USS Sailfish (SS-192)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu ngầm USS Sailfish (SS-192) ngoài khơ Xưởng hải quân Mare Island, Vallejo, California, ngày 13 tháng 4 năm 1943
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Squalus (SS-192)
Đặt tên theo một chi cá mập thuộc bộ Cá nhám góc [1]
Xưởng đóng tàu Xưởng hải quân Portsmouth, Kittery, Maine [2]
Đặt lườn 18 tháng 10, 1937 [2]
Hạ thủy 14 tháng 9, 1938 [2]
Người đỡ đầu bà Caroline Brownson Hart
Nhập biên chế 1 tháng 3, 1939 [2]
Xuất biên chế 15 tháng 11, 1939 [2]
Đổi tên Sailfish, 9 tháng 2, 1940
Số phận
Tên gọi USS Sailfish (SS-192)
Đặt tên theo chi Cá buồm[3]
Nhập biên chế 15 tháng 5, 1940 [2]
Xuất biên chế 27 tháng 10, 1945 [2]
Xóa đăng bạ 30 tháng 4, 1948 [4]
Danh hiệu và phong tặng
Số phận Bán để tháo dỡ, 18 tháng 6, 1948 [2]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Sargo
Kiểu tàu tàu ngầm tổ hợp dẫn động trực tiếp và diesel-điện [5]
Trọng tải choán nước
  • 1.450 tấn Anh (1.470 t) (mặt nước) [6]
  • 2.350 tấn Anh (2.390 t) (lặn) [6]
Chiều dài 310 ft 6 in (94,64 m) [6]
Sườn ngang 26 ft 10 in (8,18 m) [6]
Mớn nước 16 ft 8 in (5,08 m) [6]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa 11.000 hải lý (20.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h)[6]
Tầm hoạt động 48 giờ lặn ở tốc độ 2 hải lý trên giờ (3,7 km/h)[6]
Độ sâu thử nghiệm
  • 250 ft (80 m)
  • độ sâu bị ép vỡ khoảng 450 ft (140 m)[6]
Thủy thủ đoàn tối đa 5 sĩ quan, 54 thủy thủ[6]
Vũ khí

USS Sailfish (SS-192) là một tàu ngầm lớp Sargo được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Ban đầu mang tên Squalus, tên đặt theo một chi cá mập thuộc bộ Cá nhám góc,[1] nó bị đắm trong khi lặn thử nghiệm ngoài khơi bờ biển New Hampshire vào ngày 23 tháng 5, 1939, khiến 26 thành viên thủy thủ đoàn tử nạn. Nó được trục vớt, sửa chữa và tái biên chế vào tháng 5, 1940 như là chiếc Sailfish, là tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên chi Cá buồm.[3] Nó đã phục vụ trong suốt Thế Chiến II, thực hiện tổng cộng mười hai chuyến tuần tra và đánh chìm bảy tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 45.029 tấn.[9] Được rút ra khỏi hoạt động trên tuyến đầu vào đầu năm 1945, nó đảm nhiệm vai trò huấn luyện cho đến khi xung đột chấm dứt, và xuất biên chế vào cuối năm 1945. Con tàu cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1948. Sailfish được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống cùng chín Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế[sửa | sửa mã nguồn]

Đặc tính của lớp Sargo hầu như tương tự với Lớp Salmon dẫn trước, duy trì một tốc độ 21 hải lý trên giờ (39 km/h) để hoạt động phối hợp với các thiết giáp hạm trong đội hình hạm đội.[6] Ngoài ra, tầm hoạt động 11.000 hải lý (20.000 km) cho phép chúng tuần tra đến tận vùng biển nhà Nhật Bản.[6] Hệ thống động lực "tổng hợp" bao gồm bốn động cơ diesel, gồm hai chiếc vận hành trực tiếp trục chân vịt và hai chiếc để chạy máy phát điện dùng cho nạp ắc quy hay tăng tốc trên mặt nước.[10]

Lớp Sargo có chiều dài 310 foot 6 inch (94,64 m), với trọng lượng choán nước khi nổi là 1.450 tấn Anh (1.470 t) và khi lặn là 2.350 tấn Anh (2.390 t).[6] Chúng là lớp tàu ngầm đầu tiên được lắp đặt một kiểu ắc-quy a-xít chì mới "Kiểu Sargo" chịu đựng được hư hại trong chiến đấu nhờ lớp vỏ kép giúp ngăn ngừa việc rò rỉ acid sulfuric,[11] có dung lượng nhỉnh hơn với 126 cell và điện áp danh định tăng lên 270 volt.[12] Vũ khí trang bị chính gồm tám ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm bốn ống trước mũi và bốn ống phía đuôi, một hải pháo 3 inch/50 caliber trên boong tàu và bốn súng máy M1919 Browning .30-caliber (7,62 mm).[6]

Chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Squalus được đặt lườn tại Xưởng hải quân PortsmouthKittery, Maine vào ngày 18 tháng 10, 1937.Nó được hạ thủy vào ngày 14 tháng 9, 1938, được đỡ đầu bởi bà Caroline Brownson Hart, phu nhân Đô đốc Thomas C. Hart,[13] và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 1 tháng 3, 1939 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Oliver F. Naquin.[1][4][14][15]

Bị đắm và công tác cứu hộ[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi được sửa chữa tại xưởng tàu, từ ngày 12 tháng 5, 1939, Squalus tiến hành một loạt các đợt lặn thử nghiệm ngoài khơi Portsmouth, New Hampshire. Trong đợt lặn vào sáng ngày 23 tháng 5 ngoài khơi quần đảo Shoals, van nạp khí chính bị hỏng[Ghi chú 1][16] đã khiến ngập nước phòng ngư lôi phía sau, cả hai phòng động cơ và khoang nghỉ của thủy thủ, khiến 26 người bị đuối nước ngay lập tức.[17] Phản ứng nhanh chóng của thủy thủ đoàn đã ngăn cho các khoang khác không bị ngập nước, và Squalus đắm tại tọa độ 42°53′B 70°37′T / 42,883°B 70,617°T / 42.883; -70.617, ở độ sâu 243 ft (74 m).[16]

Squalus nhanh chóng được tàu chị em Sculpin (SS-191) tìm thấy, và duy trì được liên lạc qua đường điện thoại. Thợ lặn từ tàu cứu hộ tàu ngầm Falcon (AM-28) bắt đầu hoạt động cứu hộ dưới dự chỉ huy của một chuyên gia cứu hộ, Thiếu tá Hải quân Charles Momsen, sử dụng buồng cứu hộ McCann; sĩ quan Y học Cao cấp giám sát quá trình là bác sĩ Charles Wesley Shilling.[18] Dưới sự hướng dẫn của nhà nghiên cứu Albert R. Behnke, các thợ lặn áp dụng quy trình lặn sử dụng hỗn hợp khí Heliox (79% Heli và 21% Oxi) để tránh hội chứng mất tri giác do lặn sâu, qua đó đã chứng minh giả thuyết nghiện nitrogen của Behnke.[19] Các thợ lặn đã giải cứu 33 người còn lại trên tàu, bao gồm một nhân viên dân sự. Bốn thợ lặn William Badders, Orson L. Crandall, James H. McDonaldJohn Mihalowski được tặng thưởng Huân chương Danh dự do thành tích giải cứu này, một kết quả khả quan so với tai nạn của tàu ngầm Anh Thetis trong vịnh Liverpool chỉ một tuần sau đó.[Ghi chú 2][20]

Trục vớt và tái biên chế như là chiếc Sailfish[sửa | sửa mã nguồn]

SS-192 trong ụ tàu sau khi được trục vớt

Công việc trục vớt Squalus do Chuẩn đô đốc Cyrus W. Cole, chỉ huy trưởng Xưởng hải quân Portsmouth giám sát. Công việc do Đại úy Floyd A. Tusler thuộc Văn phòng Chế tạo và Sửa chữa thực hiện, dưới sự trợ giúp của Trung tá Henry Hartley, trợ lý về kỹ thuật.[21] Kế hoạch của Tusler dự tính sẽ nâng con tàu làm ba giai đoạn, để không nổi lên quá nhanh một đầu mất kiểm soát, nhiều khả năng sẽ chìm trở lại.[22] Trong 50 ngày, thợ lặn buộc dây cáp bên dưới chiếc tàu ngầm và nối vào các ụ nổi. Vào ngày 13 tháng 7, 1939, phần đuôi đã nổi lên thành công, nhưng trượt khỏi dây cáp và đắm trở lại.[23] Thêm 20 ngày chuẩn bị nữa với thiết kế lại ụ ổi và cách bố trí các sới dây cáp, trước khi Squalus được trục vớt thành công và kéo đến Xưởng hải quân Portsmouth vào ngày 13 tháng 9.[24] Con tàu xuất biên chế vào ngày 15 tháng 11, 1939.[1][4][15]

