Eric Mun

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Eric Mun
Thông tin nghệ sĩ
Tên khai sinhMun Jung-hyuk
Sinh16 tháng 2, 1979 (45 tuổi)
Seoul, Hàn Quốc
Thể loại
Nghề nghiệp
Nhạc cụ
Năm hoạt động1998–nay
Hãng đĩa
Hợp tác vớiShinhwa
Websitewww.shinhwacompany.co.kr
Tên người Triều Tiên
Hangul
Hanja
Romaja quốc ngữMun Jeong-hyeok
McCune–ReischauerMun Chŏnghyŏk

Eric Mun (tên khai sinh là Mun Jung-hyuk, sinh ngày 16 tháng 2 năm 1979) hay đơn giản là Eric, là nam ca sĩ, nhạc sĩ, rapper kiêm diễn viên người Hàn Quốc, hiện là trưởng nhóm của nhóm nhạc huyền thoại Shinhwa do công ty SM Entertainment thành lập.

Anh còn nổi tiếng qua các bộ phim truyền hình dài tập như là Phoenix, Super Rookie, Discovery of love, Lại là em Oh Hae-young... Anh hoạt động dưới Top Class Entertainment từ năm 2007 đến tháng 12 năm 2013. Năm 2014, Eric cùng với người quản lý 10 năm qua của anh, Lee Jong Hyun, ký hợp đồng mới với E&J Entertainment để bắt đầu những hoạt động cá nhân. Eric đồng thời là CEO của Shinhwa Company cùng với Lee Min-woo (người đồng sáng lập từ năm 2011), và các thành viên còn lại: Kim Dong-wan, Shin Hye-sung, Jun Jin, Andy Lee (các cổ đông). Kết hôn năm 2017 với Na Hye Mi.

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Eric Mun (Mun Jung-hyuk) sinh ra ở Seoul. Anh là người nhỏ tuổi nhất trong 3 người con cùng với 2 người chị gái. Eric học trường cấp hai Daechi ở Seoul. Khi gia đình anh chuyển đến Mỹ, anh tiếp tục theo học John Burroughs Middle School tại Los Angeles. Eric dành thời gian học trung học tại Parks Junior High School và Sunny Hills High School, cả hai đều nằm ở Fullerton, California. Năm 1996 Eric trở về Hàn Quốc và tham gia SM Entertainment với tư cách thực tập sinh và ra mắt như một Rapper, cùng thời với nhóm nhạc nữ S.E.S.' với ca khúc "I'm Your Girl" cùng với  Andy. Vào ngày 24 tháng 3 năm 1998, với nghệ danh sân khấu Eric, anh ra mắt với tư cách trưởng nhóm và Rapper chính của nhóm Shinhwa với đĩa đơn "해결사" (The Solver) trên KM Music Tank. Anh cho rằng album debut của họ Resolver đã không được thể hiện tốt và nhóm đã gần như tan rã. Trong thời gian đó, anh đã nghiêm túc suy nghĩ về việc từ bỏ công việc và quay về Mỹ.[1]

Năm 2005 Eric đã tốt nghiệp đại học Dongguk chuyên ngành Sân khấu và Điện ảnh với tư cách một trong số ít sinh viên xuất sắc nhất.

2004: Bắt đầu sự nghiệp Diễn xuất[sửa | sửa mã nguồn]

Mặc dù vào năm 2002 Eric và nhóm Shinhwa đã là khách mời xuất hiện trong bộ phim điện ảnh Emergency 19 Act, nhưng sự nghiệp diễn xuất của Eric mới thực sự bắt đầu vào năm 2003 khi đạo diễn Park Sung Soo cho anh 0.5 giây để đưa ra quyết định tham gia một vai diễn phụ trong series phim Breathless (I Run) của đài MBC. Eric trả lời bằng một câu "Đồng ý" và bắt đầu mở cánh cửa đến với con đường diễn xuất.[2] Vào đầu năm 2004, anh có bước ngoặt lớn với bộ phim truyền hình cực kì nổi tiếng Phoenix (Bulsae). Thành công lớn của vai diễn trong Phoenix khiến công chúng biết đến Eric nhiều hơn, giúp anh trở thành ngôi sao sáng giá. Câu thoại không thể quên được của anh “Do you smell anything burning? My heart is burning” (Em có thấy mùi thứ gì đó đang cháy không? Trái tim tôi đang cháy) đã luôn được sử dụng phổ biến đến tận bây giờ, gây hài hước trong rất nhiều bộ phim và chương trình truyền hình mỗi khi được nhắc đến.

