USS Earl V. Johnson (DE-702)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Earl V. Johnson (DE-702)
Đặt tên theo Earl Vincent Johnson
Đặt hàng 1942
Xưởng đóng tàu Defoe Shipbuilding Company, Bay City, Michigan
Đặt lườn 7 tháng 9, 1943
Hạ thủy 24 tháng 11, 1943
Người đỡ đầu bà Selma E. Johnson
Nhập biên chế 18 tháng 3, 1944
Xuất biên chế 18 tháng 6, 1946
Xóa đăng bạ 1 tháng 5, 1967
Danh hiệu và phong tặng 1 × Ngôi sao Chiến trận
Số phận Bán để tháo dỡ, 3 tháng 9, 1968
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp Buckley
Trọng tải choán nước
  • 1.400 tấn Anh (1.422 t) (tiêu chuẩn)
  • 1.740 tấn Anh (1.768 t) (đầy tải)
Chiều dài 306 ft (93 m)
Sườn ngang 37 ft (11 m)
Mớn nước
  • 9 ft 6 in (2,90 m) (tiêu chuẩn)
  • 11 ft 3 in (3,43 m) (đầy tải)
Động cơ đẩy
  • 2 × nồi hơi ống nước Foster-Wheeler kiểu Express "D"
  • 2 × turbine hơi nước General Electric công suất 13.500 mã lực (10.100 kW), dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp)
  • 2 × động cơ điện công suất trục 12.000 shp (8,9 MW)
  • 2 × chân vịt ba cánh mangan-đồng nguyên khối đường kính 8 ft 6 in (2,59 m)
Tốc độ 23 hải lý trên giờ (43 km/h; 26 mph)
Tầm xa
  • 3.700 nmi (6.900 km) ở tốc độ 15 kn (28 km/h; 17 mph)
  • 6.000 nmi (11.000 km) ở tốc độ 12 kn (22 km/h; 14 mph)
Sức chứa 350 tấn dầu đốt
Thủy thủ đoàn tối đa 15 sĩ quan, 198 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • Radar dò tìm mặt biển Kiểu SL trên cột ăn-ten
  • Radar dò tìm không trung Kiểu SA (chỉ trên một số chiếc)
  • Sonar Kiểu 128D hay Kiểu 144 trong vòm thu vào được.
  • Ăn-ten định vị MF trước cầu tàu
  • Ăn-ten định vị cao tần Kiểu FH 4 trên đỉnh cột ăn-ten chính
Vũ khí

USS Earl V. Johnson (DE-702) là một tàu hộ tống khu trục lớp Buckley được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo Trung úy Hải quân Earl Vincent Johnson (1913-1942), phi công thuộc Liên đội Tuần tiễu VS-5 phục vụ cùng tàu sân bay Yorktown (CV-5), đã tử trận trong trận chiến biển Coralvào ngày 8 tháng 5, 1942, và đã được truy tặng Huân chương Chữ thập Hải quân.[1][2] Nó đã phục vụ cho đến khi chiến tranh kết thúc, xuất biên chế năm 1946 và bị tháo dỡ năm 1968. Earl V. Johnson được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Những chiếc thuộc lớp tàu hộ tống khu trục Buckley có chiều dài chung 306 ft (93 m), mạn tàu rộng 37 ft 1 in (11,30 m) và độ sâu mớn nước khi đầy tải là 11 ft 3 in (3,43 m). Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.400 tấn Anh (1.400 t); và lên đến 1.740 tấn Anh (1.770 t) khi đầy tải.[3] Hệ thống động lực bao gồm hai turbine hơi nước General Electric công suất 13.500 mã lực (10.100 kW), dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp) để vận hành hai trục chân vịt; [4][5] công suất 12.000 hp (8.900 kW) cho phép đạt được tốc độ tối đa 23 kn (26 mph; 43 km/h), và có dự trữ hành trình 6.000 nmi (6.900 mi; 11.000 km) khi di chuyển ở vận tốc đường trường 12 kn (14 mph; 22 km/h).[6]

Vũ khí trang bị bao gồm ba pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm hoặc phòng không, một khẩu đội 1,1 inch/75 caliber bốn nòng và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và tám máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[6][7] Khác biệt đáng kể so với lớp Evarts dẫn trước là chúng có thêm ba ống phóng ngư lôi Mark 15 21 inch (533 mm). Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 186 sĩ quan và thủy thủ.[6]

