HMS Affleck (K462)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu frigate HMS Affleck (K462) đang cặp cảng Belfast, Bắc Ireland sau một lượt hoạt động tại Đại Tây Dương
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Oswald (DE-71)
Đặt hàng 23 tháng 2, 1943 [1]
Xưởng đóng tàu Bethlehem-Hingham Steel Shipyard, Hingham, Massachusetts [2]
Đặt lườn 5 tháng 4, 1943 [2]
Hạ thủy 30 tháng 6, 1943 [2]
Ngừng hoạt động Chuyển giao cho Anh Quốc, 10 tháng 6, 1943 [1]
Xóa đăng bạ 17 tháng 9, 1945[2]
Tái đăng bạ Được Anh hoàn trả, tháng 8, 1945
Số phận Bán để tháo dỡ, 24 tháng 1, 1947[2]
Lịch sử
Anh Quốc
Tên gọi HMS Affleck (K462)
Đặt tên theo Edmund Affleck
Nhập biên chế 29 tháng 9, 1943 [2]
Số phận Hoàn trả cho Hoa Kỳ, tháng 8, 1945
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Phân lớp Buckley
Trọng tải choán nước
  • 1.400 tấn Anh (1.422 t) (tiêu chuẩn)
  • 1.740 tấn Anh (1.768 t) (đầy tải)
Chiều dài 306 ft (93 m)
Sườn ngang 37 ft (11 m)
Mớn nước
  • 9 ft 6 in (2,90 m) (tiêu chuẩn)
  • 11 ft 3 in (3,43 m) (đầy tải)
Động cơ đẩy
  • 2 × nồi hơi ống nước Foster-Wheeler kiểu Express "D"
  • 2 × turbine hơi nước General Electric công suất 13.500 mã lực (10.100 kW), dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp)
  • 2 × động cơ điện công suất trục 12.000 shp (8,9 MW)
  • 2 × chân vịt ba cánh mangan-đồng nguyên khối đường kính 8 ft 6 in (2,59 m)
Tốc độ 23 hải lý trên giờ (43 km/h; 26 mph)
Tầm xa
  • 3.700 nmi (6.900 km) ở tốc độ 15 kn (28 km/h; 17 mph)
  • 6.000 nmi (11.000 km) ở tốc độ 12 kn (22 km/h; 14 mph)
Sức chứa 350 tấn dầu đốt
Thủy thủ đoàn tối đa 15 sĩ quan, 198 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • Radar dò tìm mặt biển Kiểu SL trên cột ăn-ten
  • Radar dò tìm không trung Kiểu SA (chỉ trên một số chiếc)
  • Sonar Kiểu 128D hay Kiểu 144 trong vòm thu vào được.
  • Ăn-ten định vị MF trước cầu tàu
  • Ăn-ten định vị cao tần Kiểu FH 4 trên đỉnh cột ăn-ten chính
Vũ khí

HMS Affleck (K462) là một tàu frigate lớp Captain của Hải quân Hoàng gia Anh hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên được Hoa Kỳ chế tạo như chiếc USS Oswald (DE-71), một tàu hộ tống khu trục lớp Buckley, và chuyển giao cho Anh Quốc theo Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Tên nó được đặt theo Chuẩn đô đốc Sir Edmund Affleck (1725-1788), hạm trưởng chiếc HMS Bedford (1775) từng tham gia cuộc Chiến tranh Độc lập Hoa Kỳ.[1][3] Nó đã phục vụ trong Thế Chiến II cho đến khi bị hư hại do trúng ngư lôi phóng từ tàu ngầm U-486 ngoài khơi Cherbourg, Pháp vào ngày 26 tháng 12, 1944. Được kéo quay trở về cảng, con tàu được xem là một tổn thất toàn bộ. Trên danh nghĩa nó được hoàn trả cho Hoa Kỳ năm 1945 và cuối cùng bị bán vào năm 1947.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Buckley là một trong số sáu lớp tàu hộ tống khu trục được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo nhằm đáp ứng nhu cầu hộ tống vận tải trong Thế Chiến II, sau khi Hoa Kỳ chính thức tham chiến vào cuối năm 1941. Chúng hầu như tương tự nhau, chỉ với những khác biệt về hệ thống động lực và vũ khí trang bị. Động cơ của phân lớp Backley bao gồm hai turbine hơi nước General Electric để dẫn động hai máy phát điện vận hành hai trục chân vịt, và dàn vũ khí chính bao gồm 3 khẩu pháo pháo 3 in (76 mm)/50 cal.[4][5]

