HMS Duff (K352)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Lamons (DE-64)
Đặt hàng 1942
Xưởng đóng tàu Bethlehem-Hingham Steel Shipyard, Hingham, Massachusetts
Đặt lườn 22 tháng 2, 1943[1]
Hạ thủy 22 tháng 5, 1943[1]
Ngừng hoạt động Chuyển giao cho Anh Quốc
Xóa đăng bạ 17 tháng 9, 1945[1]
Tái đăng bạ Được Anh hoàn trả, 28 tháng 8, 1945
Số phận Bán để tháo dỡ, tháng 5, 1947[1]
Lịch sử
Anh Quốc
Tên gọi HMS Duff (K352)
Đặt tên theo George Duff[2]
Nhập biên chế 23 tháng 8, 1943
Số phận
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Phân lớp Buckley
Trọng tải choán nước
  • 1.400 tấn Anh (1.422 t) (tiêu chuẩn)
  • 1.740 tấn Anh (1.768 t) (đầy tải)
Chiều dài 306 ft (93 m)
Sườn ngang 37 ft (11 m)
Mớn nước
  • 9 ft 6 in (2,90 m) (tiêu chuẩn)
  • 11 ft 3 in (3,43 m) (đầy tải)
Động cơ đẩy
  • 2 × nồi hơi ống nước Foster-Wheeler kiểu Express "D"
  • 2 × turbine hơi nước General Electric công suất 13.500 mã lực (10.100 kW), dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp)
  • 2 × động cơ điện công suất trục 12.000 shp (8,9 MW)
  • 2 × chân vịt ba cánh mangan-đồng nguyên khối đường kính 8 ft 6 in (2,59 m)
Tốc độ 23 hải lý trên giờ (43 km/h; 26 mph)
Tầm xa
  • 3.700 nmi (6.900 km) ở tốc độ 15 kn (28 km/h; 17 mph)
  • 6.000 nmi (11.000 km) ở tốc độ 12 kn (22 km/h; 14 mph)
Sức chứa 350 tấn dầu đốt
Thủy thủ đoàn tối đa 15 sĩ quan, 198 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • Radar dò tìm mặt biển Kiểu SL trên cột ăn-ten
  • Radar dò tìm không trung Kiểu SA (chỉ trên một số chiếc)
  • Sonar Kiểu 128D hay Kiểu 144 trong vòm thu vào được.
  • Ăn-ten định vị MF trước cầu tàu
  • Ăn-ten định vị cao tần Kiểu FH 4 trên đỉnh cột ăn-ten chính
Vũ khí

HMS Duff (K352) là một tàu frigate lớp Captain của Hải quân Hoàng gia Anh hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên được Hoa Kỳ chế tạo như chiếc USS Lamons (DE-64),[4] một tàu hộ tống khu trục lớp Buckley, và chuyển giao cho Anh Quốc theo Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Tên nó được đặt theo Đại tá Hải quân George Duff (1764-1805), hạm trưởng chiếc HMS Mars (1794), đã từng tham gia các cuộc Chiến tranh Độc lập Hoa Kỳ, Chiến tranh Cách mạng Pháp, Chiến tranh Napoleon, và đã tử trận trong Trận Trafalgar.[2] Nó đã phục vụ trong chiến tranh cho đến khi bị hư hại nặng do trúng thủy lôi ngoài khơi bờ biển Bỉ vào ngày 30 tháng 11, 1944. Được xem như một tổn thất toàn bộ, con tàu bị bán để tháo dỡ tại Hà Lan vào năm 1947.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Buckley là một trong số sáu lớp tàu hộ tống khu trục được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo nhằm đáp ứng nhu cầu hộ tống vận tải trong Thế Chiến II, sau khi Hoa Kỳ chính thức tham chiến vào cuối năm 1941. Chúng hầu như tương tự nhau, chỉ với những khác biệt về hệ thống động lực và vũ khí trang bị. Động cơ của phân lớp Backley bao gồm hai turbine hơi nước General Electric để dẫn động hai máy phát điện vận hành hai trục chân vịt, và dàn vũ khí chính bao gồm 3 khẩu pháo pháo 3 in (76 mm)/50 cal.[5][6]

Những chiếc phân lớp Buckley (TE) có chiều dài ở mực nước 300 ft (91 m) và chiều dài chung 306 ft (93 m); mạn tàu rộng 37 ft 1 in (11,30 m) và độ sâu mớn nước khi đầy tải là 11 ft 3 in (3,43 m). Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.430 tấn Anh (1.450 t); và lên đến 1.823 tấn Anh (1.852 t) khi đầy tải.[7] Hệ thống động lực bao gồm hai nồi hơi và hai turbine hơi nước General Electric công suất 13.500 mã lực (10.100 kW), dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp) để vận hành hai trục chân vịt; [5][6] công suất 12.000 hp (8.900 kW) cho phép đạt được tốc độ tối đa 23 kn (26 mph; 43 km/h). Con tàu mang theo 359 tấn Anh (365 t) dầu đốt, cho phép di chuyển đến 6.000 nmi (6.900 mi; 11.000 km) ở vận tốc đường trường 12 kn (14 mph; 22 km/h).[7]

