USS Saury (SS-189)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu ngầm USS Saury (SS-189) trên đường đi ngoài khơi Xưởng hải quân Mare Island
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Saury (SS-189)
Đặt tên theo một loài cá thu đao[1]
Xưởng đóng tàu Electric Boat Company, Groton, Connecticut [2]
Đặt lườn 28 tháng 6, 1937 [2]
Hạ thủy 20 tháng 8, 1938 [2]
Người đỡ đầu bà Mary E. Casbarian
Nhập biên chế 3 tháng 4, 1939 [2]
Xuất biên chế 22 tháng 6, 1946 [2]
Xóa đăng bạ 19 tháng 7, 1946 [2]
Danh hiệu và phong tặng 7 × Ngôi sao Chiến trận [1][3]
Số phận Bán để tháo dỡ, 19 tháng 5, 1947 [2]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Sargo
Kiểu tàu tàu ngầm tổ hợp dẫn động trực tiếp và diesel-điện [4]
Trọng tải choán nước
  • 1.450 tấn Anh (1.470 t) (mặt nước) [5]
  • 2.350 tấn Anh (2.390 t) (lặn) [5]
Chiều dài 310 ft 6 in (94,64 m) [5]
Sườn ngang 26 ft 10 in (8,18 m) [5]
Mớn nước 16 ft 8 in (5,08 m) [5]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa 11.000 hải lý (20.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h)[5]
Tầm hoạt động 48 giờ lặn ở tốc độ 2 hải lý trên giờ (3,7 km/h)[5]
Độ sâu thử nghiệm
  • 250 ft (80 m)
  • độ sâu bị ép vỡ khoảng 450 ft (140 m)[5]
Thủy thủ đoàn tối đa 5 sĩ quan, 54 thủy thủ[5]
Vũ khí

USS Saury (SS-189) là một tàu ngầm lớp Sargo được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên một loài cá thu đao.[1] Nó đã phục vụ trong suốt Thế Chiến II, thực hiện tổng cộng mười một chuyến tuần tra và đánh chìm năm tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 28.542 tấn.[8] Được rút ra khỏi hoạt động trên tuyến đầu vào đầu năm 1945, nó đảm nhiệm vai trò huấn luyện cho đến khi xung đột chấm dứt, và xuất biên chế vào năm 1946. Con tàu cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1947. Saury được tặng thưởng bảy Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Đặc tính của lớp Sargo hầu như tương tự với Lớp Salmon dẫn trước, duy trì một tốc độ 21 hải lý trên giờ (39 km/h) để hoạt động phối hợp với các thiết giáp hạm trong đội hình hạm đội.[5] Ngoài ra, tầm hoạt động 11.000 hải lý (20.000 km) cho phép chúng tuần tra đến tận vùng biển nhà Nhật Bản.[5] Hệ thống động lực "tổng hợp" bao gồm bốn động cơ diesel, gồm hai chiếc vận hành trực tiếp trục chân vịt và hai chiếc để chạy máy phát điện dùng cho nạp ắc quy hay tăng tốc trên mặt nước.[9]

Lớp Sargo có chiều dài 310 foot 6 inch (94,64 m), với trọng lượng choán nước khi nổi là 1.450 tấn Anh (1.470 t) và khi lặn là 2.350 tấn Anh (2.390 t).[5] Chúng là lớp tàu ngầm đầu tiên được lắp đặt một kiểu ắc-quy a-xít chì mới "Kiểu Sargo" chịu đựng được hư hại trong chiến đấu nhờ lớp vỏ kép giúp ngăn ngừa việc rò rỉ acid sulfuric,[10] có dung lượng nhỉnh hơn với 126 cell và điện áp danh định tăng lên 270 volt.[11] Saury được trang bị kiểu động cơ Hooven-Owens-Rentschler (H.O.R.) 9-xy lanh hoạt động hai chiều vốn gặp nhiều trục trặc kỹ thuật. Trong một cố gắng tạo ra công suất lớn hơn từ một động cơ nhỏ, kiểu động cơ hoạt động hai chiều tỏ ra kém tin cậy. Vào giai đoạn giữa Thế Chiến II chúng được thay thế bởi động cơ GM Cleveland Diesel 16-278A, có thể vào lượt đại tu vào đầu năm 1943.[12]

