hạo là Khúc Thừa Mỹ bị bắt, và vua Nam Hán phong Lý Tiến thay làm Thứ sử Giao Châu. Thấy vậy, tướng Dương Đình Nghệ dấy binh lên, đánh bại được Lý Khắc Chính, và vây hãm Lý Tiến. Và khi Lý Tiến được tướng Nam Hán là Trần Bảo đem quân tới cứu, Dương Đình Nghệ một lần nữa đánh bại và chém chết được Trần Bảo. Cuối cùng là Dương Đình Nghệ đã vẻ vang giữ được thành, và oai phong tự xưng là Tiết độ sứ của Giao Châu. Sáu năm sau, Dương Đình Nghệ, tuy thắng được ngoại xâm nhưng lại chết vì nội phản, bị tướng của mình là Kiều Công Tiễn làm phản, giết chết rồi lên thay.[2][3]

Tên gọi

Do chữ diên (延 hoặc 筵) và chữ đình 廷 gần giống nhau nên có sự "tam sao thất bản".

Đại Việt sử ký toàn thư, ngoại kỷ, Quyển V chép là Dương Đình Nghệ kèm ghi chú: "Cương mục ghi Dương Diên Nghệ, người Ái Châu, tức Thanh Hóa (CMTB5, 17a). Tài liệu Trung Quốc như Tống sử (q. 488), Tư trị thông giám v.v... cũng chép là Dương Diên Nghệ. Ngũ đại sử (q. 65) chép như Toàn thư (là Đình Nghệ). Có thể nhầm nét chữ vì chữ 延 diên và chữ 廷 đình gần giống nhau."

Trong số sách ghi họ tên ông là Dương Diên NghệKhâm định Việt sử thông giám cương mục. Ở phần tiền biên, Quyển V của sách này có ghi chú: "Sách An Nam kỷ yếu chép là Đình Nghệ. Nay theo sách Cương mục (Trung Quốc) đổi lại là Diên Nghệ."

Như trên đã nói Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim chép là Dương Diên Nghệ. Cuốn Đất nước Việt Nam qua các đời của Đào Duy Anh cũng chép là Dương Diên Nghệ.

Sự nghiệp

Bối cảnh

Loạt bài
Lịch sử Việt Nam
Bản đồ Việt Nam

Thời tiền sử

Hồng Bàng

An Dương Vương

Bắc thuộc lần I (207 TCN – 40)
   Nhà Triệu (207 – 111 TCN)
Hai Bà Trưng (40 – 43)
Bắc thuộc lần II (43 – 541)
   Khởi nghĩa Bà Triệu
Nhà Tiền LýTriệu Việt Vương (541 – 602)
Bắc thuộc lần III (602 – 905)
   Mai Hắc Đế
   Phùng Hưng
Tự chủ (905 – 938)
   Họ Khúc
   Dương Đình Nghệ
   Kiều Công Tiễn
Nhà Ngô (938 – 967)
   Loạn 12 sứ quân
Nhà Đinh (968 – 980)
Nhà Tiền Lê (980 – 1009)
Nhà Lý (1009 – 1225)
Nhà Trần (1225 – 1400)
Nhà Hồ (1400 – 1407)
Bắc thuộc lần IV (1407 – 1427)
   Nhà Hậu Trần
   Khởi nghĩa Lam Sơn
Nhà Hậu Lê
   Nhà Lê sơ (1428 – 1527)
   
   trung
   hưng
(1533 – 1789)
Nhà Mạc (1527 – 1592)
TrịnhNguyễn
phân tranh
Nhà Tây Sơn (1778 – 1802)
Nhà Nguyễn (1802 – 1945)
   Pháp thuộc (1887 – 1945)
   Đế quốc Việt Nam (1945)
Chiến tranh Đông Dương (1945 – 1975)
   Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
   Quốc gia Việt Nam
   Việt Nam Cộng hòa
   Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (từ 1976)

Xem thêm

sửa

Phía Bắc nước Việt tồn tại hai nước lớn là nhà Nam Hánnhà Lương. Năm 919, Khúc Thừa Mỹ sai sứ sang nhà Lương xin được lĩnh tiết việt, nhà Lương trao cho. Vua Nam Hán cả giận.[4]

Diễn biến

Mùa thu tháng 7 năm 923 (theo sử của Trung Quốc là năm 930), vua Nam Hán Lưu Nghiễm sai tướng là Lý Khắc Chính (hoặc Lý Thủ Dung và Lương Khắc Trinh)[5] đem quân sang đánh Giao Châu. Lý Khắc Chính bắt được Tiết độ sứ Khúc Thừa Mỹ đem về. Vua Nam Hán phong tước cho Dương Đình Nghệ, cho Lý Tiến làm Thứ sử Giao châu, cùng với Lý Khắc Chính giữ thành.[6]

