USS Donaldson (DE-44)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu hộ tống khu trục USS Donaldson (DE-44) trên đường đi tại Puget Sound, ngày 15 tháng 12 năm 1943
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Donaldson (DE-44)
Đặt tên theo Trose Emmett Donaldson
Xưởng đóng tàu Xưởng hải quân Puget Sound, Bremerton, Washington
Đặt lườn 12 tháng 1, 1943 như là chiếc BDE-44
Hạ thủy 1 tháng 8, 1943
Người đỡ đầu bà J. J. Donaldson
Nhập biên chế 1 tháng 12, 1943
Xuất biên chế 5 tháng 12, 1945
Xóa đăng bạ 19 tháng 12, 1945
Danh hiệu và phong tặng 7 × Ngôi sao Chiến trận
Số phận Bán để tháo dỡ, 2 tháng 7, 1946
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu lớp tàu hộ tống khu trục Evarts
Trọng tải choán nước
  • 1.140 tấn Anh (1.160 t) (tiêu chuẩn);
  • 1.430 tấn Anh (1.450 t) (đầy tải)
Chiều dài
  • 283 ft 6 in (86,41 m) (mực nước);
  • 289 ft 5 in (88,21 m) (chung)
Sườn ngang 35 ft 1 in (10,69 m)
Mớn nước 8 ft 3 in (2,51 m)
Công suất lắp đặt 6.000 hp (4.500 kW)
Động cơ đẩy
Tốc độ 21 kn (24 mph; 39 km/h)
Tầm xa 4.150 nmi (4.780 mi; 7.690 km) ở vận tốc 12 kn (14 mph; 22 km/h)
Thủy thủ đoàn tối đa
  • 15 sĩ quan;
  • 183 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • Radar kiểu SA & SL
  • Sonar Kiểu 128D hoặc Kiểu 144
  • Ăn-ten định vị MF
  • Ăn-ten định vị cao tần Kiểu FH 4
Vũ khí

USS Donaldson (DE-44) là một tàu hộ tống khu trục lớp Evarts được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba được đặt cái tên này, nhưng là chiếc duy nhất nhập biên chế, theo tên Thiếu úy Hải quân Trose Emmett Donaldson (1914 -1942), chỉ huy chiếc tàu kéo Henry Keswick tại Corregidor, Philippines, và đã tử trận vào ngày 9 tháng 4, 1942; ông được tặng thường Huân chương Chữ thập Hải quân và được truy tặng Huân chương Chữ thập Phục vụ Dũng cảm.[1] Nó đã phục vụ cho đến khi chiến tranh kết thúc, xuất biên chế vào ngày 5 tháng 12, 1945 và xóa đăng bạ vào ngày 19 tháng 12, 1945. Con tàu bị bán để tháo dỡ vào ngày 2 tháng 7, 1946. Donaldson được tặng thưởng bảy Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Những chiếc thuộc lớp tàu khu trục Evarts có chiều dài chung 289 ft 5 in (88,21 m), mạn tàu rộng 35 ft 1 in (10,69 m) và độ sâu mớn nước khi đầy tải là 8 ft 3 in (2,51 m). Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.140 tấn Anh (1.160 t); và lên đến 1.430 tấn Anh (1.450 t) khi đầy tải. Hệ thống động lực bao gồm bốn động cơ diesel General Motors Kiểu 16-278A nối với bốn máy phát điện để vận hành hai trục chân vịt; công suất 6.000 hp (4.500 kW) cho phép đạt được tốc độ tối đa 21 kn (24 mph; 39 km/h), và có dự trữ hành trình 4.150 nmi (4.780 mi; 7.690 km) khi di chuyển ở vận tốc đường trường 12 kn (14 mph; 22 km/h).[2]

Vũ khí trang bị bao gồm ba pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm hoặc phòng không, một khẩu đội 1,1 inch/75 caliber bốn nòng và chín pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và tám máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[2]