SS-192 được đổi tên thành Sailfish vào ngày 9 tháng 2, 1940, trở thành tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên chi Cá buồm. Sau khi được sửa chữa, tân trang và đại tu, nó tái biên chế vào ngày 15 tháng 5, 1940 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Morton C. Mumma Jr.[3][4][15][25]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

1940 - 1941[sửa | sửa mã nguồn]

Phần thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Sailfish được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống cùng chín Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[3][4] Nó được ghi công đã đánh chìm bảy tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 45.029 tấn.[9]

Bản mẫu:Ribbon devices/alt Bản mẫu:Ribbon devices/alt Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Silver star
Bronze star
Bronze star
Bronze star
Bronze star
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Dãi băng Hoạt động Tác chiến Đơn vị Tuyên Dương Tổng thống Huân chương Phục vụ Phòng vệ Hoa Kỳ
Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ Huân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương
với 9 Ngôi sao Chiến trận
Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Sự cố tương tự đã từng xảy ra trên các chiếc SturgeonSnapper. Sau sự cố này, một thiết kế tin cậy hơn của Electric Boat được áp dụng trên các tàu ngầm mới được chế tạo.
  2. ^ Trên chiếc Thetis, 99 trong số 103 thủy thủ, nhân sự hải quân và nhân viên dân sự đã tử nạn do ngộ độc carbon dioxide. HMS Thetis cũng được trục vớt và tái hoạt động.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d Naval Historical Center. Squalus (SS-192). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  2. ^ a b c d e f g h Friedman 1995, tr. 285–304
  3. ^ a b c d e Naval Historical Center. Sailfish I (SS-192). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  4. ^ a b c d e f Yarnall, Paul R. “Squalus/Sailfish (SS-192)”. NavSource.org. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2024.
  5. ^ a b c d e f Bauer & Roberts 1991, tr. 269-270
  6. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Friedman 1995, tr. 305-311
  7. ^ Friedman 1995, tr. 202–204
  8. ^ Friedman 1995, tr. 310
  9. ^ a b The Joint Army-Navy Assessment Committee. “Japanese Naval and Merchant Shipping Losses During World War II by All Causes”. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2022.
  10. ^ Friedman 1995, tr. 203
  11. ^ “Sargo class, U.S. Submarine”. The Pacific War Online Encyclopedia. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2024.
  12. ^ Friedman 1995, tr. 265
  13. ^ “New Submarine, Squalus, Launched”. The Burlington Free Press. Burlington, Vermont. Associated Press. 15 tháng 9 năm 1938. tr. 1. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2019 – qua newspapers.com.
  14. ^ “Sub Squalus Is Commissioned”. The Portsmouth Herald. Portsmouth, New Hampshire. 2 tháng 3 năm 1939. tr. 6. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2019 – qua newspapers.com.
  15. ^ a b c Helgason, Guðmundur. “Sailfish (SS-192)”. uboat.net. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2024.
  16. ^ a b Blair 1975, tr. 67
  17. ^ Submarine Casualties Booklet. U.S. Naval Submarine School. 1966.
  18. ^ “Dr. Shilling steps down as UMS leader after 13 years”. Pressure, Newsletter of the Undersea and Hyperbaric Medical Society. 15 (2): 1, 6–8. 1992. ISSN 0889-0242.
  19. ^ Acott, C. (1999). “A brief history of diving and decompression illness”. South Pacific Underwater Medicine Society Journal. 29 (2). ISSN 0813-1988. OCLC 16986801. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2009.Quản lý CS1: URL hỏng (liên kết)
  20. ^ Booth, Tony (2008). Thetis Down – The Slow Death of a Submarine. Pen & Sword Maritime. ISBN 978-1-84415-859-1.
  21. ^ “USS Squalus (SS-192): Salvage of, 1939”. Naval History & Heritage Command. Washington, D.C.: Department of the Navy, Naval Historical Center. 20 tháng 7 năm 2000. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2011.
  22. ^ “The Rescue and Salvage of the Submarine "Squalus". Life. Time Inc.: 29 12 tháng 6 năm 1939. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2024.
  23. ^ Faber, John (1978). Great news photos and the stories behind them (ấn bản 2). Courier Dover Publications. tr. 82–83. ISBN 0-486-23667-6.
  24. ^ Momsen, Charles B. (6 tháng 10 năm 1939). “Rescue and Salvage of U.S.S. Squalus”. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2011.
  25. ^ Blair 1975, tr. 902

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]