Vũ khí trang bị chính gồm tám ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm bốn ống trước mũi và bốn ống phía đuôi, một hải pháo 3 inch/50 caliber trên boong tàu và bốn súng máy M1919 Browning .30-caliber (7,62 mm).[5]

Saury được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Electric Boat CompanyGroton, Connecticut vào ngày 28 tháng 6, 1937. Nó được hạ thủy vào ngày 20 tháng 8, 1938, được đỡ đầu bởi bà Mary E. Casbarian, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 3 tháng 4, 1939 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân George Warren Patterson, Jr.[1][3][13]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

1939 - 1941[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi nhập biên chế, Saury chạy thử nghiệm tại khu vực New London, Connecticut cho đến tận Annapolis, Maryland, trước khi viếng thăm thành phố New York vào cuối tháng 4, 1939 nhân dịp Hội chơ Thế giới New York 1939. Đến giữa tháng 5, nó thử nghiệm kính tiềm vọng kiểu mới, rồi tiến hành chuyến đi chạy thử máy từ ngày 26 tháng 6 đến ngày 26 tháng 8, đi đến Newfoundland, Venezuela và vùng kênh đào Panama trước khi quay trở về New England. Con tàu đi vào Xưởng hải quân Portsmouth tại Kittery, Maine để sửa chữa sau chạy thử máy.[1]

Sau khi hoàn tất, Saury lên đường vào ngày 4 tháng 12 để đi sang vùng bờ Tây, băng qua kênh đào Panama vào ngày 12 tháng 12, rồi gia nhập Đội tàu ngầm 16 trực thuộc Hải đội Tàu ngầm 6 tại San Diego, California vào ngày 21 tháng 12. Đến tháng 4, 1940, nó lên đường tham gia cuộc tập trận Vấn đề Hạm đội XXI bao gồm 8 giai đoạn, mô phỏng một cuộc tấn công vào lực lượng phòng thủ khu vực Hawaii và tiêu diệt một hạm đội trước khi kịp tập trung hạm đội còn lại. Sau khi cuộc tập trận kết thúc, chiếc tàu ngầm đặt căn cứ tại Trân Châu Cảng.[1]

Saury thực hành huấn luyện tại vùng biển quần đảo Hawaii và cho đến tận đảo Midway cho đến khi nó quay trở về vùng bờ Tây vào tháng 9 để được đại tu tại Xưởng hải quân Mare Island. Từ tháng 3 đến tháng 10, 1941, nó hoạt động từ các căn cứ Trân Châu Cảng và San Diego, được điều sang Đội tàu ngầm 21 trực thuộc Hải đội Tàu ngầm 2 từ ngày 1 tháng 6 trước khi được điều sang căn cứ hoạt động mới tại Cavite, Philippines. Nó đi đến vịnh Manila vào giữa tháng 11, và đang ở tại đây khi Hải quân Nhật Bản bất ngờ tấn công Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12.[1]

Chuyến tuần tra thứ nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Rời vịnh Manila vào ngày 8 tháng 12 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh, Saury di chuyển lên phía Bắc để tìm cách ngăn chặn tàu bè Nhật thuộc lực lượng xâm chiếm. Việc thiếu sót một hệ thống nhận dạng khẩn cấp và vấn đề liên lạc vô tuyến gây ra nhiều khó khăn. Trong hai tuần lễ tiếp theo, nó tuần tra gần Vigan và dọc theo đường kinh tuyến 120 cho đến ngày 21 tháng 12, khi nó được lệnh đi đến vịnh Lingayen, sau khi có báo cáo của tàu ngầm Stingray (SS-186) về sự hiện diện của lực lượng Nhật Bản tại đây.[1]