2005-2006: Diễn xuất và bị thương[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2005, Eric bắt đầu vai diễn chính trong Super Rookie của MBC với diễn viên Han Ga-in.[3] Bộ phim cũng được quảng bá rộng rãi trên Fuji TV. Phim nhận được đánh giá tốt ở Hàn Quốc trong thời gian quảng bá. Super Rookie cũng là một bom tấn ở Nhật Bản sau khi Đài truyền hình Fuji trả ₩2 tỷ won để mua bản quyền phát sóng tại Nhật Bản.[4] Bộ phim nhận được phản hồi rất tốt tại Nhật khi quảng bá ở đây, lượng lớn người xem bộ phim đã khiến Eric trở thành ngôi sao dẫn đầu làn sóng Hallyu tại Nhật. Tháng 12 năm 2005, Eric đẩy mạnh quảng bá Super Rookie tại Nhật Bản. Một lượng lớn người hâm mộ đã chờ để được gặp Eric tại sân bay. Fuji TVNarita Airport đã xem anh như là State Guest (khách mời trang trọng).[5]

Đầu năm 2006, Eric đã bị thương ở phim trường bộ phim truyền hình Wolf của MBC, kết quả đã khiến bộ phim phải tạm ngừng sau 4 tập phim. Eric bị thương trong một cảnh bắn súng, gần NamdaemunSeoul, anh đã cứu bạn diễn Han Ji-min chạy khỏi chiếc xe. Nguyên nhân là do tài xế đã hiểu sai dấu hiệu, đâm vào họ với vận tốc 40 km/h và không thể dừng lại trước họ như kế hoạch.[6]

Vào tháng 8, sau sự thành công của Super Rookie, đặc biệt là tại Nhật Bản,[4] Eric đã một lần nữa hợp tác với biên kịch bộ phim trong Invincible Parachute Agent (Korea Secret Agency).[7]

2008-2010: Nghĩa vụ quân sự[sửa | sửa mã nguồn]

Concert kỉ niệm 10 năm của Shinhwa vào tháng 3 năm 2008, sau đó Shinhwa bắt đầu bị gián đoạn hoạt động chung để các thành viên hoàn thành nghĩa vụ quân sự bắt buộc của Hàn Quốc. Trước thời gian tòng quân, Eric đã tham gia một bộ phim lịch sử lần đầu tiên trong sự nghiệp diễn xuất của anh là Strongest Chil Woo.[8] Với 30 triệu won cho mỗi tập phim Strongest Chil Woo, Eric đã trở thành diễn viên khởi đầu là ca sĩ được trả mức cao nhất trong ngành vào thời điểm đó.[9]

Từ bỏ quyền công dân Mỹ vào năm 2003 [10][11] để có thể thực hiện nghĩa vụ quân sự của mình, Eric là thành viên Shinhwa đầu tiên ghi tên trong danh sách đi thực hiện nghĩa vụ vào tháng 10 năm 2008. Bởi vì bị thương khi quay bộ phim truyền hình Wolf, Eric đã được thực hiện nghĩa vụ bắt buộc như một công nhân viên chức sau 4 tuần rèn luyện cơ bản. Anh hoàn thành nghĩa vụ ngày 30 tháng 10 năm 2010.[12]

Năm 2011: Diễn xuất trở lại và Sự thành lập của Shinhwa Company[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn thành nghĩa vụ, dự án đầu tiên của Eric là là tham gia bộ phim hành động của KBS Poseidon cùng với Kim Ok-bin, khởi chiếu vào tháng 7 năm 2011. Nhưng họ đã ngừng quay bộ phim khi việc sản xuất phải tạm ngừng sau trận pháo kích Yeonpyeong bất ngờ nổ ra vào tháng 11 năm 2010.[13] Thay vào đó, anh đã trở lại với bộ phim truyền hình khác của KBS, Spy Myung-wol cùng với diễn viên Han Ye-seul vào tháng 7, anh vào vai một ngôi sao dẫn đầu làn sóng Hàn Quốc, người là trung tâm trong một âm mưu bắt cóc của các điệp viên Bắc Triều Tiên.[14][15]

Ngày 1 tháng 7 năm 2011, Eric trở thành CEO (cùng với Lee Min-woo - co-CEO) của Shinhwa Company, một cơ quan chung cho các thành viên Shinhwa hoạt động trở lại như một nhóm. Công ty quản lý cả nhóm như một nhóm đầy đủ trong khi các thành viên vẫn được quản lý các hoạt động cá nhân bởi các công ty quản lý riêng của họ.[16]