Vũ khí trang bị bao gồm pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên ba tháp pháo nòng đơn đa dụng (có thể đối hạm hoặc phòng không), gồm hai khẩu phía mũi và một khẩu phía đuôi. Vũ khí phòng không tầm gần bao gồm hai pháo Bofors 40 mm và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Con tàu có ba ống phóng ngư lôi Mark 15 21 inch (533 mm). Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và bốn máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[7][8] Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 200 sĩ quan và thủy thủ.[7]

Duff được đặt lườn như là chiếc Lamons (DE-64) tại xưởng tàu của hãng Bethlehem-Hingham Steel ShipyardHingham, Massachusetts vào ngày 22 tháng 2, 1943 và được hạ thủy vào ngày 22 tháng 5, 1943.[1][2][3] Con tàu được chuyển giao cho Anh Quốc[4][Note 1] và nhập biên chế cùng Hải quân Anh như là chiếc HMS Duff (K352) vào ngày 23 tháng 8, 1943[1][2][3] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân John Richard Bradbury.[3]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Duff phục vụ hộ tống và tuần tra trước khi chuyển sang hoạt động như tàu Frigate Kiểm soát Lực lượng Duyên hải, chỉ huy một chi hạm đội xuồng phóng lôi MTB (Motor Torpedo Boat) hoạt động tại eo biển MancheBắc Hải nhằm đối phó các tàu E-Boat đối phương. Nó không tham dự trực tiếp vào cuộc đổ bộ Normandy vào ngày 6 tháng 6, 1944, nhưng sau đó đã hộ tống các tàu chở quân vận chuyển lực lượng tăng viện đi sang các bãi đổ bộ.[9]

Vào ngày 15 tháng 6, 1944, Chi hạm đội E-boat 4 Đức hoạt động rải mìn về phía Tây Le Havre đã đụng độ với chi hạm đội xuồng phóng lôi MTB do Duff chỉ huy. Nó không thể bắt kịp tốc độ của đội hình đối phương, nên đã gửi những chiếc MTB ra tấn công; kết quả là số tàu E-Boat đối phương rút lui và một chiếc MTB bị hư hại. Duff sau đó phát hiện qua radar một tốp E-Boat khác và đã tiếp cận hết tốc độ và tấn công. Một loạt ngư lôi được đối thủ phóng ra hướng đến nó, và con tàu phải cơ động né tránh. Thời tiết lúc này không thuận lợi làm giảm tốc độ những chiếc MTB, nên Duff vượt lên trước đơn độc đối đầu với đối phương, đánh chìm được một chiếc E-Boat. Ít lâu sau những chiếc MTB bắt kịp và tham gia trận chiến, đánh chìm thêm hai chiếc E-Boat; đối phương lúc này rút lui hết tốc độ dưới sự che chở của màn khói ngụy trang.[9]

Lúc 07 giờ 45 phút ngày 30 tháng 11, Duff trúng phải thủy lôi trong vùng biển Bắc Hải, ngoài khơi Ostend, Bỉ, và bị hư hại nặng. Con tàu cố lết được về Harwich, Anh; ba thành viên thủy thủ đoàn đã tử trận.[1][3] Do hư hại quá mức có thể sửa chữa một cách kinh tế, con tàu được xem như một tổn thất toàn bộ.[3]

Duff được hoàn trả trên danh nghĩa cho Hoa Kỳ vào ngày 28 tháng 8, 1945,[1][3] nhằm giảm bớt chi phí mà Anh phải trả cho Hoa Kỳ trong Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Tên nó được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 17 tháng 9, 1945,[1] và bị tháo dỡ tại Hà Lan vào tháng 5, 1947.[1][2]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Cái tên USS Lamons sau đó được đặt lại cho chiếc USS Lamons (DE-743), một tàu hộ tống khu trục lớp Cannon

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i j k Yarnall, Paul R (ngày 28 tháng 9 năm 2017). “Lamons (DE 64)/HMS Duff (K352)”. NavSource.org. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2021.
  2. ^ a b c d e Tynan, Roy (2003). “HMS Duff K352 (DE 64)”. Captain Class Frigate Association. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2021.
  3. ^ a b c d e f g Helgason, Guðmundur. “HMS Duff (K 352)”. uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2021.
  4. ^ a b Naval Historical Center. Lamons (DE-743). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  5. ^ a b Whitley 2000, tr. 309–310.
  6. ^ a b Friedman 1982, tr. 143–144, 146, 148–149.
  7. ^ a b c d Whitley 2000, tr. 151.
  8. ^ Elliott 1977, tr. 259.
  9. ^ a b Tynan, Roy (2003). “Operations of the Coastal Forces Control Frigates”. captainclassfrigates.co.uk. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2021.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]