Trước bình minh ngày 22 tháng 12, Saury tuần tra ngoài khơi San Fernando ở lối ra vào phía Bắc của vịnh, và di chuyển xuống phía Nam. Lúc 04 giờ 11 phút, nó phát hiện một tàu khu trục đối phương, nên phóng một quả ngư lôi tấn công lúc 04 giờ 24 phút; quả ngư lôi trúng đích nhưng không kích nổ. Đến 04 giờ 26 phút một tàu khu trục thứ hai xuất hiện, và kẻ đi săn trở thành con mồi. Saury phải cơ động lẫn tránh tại vùng nước tương đối nông trong vịnh; mìn sâu được đối phương thả xuống nhưng không gần hơn 1.000 yd (900 m). Nó rút lui theo hướng Tây Bắc cách xa khu vực tàu đối phương hoạt động, và thoát được vào lúc trưa. Đến chiều tối, nó tiếp tục xâm nhập vịnh, băng qua hàng tuần tra đối phương giữa San Fernando và Bolinao.[1]

Lúc khoảng 02 giờ 10 phút ngày 23 tháng 12, một tàu khu trục đối phương phát hiện Saury, buộc nó phải lặn xuống độ sâu 120 foot (37 m). Sáu phút sau đó, ba quả mìn sâu phát nổ trong phạm vi 200 thước Anh (200 m), rồi tiếp nối bởi hai quả nữa, nhưng chiếc tàu ngầm thoát được. Đến xế trưa, thêm một số mìn sâu được thả xuống tấn công, nhưng nó không bị hư hại. Sang ngày 24 tháng 12, nó phát hiện một tàu vận tải đang di chuyển nhanh sát bờ, nhưng nó không thể tấn công. Nhận mệnh lệnh mới, Saury chuẩn bị rời khỏi khu vực, nhưng lọt vào khu vực giữa hai tàu khu trục đối phương, và phải lẫn tránh đối thủ suốt đêm. Sang chiều tối hôm sau, một tàu khu trục lại tiếp cận, và nó phải lặn xuống độ sâu 140 foot (43 m) để né tránh mìn sâu. Trong đêm 27-28 tháng 12, chiếc tàu ngầm phải bỏ dỡ việc nạp điện ắc-quy để né tránh một đội tàu khu trục đối phương.[1]

1942[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 1 tháng 1, 1942, Saury phát hiện một đoàn tàu vận tải, nhưng không thể tiếp cận; rồi đến ngày 8 tháng 1, con tàu được lệnh rút lui về Đông Ấn thuộc Hà Lan. Di chuyển xuống phía Nam, nó tuần tra tại khu vực eo biển Basilan trong các ngày 1112 tháng 1. Vào lúc này Tarakan đã thất thủ, nên chiếc tàu ngầm hướng xuống phía Nam để tuần tra dọc tuyến đường giữa Davao và Tarakan. Đến ngày 19 tháng 1, quân Nhật đổ bộ lên Sandakan, Borneo, và nó đi đến Balikpapan để tiếp nhiên liệu và tiếp liệu. Nó lên đường vào ngày hôm sau để tuần tra về phía Celebes (nay là Sulawesi), trước khi tuần tra các lối tiếp cận Balikpapan.[1]

Khi các đơn vị Đồng Minh kéo đến eo biển Makassar vào ngày 23 tháng 1 trong một nỗ lực nhằm trì hoãn nhịp độ tấn công của đối phương, Saury hướng lên phía Bắc đến vùng cửa sông Mahakam với hy vọng tiêu diệt tàu bè đối phương đang hướng đến Balikpapan. Nó bị phát hiện vào sáng ngày 24 tháng 1, buộc phải lặn xuống và không thể tấn công. Sau khi quân Nhật chiếm được Balikpapan, chiếc tàu ngầm được lệnh tuần tra ngoài khơi mũi William, Tây Sulawesi, rồi di chuyển đến Java vào ngày 27 tháng 1. Nó gặp gỡ một tàu tuần tra Hà Lan vào ngày 30 tháng 1, rồi băng qua eo biển Madura để đến Soerabaja (nay là Surabaya).[1]