Như một phần của Top Class Entertainment, Eric đã đào tạo nhóm nhạc nữ Stellar, nhóm đã ra mắt vào tháng 8 năm 2011 với ca khúc "Rocket Girl".[17]

2012: Shinhwa Trở Lại[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 3 năm 2012, Eric hợp lại với nhóm Shinhwa cho sự trở lại của họ sau 4 năm, dưới sự quản lý của Shinhwa Company. Nhóm đã cho ra mắt album phòng thu thứ 10 The Return vào ngày 23 tháng 3 năm 2012,[18][19] bắt đầu tour diễn 2012 Shinhwa Grand Tour: The Return khắp khu vực châu Á[20][21] và chương trình thực tế đầu tiên của riêng họ Shinhwa Broadcast đã được phát sóng lần đầu vào ngày 17 tháng 3 năm 2012 trên kênh truyền hình cab JTBC.[22]

Eric đã hợp tác Rap trong đĩa đơn nhạc số "Nostalgia" của thành viên Brown Eyed GirlsGa In, được phát hành ngày 30 tháng 11 năm 2012.[23]

2013: Shinhwa trở lại và rời khỏi Top Class Management[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 8 tháng 2 năm 2013, công ty đại diện của Shinhwa thông báo sự trở lại của nhóm nhạc huyền thoại trên các website chính thức của họ. Poster cho sự trở lại của họ 2013 Shinhwa Grand Tour: The Classic kỉ niệm 15 năm ngày ra mắt của họ đã chính thức được tiết lộ. Album có tên gọi là The Classic.

Đó đã trở thành một thành công vô cùng lớn, vé vào cửa của concert đã được bán hết chỉ trong vài phút. Eric cùng với Shinhwa đã thắng rất nhiều giải thưởng năm 2013. Mọi người đã coi họ như là Nhóm nhạc nam hoạt động lâu nhất trong ngành công nghiệp âm nhạc Hàn Quốc.

Tháng 12 năm 2013, hợp đồng của anh với Top Class Entertainment đã kết thúc. Anh đã không gia hạn hợp đồng với Top Class Entertainment và bởi vậy anh không còn trách nhiệm với nhóm Stellar, nhóm mà anh đã giúp đỡ công ty đào tạo và phát triển những kĩ năng riêng.[24][25]

2014: Trở lại Diễn xuất[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 3, Eric đã hoàn tất thành công các Concert kỉ niệm 16 năm cùng với Shinhwa. Sau khi nhận được vài đề nghị thử vai cho phim truyền hình của KBS, Eric trở lại màn ảnh nhỏ vào tháng 8 với bộ phim truyền hình Discovery of Love, là sự kết hợp của anh với Jung Yu-mi, diễn viên đã cùng anh đóng trong bộ phim của MBC năm 2007 Que Sera, Sera.[26][27][28] Điều này cũng thông báo rằng anh đã có công ty quản lý riêng, E&J Entertainment cùng với người quản lý 10 năm của anh, Lee Jong-hyun.[29]

Mặc dù bộ phim có trung bình 7% Neilsen rating, Eric và đoàn làm phim Discovery of Love đã nhận được rất nhiều lời khen ngợi về diễn xuất và tính hiện thực của bộ phim. Eric thắng Triple Crown (3 giải) tại KBS 2014 Year End Award (Excellent Actor, Best Couple, và Netizen Award). Với những thành công này, Eric đã thắng giải thưởng diễn xuất tại cả ba mạng truyền hình lớn. Năm 2015, Discovery of Love đã được đề cử cho giải 2015 Rockie Award[30] hạng mục Melodrama (Phim Tâm lý - Tình cảm) cùng với 30 Vies (Canada), EastEnders (Anh), Grey’s Anatomy (Mỹ), My Sunshine (Trung Quốc), và Mysterious Summer (Nhật Bản). Trong 2015 Instiz đăng tải các ý kiến về các nhân vật phim truyền hình mà người xem yêu thích, nhân vật Kang Tae-ha của Eric trong Discovery of Love nằm trong top 10 tại vị trí #6.[31]

2015: Shinhwa Trở Lại[sửa | sửa mã nguồn]

Eric đã có sự trở lại với album phòng thu thứ 12 của Shinhwa "WE". Shinhwa đã thắng 10 giải thưởng (bao gồm một chiến thắng Triple Crown - 3 giải tại Mnet's M! Countdown) cho lần trở lại này. Eric và Shinhwa đã có concert tour bắt đầu vào tháng 5 và kết thúc với một encore concert ở Seoul vào tháng 8. Shinhwa cũng đã biểu diễn tại KCON LA lần đầu tiên vào đầu tháng 8.

