USS Seadragon (SS-194)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu ngầm USS Seadragon (SS-194) tại Provincetown, Massachusetts, ngày 28 tháng 8 năm 1939
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Seadragon (SS-194)
Đặt tên theo loài hải long lá [1]
Xưởng đóng tàu Electric Boat Company, Groton, Connecticut [2]
Đặt lườn 18 tháng 4, 1938 [2]
Hạ thủy 21 tháng 4, 1939 [2]
Người đỡ đầu bà May F. Richardson
Nhập biên chế 23 tháng 10, 1939 [2]
Tái biên chế 8 tháng 2, 1946 [2]
Xuất biên chế
Xóa đăng bạ 30 tháng 4, 1948 [2]
Danh hiệu và phong tặng 11 × Ngôi sao Chiến trận [1][3]
Số phận Bán để tháo dỡ, 2 tháng 7, 1948 [2]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Sargo
Kiểu tàu tàu ngầm diesel-điện [4]
Trọng tải choán nước
  • 1.450 tấn Anh (1.470 t) (mặt nước) [5]
  • 2.350 tấn Anh (2.390 t) (lặn) [5]
Chiều dài 310 ft 6 in (94,64 m) [5]
Sườn ngang 26 ft 10 in (8,18 m) [5]
Mớn nước 16 ft 8 in (5,08 m) [5]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa 11.000 hải lý (20.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h)[5]
Tầm hoạt động 48 giờ lặn ở tốc độ 2 hải lý trên giờ (3,7 km/h)[5]
Độ sâu thử nghiệm
  • 250 ft (80 m)
  • độ sâu bị ép vỡ khoảng 450 ft (140 m)[5]
Thủy thủ đoàn tối đa 5 sĩ quan, 54 thủy thủ[5]
Vũ khí

USS Seadragon (SS-194) là một tàu ngầm lớp Sargo được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên loài hải long lá.[1] Nó đã phục vụ trong suốt Thế Chiến II, thực hiện tổng cộng mười ba chuyến tuần tra và đánh chìm mười tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 43.450 tấn.[8] Được rút ra khỏi hoạt động trên tuyến đầu vào đầu năm 1945, nó đảm nhiệm vai trò huấn luyện cho đến khi xung đột chấm dứt, và xuất biên chế vào năm 1946. Con tàu cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1948. Seadragon được tặng thưởng mười một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Đặc tính của lớp Sargo hầu như tương tự với Lớp Salmon dẫn trước, duy trì một tốc độ 21 hải lý trên giờ (39 km/h) để hoạt động phối hợp với các thiết giáp hạm trong đội hình hạm đội.[5] Ngoài ra, tầm hoạt động 11.000 hải lý (20.000 km) cho phép chúng tuần tra đến tận vùng biển nhà Nhật Bản.[5] Hệ thống động lực "tổng hợp" bao gồm bốn động cơ diesel, gồm hai chiếc vận hành trực tiếp trục chân vịt và hai chiếc để chạy máy phát điện dùng cho nạp ắc quy hay tăng tốc trên mặt nước.[9]

Lớp Sargo có chiều dài 310 foot 6 inch (94,64 m), với trọng lượng choán nước khi nổi là 1.450 tấn Anh (1.470 t) và khi lặn là 2.350 tấn Anh (2.390 t).[5] Chúng là lớp tàu ngầm đầu tiên được lắp đặt một kiểu ắc-quy a-xít chì mới "Kiểu Sargo" chịu đựng được hư hại trong chiến đấu nhờ lớp vỏ kép giúp ngăn ngừa việc rò rỉ acid sulfuric,[10] có dung lượng nhỉnh hơn với 126 cell và điện áp danh định tăng lên 270 volt.[11] Seadragon được trang bị kiểu động cơ Hooven-Owens-Rentschler (H.O.R.) 9-xy lanh hoạt động hai chiều vốn gặp nhiều trục trặc kỹ thuật. Trong một cố gắng tạo ra công suất lớn hơn từ một động cơ nhỏ, kiểu động cơ hoạt động hai chiều tỏ ra kém tin cậy. Vào giai đoạn giữa Thế Chiến II chúng được thay thế bởi động cơ GM Cleveland Diesel 16-278A, có thể vào lượt đại tu vào đầu năm 1943.[12]

