Bước tới nội dung

USS Eichenberger (DE-202)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu hộ tống khu trục USS Eichenberger (DE-202) ngoài khơi Charleston, South Carolina, khoảng năm 1943
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Eichenberger (DE-202)
Đặt tên theo Charles Emil Eichenberger Jr.
Đặt hàng 1942
Xưởng đóng tàu Xưởng hải quân Charleston, Charleston, South Carolina
Đặt lườn 15 tháng 4, 1943
Hạ thủy 22 tháng 7, 1943
Nhập biên chế 17 tháng 11, 1943
Xuất biên chế 16 tháng 5, 1946
Xóa đăng bạ 1 tháng 12, 1972[1]
Danh hiệu và phong tặng 4 × Ngôi sao Chiến trận
Số phận Bán để tháo dỡ, 1 tháng 11, 1973[1]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp Buckley
Trọng tải choán nước
  • 1.400 tấn Anh (1.422 t) (tiêu chuẩn)
  • 1.740 tấn Anh (1.768 t) (đầy tải)
Chiều dài 306 ft (93 m)
Sườn ngang 37 ft (11 m)
Mớn nước
  • 9 ft 6 in (2,90 m) (tiêu chuẩn)
  • 11 ft 3 in (3,43 m) (đầy tải)
Động cơ đẩy
  • 2 × nồi hơi ống nước Foster-Wheeler kiểu Express "D"
  • 2 × turbine hơi nước General Electric công suất 13.500 mã lực (10.100 kW), dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp)
  • 2 × động cơ điện công suất trục 12.000 shp (8,9 MW)
  • 2 × chân vịt ba cánh mangan-đồng nguyên khối đường kính 8 ft 6 in (2,59 m)
Tốc độ 23 hải lý trên giờ (43 km/h; 26 mph)
Tầm xa
  • 3.700 nmi (6.900 km) ở tốc độ 15 kn (28 km/h; 17 mph)
  • 6.000 nmi (11.000 km) ở tốc độ 12 kn (22 km/h; 14 mph)
Sức chứa 350 tấn dầu đốt
Thủy thủ đoàn tối đa 15 sĩ quan, 198 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • Radar dò tìm mặt biển Kiểu SL trên cột ăn-ten
  • Radar dò tìm không trung Kiểu SA (chỉ trên một số chiếc)
  • Sonar Kiểu 128D hay Kiểu 144 trong vòm thu vào được.
  • Ăn-ten định vị MF trước cầu tàu
  • Ăn-ten định vị cao tần Kiểu FH 4 trên đỉnh cột ăn-ten chính
Vũ khí

USS Eichenberger (DE-202) là một tàu hộ tống khu trục lớp Buckley được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo Thiếu úy Hải quân Charles Emil Eichenberger Jr. (1920–1942), phi công phục vụ cùng Liên đội Tiêm kích VF-5 trên tàu sân bay Saratoga (CV-3) và đã tử trận trong chiến đấu vào ngày 12 tháng 9, 1942.[2][3] Nó đã phục cho đến khi chiến tranh kết thúc, xuất biên chế năm 1946 và bị tháo dỡ năm 1973. Eichenberger được tặng thưởng bốn Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Những chiếc thuộc lớp tàu hộ tống khu trục Buckley có chiều dài chung 306 ft (93 m), mạn tàu rộng 37 ft 1 in (11,30 m) và độ sâu mớn nước khi đầy tải là 11 ft 3 in (3,43 m). Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.400 tấn Anh (1.400 t); và lên đến 1.740 tấn Anh (1.770 t) khi đầy tải.[4] Hệ thống động lực bao gồm hai turbine hơi nước General Electric công suất 13.500 mã lực (10.100 kW), dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp) để vận hành hai trục chân vịt; [5][6] công suất 12.000 hp (8.900 kW) cho phép đạt được tốc độ tối đa 23 kn (26 mph; 43 km/h), và có dự trữ hành trình 6.000 nmi (6.900 mi; 11.000 km) khi di chuyển ở vận tốc đường trường 12 kn (14 mph; 22 km/h).[7]

Vũ khí trang bị bao gồm ba pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm hoặc phòng không, một khẩu đội 1,1 inch/75 caliber bốn nòng và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và tám máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[7][8] Khác biệt đáng kể so với lớp Evarts dẫn trước là chúng có thêm ba ống phóng ngư lôi Mark 15 21 inch (533 mm). Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 186 sĩ quan và thủy thủ.[7]