Những chiếc phân lớp Buckley (TE) có chiều dài ở mực nước 300 ft (91 m) và chiều dài chung 306 ft (93 m); mạn tàu rộng 37 ft 1 in (11,30 m) và độ sâu mớn nước khi đầy tải là 11 ft 3 in (3,43 m). Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.430 tấn Anh (1.450 t); và lên đến 1.823 tấn Anh (1.852 t) khi đầy tải.[6] Hệ thống động lực bao gồm hai nồi hơi và hai turbine hơi nước General Electric công suất 13.500 mã lực (10.100 kW), dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp) để vận hành hai trục chân vịt; [4][5] công suất 12.000 hp (8.900 kW) cho phép đạt được tốc độ tối đa 23 kn (26 mph; 43 km/h). Con tàu mang theo 359 tấn Anh (365 t) dầu đốt, cho phép di chuyển đến 6.000 nmi (6.900 mi; 11.000 km) ở vận tốc đường trường 12 kn (14 mph; 22 km/h).[6]

Vũ khí trang bị bao gồm pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên ba tháp pháo nòng đơn đa dụng (có thể đối hạm hoặc phòng không), gồm hai khẩu phía mũi và một khẩu phía đuôi. Vũ khí phòng không tầm gần bao gồm hai pháo Bofors 40 mm và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Con tàu có ba ống phóng ngư lôi Mark 15 21 inch (533 mm). Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và bốn máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[6][7] Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 200 sĩ quan và thủy thủ.[6]

Con tàu được đặt lườn như là chiếc Oswald (DE-71) tại xưởng tàu của hãng Bethlehem-Hingham Steel ShipyardHingham, Massachusetts vào ngày 5 tháng 4, 1943 và được hạ thủy vào ngày 30 tháng 6, 1943.[2][8] Tuy nhiên trước đó nó đã được chuyển giao cho Anh Quốc vào ngày 10 tháng 6, 1943,[1][Note 1] và nhập biên chế cùng Hải quân Anh như là chiếc HMS Affleck (K462) vào ngày 29 tháng 9, 1943[2] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại uý Hải quân Eric Ian Pilditch.[8]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Affleck đã phục vụ tuần túy cùng Đội hộ tống 1 khi tham gia các chiến dịch Đại Tây Dương, ngoài khơi Normandy và tại eo biển Manche. Vào ngày 19 tháng 2, 1944, nó cùng với tàu chị em Bentley (K465) cứu vớt 54 người sống sót từ chiếc tàu buôn Panama Colin, vốn bị đắm do trúng ngư lôi phóng từ tàu ngầm U-boat Đức U-859 vào ngày hôm trước tại tọa độ 54°16′B 31°58′T / 54,267°B 31,967°T / 54.267; -31.967. Đến ngày 26 tháng 2, nó phối hợp cùng Gore (K481)Gould (K476) tấn công bằng mìn sâu và hải pháo và đã đánh chìm tàu ngầm U-boat U-91 tại tọa độ 49°45′B 26°20′T / 49,75°B 26,333°T / 49.750; -26.333. Khi chiếc U-boat bị hư hại nổi lên mặt nước và tìm cách húc Affleck, cuộc đối đầu tiếp theo đã khiến 36 thành viên thủy thủ đoàn U-91 tử trận, chỉ còn lại 16 người sống sót.[9][1]