Năm 2016 : Trở lại Diễn xuất[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2016, Eric đã trở lại diễn xuất với vai nam chính trong bộ phim truyền hình Lại là Oh Hae Young của tvN cùng với Seo Hyun-jin. Anh vào vai một giám đốc âm thanh có khả năng nhìn thấy ảo cảnh của tương lai và có chuyện tình với hai cô nàng Oh Hae-young. Bộ phim đã làm mưa làm gió trên màn ảnh châu Á trong suốt 2 tháng phát sóng và nhận được đánh giá cao nhất trong lịch sử các bộ phim phát sóng vào khung giờ thứ Hai và thứ Ba của tvN.

Năm 2017 : Kết hôn và tham gia game show[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 1/7/2017, Eric kết hôn với nữ diễn viên Na Hye Mi đã được tổ chức tại một nhà thờ ở quận Jung, Seoul. Vốn là một trong những sự kiện gây bất ngờ nhất showbiz Hàn trong năm nay, hôn lễ của Eric càng gây chú ý hơn khi hội tụ dàn sao đình đám tới chung vui. Đặc biệt hơn nữa, tất cả thành viên Shinhwa trở thành phù rể, ủng hộ cho thành viên đầu tiên của nhóm kết hôn. Cùng năm đó game show Three Meals A Day của tvN, Eric tham gia với vai trò thành viên của mùa 4 lấy chủ đề về làng chài. Tập đầu tiên phát sóng ngày 4/8/2017.

Danh sách phim[sửa | sửa mã nguồn]

Phim truyền hình[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Tựa phim Vai diễn Bạn diễn Số tập Kênh
2003 Breathless Shin Sang-Sik MBC
2004 Phoenix Seo Jung-min
Banjun Drama (Xuất hiện trong 10 tập của series Banjun) SBS
2005 Super Rookie Kang Ho MBC
2006 Wolf Bae Dae-Chul
Invincible Parachute Agent - Super Rookie Ranger Choi Kang SBS
2007 Que Sera, Sera Kang Tae-joo MBC
2008 Strongest Chil Woo Kang Chil-woo/Choi Chil-woo KBS2
2011 Spy Myung-wol [32] Kang Woo
2014 Discovery of Love Kang Tae-ha
2016 Lại là em Oh Hae-young Park Do-kyung tvN

Phim điện ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Tựa phim Vai diễn
2002 Emergency Act 19 (khách mời cùng với Shinhwa)
2005 A Bittersweet Life Tae Goo (cameo)
Diary of June Kim Dong Wook
2014 Shinhwa Live 3D: The Legend Continues chính mình

Chương trình thực tế[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Chương trình Kênh Ghi chú Video
2012 - 2013 Shinhwa Broadcast JTBC Tập 1 - 62
2013 Running Man SBS Khách mời cùng với Shinhwa tập 160, 161
2015 Running Man SBS Khách mời cùng với Shinhwa tập 236
2015 Yu Huiyeol's Sketchbook KBS2 Khách mời cùng với Shinhwa tập 264 KBS World TV
2017 Three Meals A Day TvN Tập 1 - 12

Giải thưởng và đề cử[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Giải thưởng Hạng mục Phim đề cử Kết quả
2004 MBC Drama Awards Best New Actor Phoenix Đoạt giải
Popularity Award, Actor Đoạt giải
2005 41st Baeksang Arts Awards Best New Actor (TV) Super Rookie Đoạt giải
Most Popular Actor (TV) Đoạt giải
MBC Drama Awards Top Excellence Award, Actor Đoạt giải
2006 42nd Baeksang Arts Awards Best New Actor (Film) Diary of June Đề cử
SBS Drama Awards Excellence Award, Actor in a Miniseries Invincible Parachute Agent Đoạt giải
Top 10 Stars Đoạt giải
2014 KBS Drama Awards Excellence Award, Actor in a Miniseries Discovery of Love Đoạt giải
Netizen's Award, Actor Đoạt giải
Best Couple Award cùng với Jung Yu-mi Đoạt giải
Grand Prize Đề cử
Top Excellence Award, Actor Đề cử
Popularity Actor Đề cử
2016 tvN10 Awards Romantic Comedy King Another Miss Oh Đoạt giải