Năm 931, Dương Đình Nghệ tìm cách báo thù cho họ Khúc. Ông nuôi 3.000 giả tử (con nuôi), đặt ra trường đánh vật, chiêu tập các hào kiệt, lấy đại nghĩa khuyến khích họ.[2]

Lý Tiến lo sợ, sai người cấp báo cho vua Nam Hán, cùng năm ấy, Dương Đình Nghệ đem quân vây Lý Tiến. Vua Nam Hán sai Trần Bảo (hoặc Trình Bảo)[7] đem quân sang cứu, nhưng đến nơi thì Dương Đình Nghệ đã hạ được thành. Lý Tiến trốn về nước, Trần Bảo vây thành, Dương Đình Nghệ đem quân ra đánh giết chết Trần Bảo.[4]

Dương Đình Nghệ giữ lấy thành, tự xưng là Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ nhận lĩnh việc châu.[2]

Cái chết

Mùa xuân tháng 3 năm 937, Dương Đình Nghệ bị nha tướng của mình là Kiều Công Tiễn (hoặc Kiểu Công Tiễn)[7] giết chết. Một nhà tướng khác của ông là Ngô Quyền kéo quân từ Ái Châu ra đánh Kiều Công Tiễn.[4]

Quê hương

Sách An Nam chí lược, Việt sử tiêu án, Đại Việt sử ký toàn thư đều chép Dương Đình Nghệ là người Ái châu. Theo soạn giả Lê Tắc, sách An Nam chí lược, quyển Đệ nhất, Ái châu là phần thuộc Thanh Hóa.

Nam-Giao đời xưa, nhà Chu gọi là Việt-Thường, nhà Tần gọi là Tượng-Quận, nhà Hán đặt làm ba quận: Giao-Châu, Cửu-Chân và Nhật-Nam. Nhà Đường lại cải Giao-Châu làm An-nam phủ, quận Cửu-Chân làm Ái-Châu, quận Nhật-Nam làm Hoan-Châu, tức là La-Thành, Thanh-Hóa và Nghệ-An ngày nay vậy.

Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú:

Thanh Hoa [8] nguyên trước là đất Tượng Quận, đời Hán gọi là quận Cửu Chân, Lương đặt là châu Ái, Tùy gọi là Cửu Chân, Đường lại đổi là châu Ái.[9]

Nhận định

[2]

[2]

Sách An Nam chí lược, quyển Đệ thập cửu chép bài Đồ Chí Ca:

Cuối đời Hàm-Thông Trung-Quốc loạn,
Chuyển-vận đường xa bỏ bê trễ.
Ngô-Quyền, Khúc-Hạo, Kiểu[10] và Dương[11],
Soán đoạt giành nhau, dân kiệt quệ.
Họ Đinh, đời Tống mới phong vương,

Tham khảo

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ http://www.xxxxonline.com/tua-sach/viet-nam-su-luoc/quyen-i-phan-ii-chuong-v/286[liên kết hỏng]
  2. ^ a b c d e Việt sử tiêu án, Soạn giả Ngô Thì Sĩ, Dịch giả: Hội Việt Nam Nghiên cứu Liên lạc Văn hóa Á Châu, Nhà Xuất bản: Văn Sử 1991, Chương Ngoại thuộc Tùy và Đường.
  3. ^ An Nam chí lược, soạn giả Lê Tắc, dịch giả Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam, Nhà Xuất bản Viện Đại học Huế, 1961, Quyển Đệ tứ.
  4. ^ a b c Đại Việt sử ký toàn thư, Soạn giả Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên..., Dịch giả Viện Sử học Việt Nam, Nhà Xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội, 1993.
  5. ^ Châu Hải Đường (2018), An Nam Truyện – Ghi chép về Việt Nam trong chính sử Trung Quốc xưa. Công ty Cổ phần sách Tao Đàn, Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn. Trang 235.
  6. ^ An Nam chí lược, soạn giả Lê Tắc, dịch giả Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam, Nhà Xuất bản Viện Đại học Huế, 1961, Quyển Đệ thập nhất.
  7. ^ a b Châu Hải Đường (2018), An Nam Truyện – Ghi chép về Việt Nam trong chính sử Trung Quốc xưa. Công ty Cổ phần sách Tao Đàn, Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn. Tân Ngũ Đại sử trang 236.
  8. ^ Tức Thanh Hóa
  9. ^ Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, soạn giả Phan Huy Chú, dịch giả Viện Sử học Việt Nam, Nhà Xuất bản Giáo dục, 2005, trang 45.
  10. ^ Kiều Công Tiễn.
  11. ^ Dương Đình Nghệ.
Tiền nhiệm:
Khúc Thừa Mỹ
Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ
931-937
Kế nhiệm:
Kiều Công Tiễn