HMS Capel (K470)

Anh Quốc
Tên gọi HMS Capel (K470)
Đặt tên theo Thomas Bladen Capel
Xưởng đóng tàu Xưởng hải quân Boston, Boston, Massachusetts
Đặt lườn 11 tháng 3, 1943 như là chiếc USS Wintle (DE-266)
Hạ thủy 22 tháng 4, 1943
Người đỡ đầu bà Mary Clyde Wintle
Trưng dụng 14 tháng 6, 1943
Nhập biên chế 16 tháng 8, 1943
Đổi tên Capel (K470), 14 tháng 6, 1943
Tình trạng Bị đánh chìm bởi ngư lôi của U-486, 26 tháng 12, 1944
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu
Kiểu tàu Tàu frigate
Trọng tải choán nước
  • 1.140 tấn Anh (1.160 t) (tiêu chuẩn);
  • 1.430 tấn Anh (1.450 t) (đầy tải)
Chiều dài
  • 283 ft 6 in (86,41 m) (mực nước);
  • 289 ft 5 in (88,21 m) (chung)
Sườn ngang 35 ft (11 m)
Mớn nước 10 ft (3,0 m)
Công suất lắp đặt 6.000 hp (4.500 kW)
Động cơ đẩy
Tốc độ 19 kn (22 mph; 35 km/h)
Tầm xa 4.150 nmi (4.780 mi; 7.690 km) ở vận tốc 12 kn (14 mph; 22 km/h)
Số tàu con và máy bay mang được
  • xuồng săn cá voi 27 foot (8,2 m) kiểu Hải quân Anh
  • xuồng tiêu chuẩn kiểu Hải quân Mỹ
Thủy thủ đoàn tối đa 175
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • Radar kiểu SA & SL
  • Sonar Kiểu 128D hoặc Kiểu 144
  • Ăn-ten định vị MF
  • Ăn-ten định vị cao tần Kiểu FH 4
Vũ khí

HMS Capel (K470) là một tàu frigate lớp Captain của Hải quân Hoàng gia Anh hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên được Hoa Kỳ chế tạo như là chiếc Wintle (DE-266), một tàu hộ tống khu trục lớp Evarts, và chuyển giao cho Anh Quốc theo Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Anh được đặt tên theo Đô đốc Sir Thomas Bladen Capel (1776-1853), người từng tham gia các cuộc Chiến tranh Cách mạng Pháp, Chiến tranh NapoleonChiến tranh 1812.[1] Nó đã phục vụ trong chiến tranh cho đến khi bị đánh chìm bởi ngư lôi phóng từ tàu ngầm U-boat Đức U-486 vào ngày 26 tháng 12, 1944 ngoài khơi Cherbourg, Pháp,

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Những tàu frigate lớp Captain thuộc phân lớp Evarts có chiều dài chung 289 ft 5 in (88,21 m), mạn tàu rộng 35 ft 1 in (10,69 m) và độ sâu mớn nước khi đầy tải là 8 ft 3 in (2,51 m). Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.140 tấn Anh (1.160 t); và lên đến 1.430 tấn Anh (1.450 t) khi đầy tải. Hệ thống động lực bao gồm bốn động cơ diesel General Motors Kiểu 16-278A nối với bốn máy phát điện để vận hành hai trục chân vịt; công suất 6.000 hp (4.500 kW) cho phép đạt được tốc độ tối đa 21 kn (24 mph; 39 km/h), và có dự trữ hành trình 4.150 nmi (4.780 mi; 7.690 km) khi di chuyển ở vận tốc đường trường 12 kn (14 mph; 22 km/h).[1]

Vũ khí trang bị bao gồm ba pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm hoặc phòng không, một khẩu đội 1,1 inch/75 caliber bốn nòng và chín pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và tám máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[1]