Earl V. Johnson được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Defoe Shipbuilding Company tại Bay City, Michigan vào ngày 7 tháng 9, 1943. Nó được hạ thủy vào ngày 24 tháng 11, 1943; được đỡ đầu bởi bà Selma E. Johnson, mẹ Trung úy Johnson, và nhập biên chế vào ngày 18 tháng 3, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Jules James Jordy.[1][2][8]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện tại khu vực Bermuda và sửa chữa sau chạy thử máy, từ ngày 23 tháng 5 đến ngày 19 tháng 11, 1944, Earl V. Johnson đã hoàn tất ba chuyến hộ tống vận tải khứ hồi vượt Đại Tây Dương, vận chuyển binh lính và tiếp liệu từ Norfolk, Virginia sang các cảng CasablancaBizerte tại Bắc Phi. Sau khi thực hành huấn luyện ngoài khơi Boston, Massachusetts, nó khởi hành từ New York để đi sang khu vực Mặt trận Thái Bình Dương. Sau các chặng dừng tại Norfolk, kênh đào PanamaBora Bora thuộc quần đảo Society, nó đi đến căn cứ tại đảo Manus thuộc quần đảo Admiralty vào ngày 22 tháng 1, 1945.[1]

Earl V. Johnson được phân công vai trò tuần tra tại khu vực Philippines, cũng như hộ tống các đoàn tàu vận tải đi lại giữa New Guineavịnh Leyte cho đến ngày 17 tháng 4. Sau đó nó hỗ trợ cho cuộc tấn công chiếm đóng Okinawa tại quần đảo Ryukyu cùng các cuộc không kích lên chính quốc Nhật Bản, khi hộ tống các tàu bè vận chuyển lực lượng và tiếp liệu đến các căn cứ tiền phương tại Kossol RoadsUlithi. Nó khởi hành từ Leyte vào ngày 25 tháng 7 cùng một đoàn tàu đổ bộ Landing Ship, Tank (LST) để hướng sang Okinawa, và trong chặng quay trở về vào ngày 4 tháng 8, nó dò được tín hiệu sonar của một tàu ngầm đối phương. Sau cuộc đối đầu kéo dài ba tiếng đồng hồ, Earl V. Johnson bị hư hại, nhưng các đợt tấn công của nó đưa đến kết quả một vụ nổ ngầm lớn dưới biển. Tuy nhiên tài liệu của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thu được sau chiến tranh cho thấy tàu ngầm I-53 đối phương đã sống sót được qua vụ tấn công. [1][9]

Sau khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8 giúp kết thúc cuộc xung đột, Earl V. Johnson đi đến Okinawa vào ngày 4 tháng 9, rồi một tuần sau đó đã làm nhiệm vụ chiếm đóng Jinsen, Triều TiênĐại Cô Khẩu gần Thiên Tân, Trung Quốc. Nó đã phục vụ hướng dẫn tàu bè, tuần tra chống tàu ngầm cũng như tìm kiếm và phá hủy thủy lôi. Con tàu rời vịnh Buckner, Okinawa vào ngày 8 tháng 11 để quay trở về Hoa Kỳ, về đến Boston vào ngày 15 tháng 12.[1]

Earl V. Johnson được cho xuất biên chế vào ngày 18 tháng 6, 1946 và đưa về thành phần dự bị tại Jacksonville, Florida. Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 5, 1967, và con tàu bị bán để tháo dỡ vào ngày 3 tháng 9, 1968.[1][2]<ref>[10]

Phần thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Earl V. Johnson được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][2]

Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bronze star
Bronze star
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bản mẫu:Ribbon devices/alt Bản mẫu:Ribbon devices/alt Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ Huân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương
với 1 Ngôi sao Chiến trận
Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II Huân chương Phục vụ Chiếm đóng Hải quân Huân chương Giải phóng Philippine
(Philippine)

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g Naval Historical Center. Earl V. Johnson (DE-702). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  2. ^ a b c d Yarnall, Paul R. (ngày 10 tháng 8 năm 2018). “USS Earl V. Johnson (DE 702)”. NavSource.org. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2021.
  3. ^ Whitley 2000, tr. 300.
  4. ^ Whitley 2000, tr. 309–310.
  5. ^ Friedman 1982, tr. 143–144, 146, 148–149.
  6. ^ a b c Whitley 2000, tr. 300–301.
  7. ^ Friedman 1982, tr. 146, 418.
  8. ^ Helgason, Guðmundur. “USS Earl V. Johnson (DE 702)”. uboat.net. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2021.
  9. ^ Hackett, Bob; Kingsepp, Sander. “IJN Submarine I-53: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2021.
  10. ^ Bauer & Roberts 1991, tr. 231.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]