Vũ khí trang bị chính gồm tám ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm bốn ống trước mũi và bốn ống phía đuôi, một hải pháo 3 inch/50 caliber trên boong tàu và bốn súng máy M1919 Browning .30-caliber (7,62 mm).[5]

Seadragon được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Electric Boat CompanyGroton, Connecticut vào ngày 18 tháng 4, 1938. Nó được hạ thủy vào ngày 21 tháng 4, 1939, được đỡ đầu bởi bà May F. Richardson, phu nhân Đô đốc James O. Richardson, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 23 tháng 10, 1939 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân John Graham Johns.[1][3][13]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

1939 - 1941[sửa | sửa mã nguồn]

Sau chuyến đi chạy thử máy dọc theo bờ Đông Hoa Kỳ và vùng biển Caribe, Seadragon quay trở lại khu vực New England, rồi khởi hành từ New London, Connecticut vào ngày 23 tháng 5, 1940, với Tư lệnh Đội tàu ngầm 17 trên tàu, để đi sang quần đảo Philippine. Đi đến Cavite vào ngày 30 tháng 11, nó thực hành huấn luyện trong thành phần Hạm đội Á Châu. Một năm sau đó, con tàu bắt đầu một đợt đại tu tại Xưởng hải quân Cavite từ ngày 8 tháng 12, 1941 (7 tháng 12 bên kia Đường đổi ngày quốc tế), đúng vào ngày Hải quân Đế Quốc Nhật Bản bất ngờ tấn công căn cứ Trân Châu Cảng, khiến chiến tranh bùng nổ tại Mặt trận Thái Bình Dương.[1]

Hai ngày sau đó 10 tháng 12, Seadragon cùng tàu chị em Sealion (SS-195) đang neo đậu với nhau trong xưởng tàu khi bị máy bay đối phương tấn công. Một quả bom đánh trúng trực tiếp đã phá hủy Sealion, đồng thời gây hư hại cho Seadragon đang neo đậu kế bên. Sức ép của vụ nổ làm hư hại cầu tàu, mảnh bom xuyên thủng các thùng dằn và tháp chỉ huy, làm thiệt mạng một thủy thủ và bị thương năm người khác. Một xưởng ngư lôi trên bờ gần đó cũng bị đánh trúng và hỏa hoạn lan đến gần một con tàu chất đầy ngư lôi neo đậu gần Seadragon. Bất chấp nguy hiểm, tàu cứu hộ tàu ngầm Pigeon (ASR-6) đã đi đến và kéo Seadragon thoát khỏi vùng nguy hiểm, và chiếc tàu ngầm đi đến vịnh Manila bằng động lực của chính mình.[1]

Sau khi được sửa chữa tạm thời bởi Pigeontàu tiếp liệu tàu ngầm Canopus (AS-9), trong đêm 15 tháng 12, Seadragon đón lên tàu các thành viên Ban tham mưu Hạm đội Á Châu, rồi khởi hành từ vịnh Manila lúc nữa đêm ngày 16 tháng 12. Được tàu khu trục Bulmer (DD-222) hộ tống, nó di chuyển về phía Nam, băng qua các eo biển SurigaoMakassar để đi đến Soerabaja, Java. Nó tiễn Ban tham mưu Hạm đội rời tàu và được sửa chữa nhằm chuẩn bị cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh.[1]

1942[sửa | sửa mã nguồn]