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Eric Steps Out of Character for Recruit. Chosun Ilbo. ngày 7 tháng 4 năm 2005. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2011.
  2. ^ “[11.07.15] 10asia's 10 Line feature: Eric”. ABSOLUT SHINHWA. Truy cập 3 tháng 7 năm 2016.
  3. ^ Kim, Jessica (ngày 29 tháng 10 năm 2009). “Han Ga-in signs with Kim Ha-neul's agency”. 10 Asia. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2012.
  4. ^ a b “Is it all over already? Gloomy signs overshadow rosy statistics of 'Hallyu'. HanCinema. Truy cập 3 tháng 7 năm 2016.
  5. ^ "Huge Crowds Greet Eric's Arrival in Tokyo" Chosun Ilbo. ngày 19 tháng 12 năm 2005.
  6. ^ “Eric Hurt in Gallant Attempt to Save Han Ji-min”. Chosun Ilbo. ngày 23 tháng 1 năm 2006. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2011.
  7. ^ "Moon Jeong-hyeok Chooses Interesting Roles" Dong-A Ilbo. ngày 31 tháng 8 năm 2006.
  8. ^ Han, Sang Hee. “Chil-woo to Bring Joseon Hero to TV”. Korea Times. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2011.
  9. ^ “Shinhwa member Eric returns to TV as the highest-paid singer-turned-actor”. AFspot. Sports Hankook. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2015.
  10. ^ “Shinhwa Eric, Army Enlistment Date to be 2008”.
  11. ^ “Shinhwa Eric Mun gave up his American Citizenship to serve in the army”.
  12. ^ Choi Jun-yong "Shinhwa Eric discharged from military" 10 Asia. ngày 1 tháng 11 năm 2010.
  13. ^ Kim, Jessica (ngày 2 tháng 8 năm 2011). “Choi Si-won, Lee Si-young embark Poseidon. 10Asia. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2012.
  14. ^ Hong, Luica (ngày 1 tháng 6 năm 2011). “Eric to make comeback to small screen in Han Ye-seul starrer”. 10 Asia. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2012.
  15. ^ Kwon, Mee-yoo (ngày 10 tháng 7 năm 2011). “Drama explores inter-Korean love story”. Korea Times. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2011.
  16. ^ "Shinhwa Form Their Own Agency" Chosun Ilbo. ngày 3 tháng 8 năm 2011.
  17. ^ "에릭, '김가영 걸그룹' 스텔라 프로듀서 변신" Naver News ngày 16 tháng 5 năm 2011.
  18. ^ 신화, 섬뜩한 뱀파이어 변신…23일 10집 발매. Nate News (bằng tiếng Hàn). ngày 17 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2012.
  19. ^ “Shinhwa to release upcoming 10th album on March 23”. 10 Asia. ngày 16 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2012.
  20. ^ Hong, Lucia (ngày 1 tháng 2 năm 2012). “Shinhwa releases teaser video for upcoming concert”. 10 Asia. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2012.
  21. ^ Suk, Monica (ngày 26 tháng 3 năm 2012). “CONCERT REVIEW: Shinhwa: Reborn with The Return. 10 Asia. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2012.
  22. ^ Park, HyunMin (ngày 4 tháng 3 năm 2012). “Shinhwa to have Shinhwa Broadcast. Mnet News. CJ E&M. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2012.
  23. ^ Ho, Stewart. “BEG's Gain's 'Nostalgia' to Feature Shinwha Eric's Rapping”. enewsWorld. CJ E&M. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2015.[liên kết hỏng]
  24. ^ “[News] Eric doesn't produce Stellar anymore...already left his agency”. Shinhwa Stuff. Truy cập 3 tháng 7 năm 2016.
  25. ^ [http://www.mydaily.co.kr/new_yk/html/read.php?newsid=201402121124351131&ext=da “����, ���ڶ� ���ε�̿��� �� �ô١��Ҽӻ�� �Ằ”]. Truy cập 3 tháng 7 năm 2016. replacement character trong |tiêu đề= tại ký tự số 1 (trợ giúp)
  26. ^ “KPOP NEWS - Shinhwa's Eric Confirmed for 'Discovery of Romance' with Jung Yumi Mwave”. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 4 năm 2016. Truy cập 3 tháng 7 năm 2016.
  27. ^ “Eric Mun, Jung Yu-mi together again”. Truy cập 3 tháng 7 năm 2016.
  28. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2016.
  29. ^ “allkpop Breaking K-pop news, videos, photos and celebrity gossip”. Truy cập 3 tháng 7 năm 2016.
  30. ^ “2015 Rockie Awards”. BANFF World Media Festival. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2015.
  31. ^ “Netizens discuss their favorite male leads”. Koreaboo. Truy cập 3 tháng 7 năm 2016.
  32. ^ Oh, Jean (ngày 5 tháng 7 năm 2011). “Eric comes back with TV rom-com”. Korea Herald. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2013.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]