HMS Scourge (G01)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu khu trục HMS Scourge (G01) vào năm 1943
Lịch sử
Anh Quốc
Tên gọi HMS Scourge (G01)
Đặt hàng 9 tháng 1 năm 1941
Xưởng đóng tàu Cammell Laird, Birkenhead
Đặt lườn 26 tháng 6 năm 1941
Hạ thủy 8 tháng 12 năm 1942
Nhập biên chế 14 tháng 7 năm 1943
Số phận Bán để tháo dỡ, Chuyển cho Hải quân Hoàng gia Hà Lan, 1 tháng 2 năm 1946
Lịch sử
Hà Lan
Tên gọi HNLMS Evertsen (D802)
Trưng dụng 1 tháng 2 năm 1946
Số phận Tháo dỡ tháng 7 năm 1963
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp tàu khu trục S
Trọng tải choán nước
  • 1.730 tấn Anh (1.758 t) (tiêu chuẩn danh định)
  • 1.810 tấn Anh (1.839 t) (thực tế)
  • 2.545 tấn Anh (2.586 t) (đầy tải)
Chiều dài
  • 339 ft 6 in (103,48 m) (mực nước)
  • 362 ft 9 in (110,57 m) (chung)
Sườn ngang 35 ft 8 in (10,87 m)
Mớn nước 14 ft 2 in (4,32 m)
Động cơ đẩy
  • 2 × turbine hơi nước hộp số Parsons;
  • 2 × nồi hơi ống nước Admiralty 3 ngăn;
  • 2 × trục;
  • công suất 40.000 shp (30.000 kW)
Tốc độ 36,75 hải lý trên giờ (68,06 km/h; 42,29 mph)
Thủy thủ đoàn tối đa 225
Vũ khí

HMS Scourge (G01) là một tàu khu trục lớp S được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trong Chương trình Khẩn cấp Chiến tranh để phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Sống sót qua cuộc chiến tranh, nó được chuyển giao cho Hải quân Hoàng gia Hà Lan vào tháng 2 năm 1946 như là chiếc HNLMS Evertsen (D802), được cải biến thành một tàu frigate nhanh năm 1957 và phục vụ cho đến năm 1963.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Scourge được chế tạo tại xưởng tàu của hãng Cammel LairdBirkenhead, và được đặt lườn vào ngày 26 tháng 6 năm 1941. Nó được hạ thủy vào ngày 8 tháng 12 năm 1942 và nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia vào ngày 14 tháng 7 năm 1943.

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

HNLMS Evertsen (D802) tại Yokosuka vào năm 1951.

Scourge đã có mặt trong Trận chiến mũi North vào năm 1943, đang khi hộ tống đoàn tàu Vận tải Bắc Cực JW 55B đi sang Nga; nó đã không tham gia trực tiếp vào trận chiến.

Sau chiến tranh nó được bán cho Hải quân Hoàng gia Hà Lan vào ngày 1 tháng 2 năm 1946 và được đổi tên thành HNLMS Evertsen (D802). Trong Chiến tranh Triều Tiên, nó nằm trong thành phần Lực lượng Đặc nhiệm 96 thuộc Đệ thất Hạm đội của Hài quân Hoa Kỳ, và đã tham gia Trận chiến ngoại vi Pusan. Nó được cải biến thành một tàu frigate nhanh vào năm 1957, và tiếp tục phục vụ cho đến khi bị tháo dỡ tại Hendrik-Ido-Ambacht vào tháng 7 năm 1963.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Raven, Alan; Roberts, John (1976). Ensign 6 War Built Destroyers O to Z Classes. London: Bivouac Books. ISBN 0-85680-010-4.
  • Whitley, M.J. (1988). Destroyers of World War 2. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-326-1.