Chuyến tuần tra thứ nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Rời căn cứ hải quân tại Đông Ấn thuộc Hà Lan vào ngày 30 tháng 12, 1941, Seadragon hướng sang khu vực biển Đông để tuần tra dọc theo tuyến hàng hải đối phương ngoài khơi bờ biển Đông Dương thuộc Pháp. Đi đến ngoài khơi vịnh Cam Ranh vào ngày 8 tháng 1, 1942, nó phát hiện một tàu khu trục đối phương hai ngày sau đó, phóng hai quả ngư lôi tấn công nhưng đều bị trượt; tàu chiến đối phương tiếp tục hành trình mà không dừng lại phản công. Đến giữa trưa, nó phát hiện một đoàn tàu vận tải, theo dõi mục tiêu cho đến 13 giờ 00 và tấn công nhưng vẫn không trúng mục tiêu; đoàn tàu đối phương đi vào vịnh Cam Ranh an toàn. Đến tối, chiếc tàu ngầm trồi lên mặt nước để nạp lại ắc-quy khi bị một tàu khu trục đối phương phát hiện; nó phải lặn khẩn cấp né tránh về phía Đông trong khi đối thủ thả hai lượt mìn sâu tấn công. [1]

Vào sáng ngày 12 tháng 1, Seadragon phải cơ động né tránh máy bay tuần tra đối phương. Đến xế trưa nó tiếp cận một đoàn tàu vận tải sáu chiếc, nhưng khi tiếp cận mục tiêu từ độ sâu kính tiềm vọng, nó bị máy bay tuần tra phát hiện. Ba loạt bom phát nổ gần tàu trong khi nó cố lặn sâu về phía Đông để né tránh. Khi trở lên mặt biển lúc 18 giờ 00 để đánh giá hư hại, lớp sơn màu đen mặt trên con tàu bị bong tróc nhiều chỗ, khiến con tàu dễ dàng bị phát hiện từ trên không ngay cả khi lặn nông. Từ đó con tàu buộc phải lặn ở độ sâu 140 foot (43 m) giữa các lần trinh sát bằng kính tiềm vọng, và cho đến 200 foot (61 m) tại các khu vực có máy bay tuần tra đối phương. [1]

Đến ngày 14 tháng 1, Seadragon tuần tra tại khu vực ngoài khơi mũi Dinh, rồi di chuyển xuống phía nam vào ngày hôm sau và đến ngày 16 tháng 1 đã phục kích một đoàn tàu vận tải sắp tiến cận. Tuy nhiên chiếc tàu ngầm lại bị phát hiện từ trên không lúc 11 giờ 15 phút và bị ném bom, nên buộc phải quay trở lại khu vực mũi Dinh, nơi có độ sâu đủ lớn cho phép tuần tra gần bờ. Trong suốt sáu ngày tiếp theo, nó bắt gặp nhiều mục tiêu nhưng không có cơ hội tấn công, cho đến rạng sáng ngày 23 tháng 1. Phát hiện một đoàn tàu bốn chiếc, nó theo dõi mục tiêu cho đến 08 giờ 06 phút, rồi tấn công chiếc tàu buôn dẫn đầu và ghi được một quả ngư lôi trúng đích và đuôi mục tiêu bên mạn trái. Chiếc tàu ngầm phóng bồi thêm hai quả nữa nhưng lại bị trượt, và trong khi các tàu đối phương phân tán, mục tiêu thứ nhất ngập nước phần đuôi và nghiêng sang mạn trái. Seadragon trồi lên mặt nước để truy đuổi, nhưng sự xuất hiện của máy bay đối phương buộc nó phải bỏ dỡ cuộc tấn công. [1]

Tiếp tục ở lại ngoài khơi bờ biển Đông Dương thuộc Pháp thêm bốn ngày nữa, Seadragon sau đó lên đường đi Luzon. Nó tuần tra dọc bờ biển giữa vịnh Subicvịnh Lingayen từ ngày 29 tháng 1, canh phòng ngoài khơi San Fernando vào ngày 1 tháng 2, rồi sang sáng sớm ngày hôm sau 2 tháng 2 đã tấn công ngầm một đoàn tàu vận tải năm chiếc. Chiếc thứ tư trong đoàn tàu, tàu vận tải Tamagawa Maru (6.441 tấn), trúng ngư lôi và đắm ngoài khơi Bolinao, tại tọa độ 17°16′B 119°48′Đ / 17,267°B 119,8°Đ / 17.267; 119.800; [14][15][16] 48 hành khách và thủy thủ đã thiệt mạng cùng con tàu. Sau đó chiếc tàu ngầm tiếp tục tuần tra về phía Nam.[1]

