Kem sô cô la

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Kem sô cô la
Kem sô cô la trong một quặng kem
LoạiKem lạnh
Thành phần chínhCacao, trứng, kem sữa, vani, đường

Kem sô cô la là kem với hương vị sô cô la tự nhiên hoặc nhân tạo. Sô cô la là hương vị phổ biến thứ hai ở Mỹ, sau vani.[1]

Hàm lượng dinh dưỡng[sửa | sửa mã nguồn]

Kem lạnh, kem sô cô la
Giá trị dinh dưỡng cho mỗi 100 g (3,5 oz)
Năng lượng2.680 kJ (640 kcal)
28.2 g
Đường25.4 g
Chất xơ1.2 g
11 g
3.8 g
Other constituentsQuantity
Nước55.7 g
Caffeine3 mg
Theobromine62 mg

Tỷ lệ phần trăm được ước tính dựa trên khuyến nghị Hoa Kỳ dành cho người trưởng thành,[2] ngoại trừ kali, được ước tính dựa trên khuyến nghị của chuyên gia từ Học viện Quốc gia.[3]

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Các công thức chế biến sô cô la đông lạnh sớm nhất đã được xuất bản ở Naples, Ý vào năm 1693 trên tờ The Modern Steward của Antonio Latini. Sô cô la là một trong những hương vị kem đầu tiên, được tạo ra trước vani, vì các thức uống phổ biến như sô cô la nóng, cà phê và trà là những thực phẩm đầu tiên được biến thành món tráng miệng đông lạnh.[4] Sô cô la nóng đã trở thành một thức uống phổ biến ở châu Âu thế kỷ 17, bên cạnh cà phê và trà, và cả ba loại đồ uống này đều được sử dụng để làm món tráng miệng đông lạnh và không đông. [5] Latini đã sản xuất hai công thức cho kem dựa trên thức uống, cả hai đều chỉ chứa sô cô la và đường. [6] Năm 1775, bác sĩ Ý Filippo Baldini đã viết một luận văn có tên De sorbetti, trong đó ông đã đề nghị kem sô cô la như một phương thuốc cho y tế, bao gồm bệnh gútscorbut. [7]

Kem sô cô la trở nên phổ biến ở Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ 19. Quảng cáo đầu tiên về kem ở Mỹ bắt đầu ở New York vào ngày 12 tháng 5 năm 1777 khi Philip Lenzi tuyên bố rằng kem chính thức có sẵn "gần như mỗi ngày". Cho đến năm 1800, kem là một món tráng miệng hiếm và kỳ lạ được hầu hết giới thượng lưu yêu thích. Khoảng 1800 ngôi nhà cách nhiệt được phát minh và sản xuất kem đã sớm trở thành một ngành công nghiệp ở Mỹ.[8][9]

Sản xuất[sửa | sửa mã nguồn]

Kem sô cô la thường được làm bằng cách trộn bột ca cao cùng với trứng, kem, vani và đường được sử dụng để làm kem vani. Đôi khi rượu sô cô la được sử dụng cùng với bột ca cao, hoặc sử dụng riêng, để tạo ra hương vị sô cô la.[10] Bột ca cao làm cho kem sô cô la có màu nâu, và việc thêm các chất tạo màu khác là không phổ biến.[11][12]

Codex Alimentarius, cung cấp một hệ thống các tiêu chuẩn quốc tế cho thực phẩm, khẳng định rằng các hương vị trong kem sô cô la phải từ chất rắn cacao không béo, bao gồm ít nhất 2,0-2,5% trọng lượng hỗn hợp. Bộ luật Quy định Liên bang Hoa Kỳ "cho phép giảm hàm lượng sữa béo và sữa đặc gấp 2,5 lần trọng lượng của ca cao đặc", để tính đến việc sử dụng thêm chất làm ngọt.[13]

Hàm lượng chất béo tối thiểu của kem sô cô la ở cả Canada và Hoa Kỳ là 8%, không phân biệt lượng chất làm ngọt sô cô la trong công thức.[13]

Phân phối[sửa | sửa mã nguồn]

Muỗng kem sô cô la mạch nha.

Kem sô cô la được bán ở nhiều nơi, bao gồm nhà hàng, quán cà phê, điểm ăn tối, siêu thị, cửa hàng tạp hóa và cửa hàng tiện lợi,... Tiệm kem chuyên bán kem. Sô cô la là một trong năm hương vị kem phổ biến nhất ở Hoa Kỳ và chỉ đứng sau vani.[14][15]

Hương vị khác[sửa | sửa mã nguồn]

Kem sô cô la được sử dụng trong việc tạo ra các hương vị khác, chẳng hạn như kem Rocky road. Các hương vị khác của kem có chứa sô cô la chip trộn với kem. Ví dụ, kem sô cô la (trơn) được làm bằng kem vani, sô cô la sô cô la chip (hoặc sô cô la chip nhân đôi) kem được làm bằng kem sô cô la, và kem sô cô la bạc hà được làm bằng kem bạc hà.

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Ice Cream Sales & Trends”. International Dairy Foods Association. ngày 15 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2019.
  2. ^ United States Food and Drug Administration (2024). “Daily Value on the Nutrition and Supplement Facts Labels”. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  3. ^ National Academies of Sciences, Engineering, and Medicine; Health and Medicine Division; Food and Nutrition Board; Committee to Review the Dietary Reference Intakes for Sodium and Potassium (2019). Oria, Maria; Harrison, Meghan; Stallings, Virginia A. (biên tập). Dietary Reference Intakes for Sodium and Potassium. The National Academies Collection: Reports funded by National Institutes of Health. Washington (DC): National Academies Press (US). ISBN 978-0-309-48834-1. PMID 30844154.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  4. ^ Lohman, Sarah. “Origin of a Dish: Chocolate Ice Cream”. Four Pounds Flour. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2014. Because of the precedent of frozen drinks, some of the earliest ice cream flavors were drinks, like coffee and tea. Which is why chocolate ice cream was invented long before vanilla.
  5. ^ Quinzio 2009, tr. 42.
  6. ^ Quinzio 2009, tr. 14.
  7. ^ Quinzio 2009, tr. 50-51.
  8. ^ “The History of Ice Cream”. www.idfa.org/. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2014.
  9. ^ Funderburg 1995, tr. 69.
  10. ^ Goff & Hartel 2013, tr. 100.
  11. ^ Clarke 2004, tr. 57.
  12. ^ Tharp & Young 2012, tr. 32.
  13. ^ a b Goff & Hartel 2013, tr. 101.
  14. ^ “What's hot in ice cream”. International Dairy Foods Association. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2014.
  15. ^ “Vanilla Remains Top Ice Cream Flavor with Americans”. International Dairy Foods Association. 23 tháng 7 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2013.

Sách[sửa | sửa mã nguồn]

Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • The International Confectioner (1914). "Cocoa in Ice Cream". International Confectioner Incorporated. Volume 23. tr. 52.