Vào ngày 1 tháng 3, Affleck cùng với Gore, GouldGarlies (K475) đã phối hợp tấn công bằng mìn sâu đánh chìm tàu ngầm U-boat U-358 tại vị trí về phía Bắc quần đảo Azores, ở tọa độ 45°46′B 23°16′T / 45,767°B 23,267°T / 45.767; -23.267. 50 thành viên thủy thủ đoàn U-385 đã tử trận, chỉ có một người duy nhất sống sót.[10] Tại eo biển Gibraltar vào ngày 16 tháng 3, nó phối hợp cùng tàu khu trục Vanoc (H33) và ba thủy phi cơ PBY Catalina thuộc Liên đội Tuần tra VP-63 Hải quân Hoa Kỳ, tấn công bằng Hedgehog và đã đánh chìm tàu ngầm U-boat U-392 tại tọa độ 35°55′B 05°41′T / 35,917°B 5,683°T / 35.917; -5.683. Toàn bộ 52 thành viên thủy thủ đoàn của U-392 đều tử trận.[11][1]

Đến ngày 25 tháng 6, nó phối hợp với HMS Balfour tấn công bằng mìn sâu một mục tiêu tàu ngầm được tin là chiếc U-1191, và đánh chìm đối thủ tại vị trí khoảng 25 nmi (46 km) về phía Nam Start Point trong eo biển Manche.[12] Tuy nhiên tài liệu chính thức của Hải quân Đức thu được sau chiến tranh cho thấy U-1191 chỉ bị đánh chìm tại eo biển Manche bởi Onslaught (G04), Oribi (G66), Brissenden (L79), Wensleydale (L86), Talybont (L18)Seymour (K563) vào ngày 3 tháng 7.[13][1]

Vào ngày 26 tháng 12, tại vị trí ngoài khơi Cherbourg, Pháp trong eo biển Manche, lúc 14 giờ 14 phút, tàu ngầm U-boat U-486 đã phóng ba quả ngư lôi dò âm G7es (T5) nhắm vào Đội hộ tống 1, và đã đánh trúng AffleckCapel (K470). Capel bị đắm trong khi Affleck hư hại nặng nhưng vẫn nổi được và được kéo về cảng; tuy nhiên hư hại nó chịu đựng nghiêm trọng đến mức con tàu được xem là một tổn thất toàn bộ.[14][1]

Tiếp tục neo đậu tại Anh, Affleck được chính thức hoàn trả cho Hoa Kỳ vào tháng 8, 1945, nhằm giảm bớt chi phí mà Anh phải trả cho Hoa Kỳ trong Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Nó được bán cho hãng Transcontinental Victory Commercial Corporation Ltd. tại Lisbon, Bồ Đào Nha vào ngày 24 tháng 1, 1947, được sửa chữa và tiếp tục hoạt động như chiếc tàu buôn Nostra De La Luz cho đến thập niên 1970.[1][15]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Cái tên USS Oswald sau đó được đặt lại cho chiếc USS Oswald (DE-767), một tàu hộ tống khu trục lớp Cannon

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i Naval Historical Center. Affleck. Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  2. ^ a b c d e f g h Yarnall, Paul R (ngày 22 tháng 10 năm 2013). “Oswald (DE 71)/HMS Affleck (K462)”. NavSource.org. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2021.
  3. ^ Tynan, Roy (2003). “HMS Affleck K462 (DE 71)”. Captain Class Frigate Association. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2021.
  4. ^ a b Whitley 2000, tr. 309–310.
  5. ^ a b Friedman 1982, tr. 143–144, 146, 148–149.
  6. ^ a b c d Whitley 2000, tr. 151.
  7. ^ Elliott 1977, tr. 259.
  8. ^ a b Helgason, Guðmundur. “HMS Affleck (K 462)”. uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2021.
  9. ^ Helgason, Guðmundur. “U-91”. uboat.net. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2021.
  10. ^ Helgason, Guðmundur. “U-358”. uboat.net. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2021.
  11. ^ Helgason, Guðmundur. “U-392”. uboat.net. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2021.
  12. ^ McCartney 2002.
  13. ^ Helgason, Guðmundur. “U-1191”. uboat.net. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2021.
  14. ^ Helgason, Guðmundur. “U-486”. uboat.net. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2021.
  15. ^ “HMS Affleck”. uboat.net. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2018.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]