Đến đêm 4 tháng 2, Seadragon tiến vào vịnh Manila và thả neo lúc 22 giờ 03 phút, được tiếp tế ngư lôi, thiết bị vô tuyến và phụ tùng cho đến 03 giờ ngày 5 tháng 2. Nó đi ra vùng nước sâu và nằm dưới đáy biển cho đến đêm, rồi trồi lên mặt nước để đón 25 hành khách từ Corregidor. Trong số này có 17 thành viên của Station CAST, đơn vị tình báo tín hiệu vô tuyến và giải mật mã đặt căn cứ tại Cavite. Chiếc tàu ngầm khởi hành lúc 19 giờ 46 phút để đi sang Đông Ấn thuộc Hà Lan, đi đến Soerabaja vào ngày 13 tháng 2. Nó lại lên đường vào ngày 21 tháng 2 để đi sang Tjilatjap, và từ đây được lệnh chuyển đến Australia, đi đến Fremantle, Tây Úc vào ngày 4 tháng 3.[1]

Chuyến tuần tra thứ hai[sửa | sửa mã nguồn]

Khởi hành từ Frematle hai tuần sau đó cho chuyến tuần tra thứ hai, Seadragon thoạt tiên tiếp tục hướng sang vùng biển Đông Dương thuộc Pháp. Tuy nhiên lúc đang trên đường đi, nó được điều đến đảo Cebu, Philippines để vận chuyển nhiên liệu và thực phẩm đến Corregidor. Nó chất dỡ lên bờ mười quả ngư lôi cùng 250 quả đạn pháo 3 inch (76 mm), lấy chỗ cho 30 tấn thực phẩm,[17] rồi đến 20 giờ 53 phút ngày 8 tháng 4 đã cặp bên mạn Pigeon, và chuyển giao nhiên liệu cùng bảy tấn thực phẩm.[18] Chiếc tàu ngầm đón lên tàu 23 hành khách (bao gồm 17 thành viên cuối cùng của CAST),[19] rồi tiếp tục chuyến tuần tra lúc 21 giờ 29 phút.[1]

Phần thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Seadragon được tặng thưởng mười một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][3] Nó được ghi công đã đánh chìm mười tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 43.450 tấn.[8]

Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Silver star
Silver star
Bronze star
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Dãi băng Hoạt động Tác chiến
Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ Huân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương
với 11 Ngôi sao Chiến trận
Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n Naval Historical Center. Seadragon I (SS-194). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  2. ^ a b c d e f g h i Friedman 1995, tr. 285–304
  3. ^ a b c Yarnall, Paul R. “Seadragon (SS-194)”. NavSource.org. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2024.
  4. ^ a b c d e f Bauer 1991, tr. 269–270
  5. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Friedman 1995, tr. 305-311
  6. ^ Friedman 1995, tr. 202–204
  7. ^ Friedman 1995, tr. 310
  8. ^ a b The Joint Army-Navy Assessment Committee. “Japanese Naval and Merchant Shipping Losses During World War II by All Causes”. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2022.
  9. ^ Friedman 1995, tr. 203
  10. ^ “Sargo class, U.S. Submarine”. The Pacific War Online Encyclopedia. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2024.
  11. ^ Friedman 1995, tr. 265
  12. ^ Friedman 1995, tr. 263, 360-361
  13. ^ Helgason, Guðmundur. “Seadragon (SS-194)”. uboat.net. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2024.
  14. ^ Blair (2001), tr. 173.
  15. ^ The Joint Army-Navy Assessment Committee (tháng 2 năm 1947). “Japanese Naval and Merchant Shipping Losses During World War II by All Causes”. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2024.
  16. ^ Hackett, Bob (2016). “IJN TAMAGAWA MARU: Tabular Record of Movement”. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2024.
  17. ^ Blair (2001), tr. 194.
  18. ^ Blair (2001), tr. 194-195.
  19. ^ Blair (2001), tr. 195.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]