Eichenberger được đặt lườn tại Xưởng hải quân CharlestonCharleston, South Carolina vào ngày 15 tháng 4, 1943. Nó được hạ thủy vào ngày 22 tháng 7, 1943; được đỡ đầu bởi bà Charles E. Eichenberger, vợ góa Thiếu úy Eichenberger, và nhập biên chế vào ngày 17 tháng 11, 1943 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Ned Harrell.[2][3][9]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn tất chuyến đi chạy thử máy huấn luyện tại khu vực Bermuda, Eichenberger khởi hành từ Norfolk, Virginia vào ngày 26 tháng 1, 1944 để đi sang khu vực Mặt trận Thái Bình Dương. Nó hộ tống một đoàn tàu vận tải chuyển quân đi đến Espiritu Santo, rồi tiếp tục hộ tống cho các tàu tiếp dầu hạm đội khi chúng tiếp nhiên liệu cho các đội đặc nhiệm tàu sân bay nhanh của Đệ Ngũ hạm đội. Nó đi đến vịnh Milne vào ngày 7 tháng 4 để làm nhiệm vụ tuần tra chống tàu ngầm, hộ tống vận tải và trinh sát phục vụ cho lực lượng chiếm đóng New Guinea. Con tàu đã hỗ trợ cho hoạt động đổ bộ tại Biakvịnh Humboldt, cũng như cuộc đổ bộ ban đầu lên Wakde trong tháng 5tháng 6, rồi hộ tống các đoàn tàu vận tải xuất phát từ đảo Manus.[2]

Sau khi hoạt động tuần tra tại khu vực quần đảo Palau từ ngày 20 tháng 10 đến ngày 9 tháng 11, Eichenberger khởi hành từ Hollandia vào ngày 22 tháng 11 cùng đoàn thứ nhất trong số hai đoàn tàu vận tải hướng sang vịnh San Pedro, Leyte. Vào ngày 4 tháng 1, 1945, nó đang trên đường đi sang Mindoro khi tàu sân bay hộ tống Ommaney Bay (CVE-79) bị máy bay tấn công tự sát Kamikaze đánh trúng. Chiếc tàu khu trục đã vớt được hai người rơi xuống nước và cử một đội cứu hộ trên một xuồng săn cá voi sang trợ giúp chiếc tàu sân bay, trong khi bản thân nó phải tiếp tục nhiệm vụ cùng đoàn tàu vận tải. Khi quay trở lại cùng con tàu bị nạn, hai thủy thủ của Eichenberger được phái sang giúp tàu bạn đã tử trận do mảnh đạn từ thủy lôi chứa trên chiếc tàu sân bay bị kích nổ do hỏa hoạn. Nhiều thủy thủ của Ommaney Bay đã xuồng săn cá voi của nó vớt lên khỏi nước, khi chiếc tàu sân bay bị bỏ lại lúc 17 giờ 50 phút và bị đánh chìm có chủ định lúc 19 giờ 58 phút.[2]

Tiếp tục tuần tra tại khu vực vịnh Mangarin, Eichenberger đã hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Mindoro, và sau đó hộ tống hai đoàn tàu tiếp liệu đi từ vịnh Subic đến Mindoro trước khi quay trở lại vịnh San Pedro, Leyte vào ngày 24 tháng 2. Con tàu tiếp tục phục vụ tại vùng biển Philippines trong vai trò tuần tra và hộ tống vận tải, chủ yếu tại khu vực vịnh Subic cho đến khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8 giúp kết thúc cuộc xung đột. Nó lên đường đi Okinawa, Nhật Bản vào ngày 27 tháng 8, và đã hộ tống đoàn tàu vận tải vượt qua một cơn bão an toàn trước khi đến nơi vào ngày 8 tháng 9. Trong một chuyến đi tương tự, nó đã cứu vớt sáu người sống sót từ một máy bay bị rơi trên biển.[2]

Quay trở lại Philippines, Eichenberger đón lên tàu những hành khách cho hành trình quay trở về Hoa Kỳ; con tàu về đến San Diego, California vào ngày 23 tháng 10. Nó được cho xuất biên chế vào ngày 14 tháng 5, 1946[2][3] và được đưa về Hạm đội Dự bị Thái Bình Dương, neo đậu tại San Diego; con tàu không bao giờ được đưa ra hoạt động trở lại. Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 12, 1972,[1][3] và con tàu được bán cho hãng National Metal and Steel Corp. tại Terminal Island, Los Angeles, vào ngày 1 tháng 11, 1973 để tháo dỡ.[1][3]

Phần thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

Eichenberger được tặng thưởng bốn Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[2][3]

Bronze star
Bronze star
Bronze star
Bronze star
Dãi băng Hoạt động Tác chiến
(truy tặng)
Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ
Huân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương
với 4 Ngôi sao Chiến trận
Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II Huân chương Giải phóng Philippine
(Philippine)

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d “EICHENBERGER (DE 202)”. Naval Vessel Register. United States Department of Defense. ngày 4 tháng 3 năm 2002. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2020.
  2. ^ a b c d e f g Naval Historical Center. Eichenberger (DE-202). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  3. ^ a b c d e f Yarnall, Paul R. (ngày 3 tháng 2 năm 2020). “USS Eichenberger (DE 202)”. NavSource.org. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2021.
  4. ^ Whitley 2000, tr. 300.
  5. ^ Whitley 2000, tr. 309–310.
  6. ^ Friedman 1982, tr. 143–144, 146, 148–149.
  7. ^ a b c Whitley 2000, tr. 300–301.
  8. ^ Friedman 1982, tr. 146, 418.
  9. ^ Helgason, Guðmundur. “USS Eichenberger (DE 202)”. uboat.net. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2021.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]