DE-266 được đặt lườn tại Xưởng hải quân BostonBoston, Massachusetts vào ngày 11 tháng 3, 1943; nó được hạ thủy vào ngày 22 tháng 4, 1943, được đỡ đầu bởi bà Mary Clyde Wintle,[1] vợ góa Thiếu tá Hải quân Jack William Wintle (1908-1942), người phục vụ trên tàu tuần dương hạng nặng San Francisco (CA-38), đã tử trận trong trận Hải chiến Guadalcanal và được truy tặng Huân chương Chữ thập Hải quân. Nó được chuyển giao cho Anh Quốc vào ngày 14 tháng 6, 1943 để thay thế cho chiếc DE-25, vốn được Hoa Kỳ giữ lại và đổi tên thành Wintle.[2] Nó mang ký hiệu lườn K470, và nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia Anh như là chiếc HMS Capel vào ngày 16 tháng 8, 1943,[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Bevil Grenfell Heslop.[3]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Capel phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh trong vai trò chính là hộ tống các đoàn tàu vận tải vượt Đại Tây Dương vào các năm 19431944. Nó được phân về Đội hộ tống 1 đặt căn cứ tại Belfast, Bắc Ireland từ ngày 9 tháng 4, 1944 để hoạt động tuần tra tại vùng biển giữa quần đảo Hebridesbiển Ireland, rồi thả neo tại vịnh Moelfre, Anglesey trong giai đoạn chuẩn bị cho cuộc đổ bộ Normandy. Con tàu lên đường vào ngày 5 tháng 5 để tham gia lực lượng tuần tra chống tàu ngầm tại phía Tây eo biển Manche để bảo vệ cho cuộc đổ bộ vào ngày 6 tháng 6, rồi quay trở về Belfast vào ngày 18 tháng 6 để nghỉ ngơi và bảo trì.[4]

Sau khi thành phố cảng Cherbourg, Pháp được giải phóng, Capel cùng Đội hộ tống 1 hoạt động bảo vệ các đoàn tàu vận tải vượt qua eo biển Manche đến Cherbourg, xen kẻ với những giai đoạn được bảo trì tại Plymouth. Đến cuối năm 1944, hải đội chuyển sang khu vực phía Đông eo biển để tuần tra tuyến đường vận tải đến cảng Antwerp, Bỉ vừa mới được giải phóng.[4]

Lúc 14 giờ 14 phút ngày 26 tháng 12, 1944, đang khi Capel cùng Đội hộ tống 1 hoạt động tuần tra tại vùng biển cách Cherbourg 10 nmi (19 km) về phía Đông-Đông Bắc, tàu ngầm U-boat Đức U-486 phát hiện ra hải đội và tấn công với ba quả ngư lôi dò âm G7es (T5);[5] một quả trúng vào Capel và một quả khác trúng tàu frigate Affleck.[3][4]

Affleck sống sót với tổn thất một thành viên thủy thủ đoàn tử trận, nó được kéo quay trở về cảng, nhưng được xem là một tổn thất toàn bộ. Trong khi đó Capel đắm tại tọa độ 49°50′B 1°41′T / 49,833°B 1,683°T / 49.833; -1.683. Những người sống sót được các xuồng phóng lôi Hoa Kỳ cứu vớt và đưa đến Cherbourg. Tuy nhiên, Thiếu tá B. G. Heslop hạm trưởng, tám sĩ quan cùng 67 người khác đã tử trận cùng con tàu.[3][4]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e “Wintle (DE-266)/HMS Capel (K.470)”. NavSource.org. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2021.
  2. ^ Wintle (DE-25). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command. ngày 24 tháng 6 năm 2015.
  3. ^ a b c Helgason, Guðmundur. “HMS Capel (K 470)”. Uboat.net. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2021.
  4. ^ a b c d “Operation of the 1st Escort Group”. The Captain Class Frigates Association. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2021.
  5. ^ Phía Đồng Minh đặt tên cho kiểu ngư lôi này là GNAT (German Navy Acoustic Torpedo - ngư lôi dò âm của Hải quân Đức)

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]