Donaldson được đặt lườn như là chiếc BDE-44 tại Xưởng hải quân Puget SoundBremerton, Washington vào ngày 12 tháng 1, 1943. Nó được hạ thủy vào ngày 1 tháng 8, 1943; được đỡ đầu bởi bà J. J. Donaldson, mẹ Trung úy Donaldson, và nhập biên chế vào ngày 1 tháng 12, 1943 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân H. L. Plage.[1]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện, Donaldson đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 9 tháng 2, 1944, để rồi lại lên đường năm ngày sau đó tham gia vào chiến dịch chiếm đóng quần đảo Marshall. Nó hộ tống một đoàn tàu vận tải đến Roi-Namur thuộc đảo san hô vòng Kwajalein, rồi phục vụ hộ tống vận tải tại chỗ cùng những chuyến đi đến Eniwetok, cho đến khi quay trở về Trân Châu Cảng vào ngày 25 tháng 3. Tại khu vực phụ cận Oahu, từ ngày 23 tháng 4 đến ngày 4 tháng 6, nó hoạt động huấn luyện cùng các tàu ngầm với phần lớn thời gian trong vai trò soái hạm của Đội hộ tống 49.[1]

Rời Trân Châu Cảng vào ngày 12 tháng 6 để hộ tống một đoàn tàu vận tải đi Kwajalein, Donaldson tiếp tục đi đến Eniwetok nơi nó gia nhập một đội tìm-diệt tàu ngầm được hình thành chung quanh tàu sân bay hộ tống Hoggatt Bay (CVE-75) và ba tàu khu trục hộ hộ tống khác. Đội đặc nhiệm đã hoạt động tại khu vực giữa quần đảo Marshall và quần đảo Mariana từ ngày 5 tháng 7 đến ngày 9 tháng 8. Con tàu quay trở về Trân Châu Cảng vào ngày 15 tháng 8, rồi lên đường năm ngày sau đó trong thành phần Đơn vị Đặc nhiệm 31.4.4, Lực lượng Đồn trú phía Tây, để tham gia chiến dịch đổ bộ lên Palau. Nó đã tuần tra ngoài khơi PeleliuAngaur từ ngày 20 đến ngày 22 tháng 9, rồi hộ tống các tàu vận tải rỗng quay trở lại Hollandia, New Guinea trước khi đi đến đảo Manus vào ngày 26 tháng 9. Chiều tối hôm đó nó hợp lực cùng với tàu chị em Crowley (DE-303) để dập tắt hỏa hoạn trên chiếc tàu buôn SS Don Marquis. Quay trở lại Palau vào ngày 2 tháng 10, nó hoạt động tuần tra chống tàu ngầm và thực hiện hai chuyến hộ tống vận tải đến khu vực quần đảo Russell cho đến ngày 21 tháng 11.[1]

Đi đến Ulithi vào ngày 21 tháng 11, Donaldson trình diện cùng Đệ Tam hạm đội để làm nhiệm vụ hộ tống bảo vệ các tàu tiếp liệu phục vụ cho các đội đặc nhiệm tàu sân bay nhanh. Chịu đựng một cơn bão vào ngày 18 tháng 12, con tàu bị tổn thất khi ba thành viên thủy thủ đoàn bị sóng cuốn qua mạn tàu và những hư hại khác, buộc nó phải được sửa chữa tại Ulithi từ ngày 24 tháng 12, 1944 đến ngày 12 tháng 1, 1945.[1]

Quay trở lại hoạt động cùng các đội tiếp liệu của Đệ Tam hạm đội, Donaldson hỗ trợ cho các chiến dịch đổ bộ tiếp theo lên Iwo JimaOkinawa, cũng như các hoạt động không kích sau cùng lên các đảo chính quốc Nhật Bản. Sau khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng, vào ngày 31 tháng 8, con tàu tham gia một đội tiếp liệu hoạt động trong biển Hoàng Hải để chiếm đóng Jinsen, Triều Tiên. Nó khởi hành từ Okinawa vào ngày 16 tháng 9 để quay trở về Hoa Kỳ ngang qua Saipan và Trân Châu Cảng.[1]

Về đến San Francisco, California vào ngày 8 tháng 10, Donaldson được cho xuất biên chế vào ngày 5 tháng 12, 1945, và con tàu được bán vào ngày 2 tháng 7, 1946 để tháo dỡ.[1]

Phần thưởng[2][sửa | sửa mã nguồn]

Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Silver star
Bronze star
Bronze star
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ Huân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương
với 7 Ngôi sao Chiến trận
Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g Naval Historical Center. Donaldson. Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  2. ^ a b c “USS Donaldson (DE-44)”. NavSource.org. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2021.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

  • Photo gallery of USS Donaldson (DE-44) at NavSource Naval History