Chuyến tuần tra thứ hai[sửa | sửa mã nguồn]

Khi quân Nhật chiếm Makassar vào ngày 9 tháng 2, Saury khởi hành từ Soerabaja cho chuyến tuần tra thứ hai. Nó hướng sang phía Đông để tuần tra dọc bờ biển phía Bắc của quần đảo Sunda nhỏ, rồi đến ngày 13 tháng 2, lại đi lên phía Tây Bắc để tuần tra giữa KabaenaSelayar ngoài khơi bờ biển Celebes. Từ đây nó đi xuống phía Tây Nam để tuần tra lối tiếp cận eo biển Lombok. Trong đêm 19-20 tháng 2, nó được tin là quân Nhật đã đổ bộ lên Bali, phát hiện tàu đối phương, và đã lặn suốt 18 giờ để lẫn tránh mìn sâu từ tàu khu trục đối phương. Đến ngày 24 tháng 2, nó chuyển lên phía Bắc đến khu vực Đông Nam đảo Sepanjang thuộc quần đảo Kangean, nơi nó phát hiện một đoàn tàu vận tải và tấn công nhưng không có kết quả.[1]

Từ ngày 26 tháng 2 đến ngày 8 tháng 3, Saury tuần tra trong khu vực giữa đá Meinderts và quần đảo Kangean, ở lối tiếp cận phía Đông eo biển Madura. Tuy nhiên quân Nhật đã tấn công Soerabaja từ phía Bắc và phía Tây, và sau đó Batavia và Soerabaja thất thủ. Saury bắt đầu rút lui về hướng Australia từ ngày 9 tháng 3, và đi đến căn cứ mới tại Fremantle, Tây Úc vào ngày 17 tháng 3.[1]

Chuyến tuần tra thứ ba[sửa | sửa mã nguồn]

Saury khởi hành từ Fremantle vào ngày 28 tháng 4 cho chuyến tuần tra thứ ba, nhưng chỉ ba ngày sau đó một vết rò rỉ ở thùng dằn phía đuôi buộc nó phải quay về căn cứ để sửa chữa. Nó rời Fremantle vào ngày 7 tháng 5 để hướng lên phía Bắc, có mặt ngoài khơi Timor vào ngày 14 tháng 5, rồi tiến vào biển Flores hai ngày sau đó và tiếp tục đi sang biển Banda và bờ biển phía Đông Celebes. Ngoài khơi Wowoni vào ngày 18 tháng 5, nó phóng ba quả ngư lôi tấn công một tàu chở hành khách-hàng hóa mà không có kết quả. Sau khi ở lại khu vực thêm hai ngày để đánh chặn tàu bè đối phương đi đến Kendari, nó đi lên phía Bắc để tuần tra tại khu vực eo biển Greyhound và hành lang Molucca. Trong các ngày 2324 tháng 5, nó tuần tra ngoài khơi Manado ở mũi cực Bắc Celebes.[1]

Từ ngày 26 tháng 5, Saury tuần tra tại khu vư0c phía Đông biển Celebes. Hai ngày sau đó nó phát hiện và tấn công một tàu buôn được hoán cải thành tàu chở thủy phi cơ nhưng vẫn không thành công. Đến ngày 8 tháng 6, nó hướng xuống phía Nam để quay lại khu vực eo biển Greyhound và hành lang Molucca. Từ ngày 12 đến ngày 14 tháng 6, chiếc tàu ngầm lại tuần tra ngoài khơi Kendari, rồi đi đến hành lang Boeton vào ngày 15 tháng 6 để tiến vào biển Flores, nơi nó đi ngang Timor để quay về Australia. Con tàu về đến Fremantle vào ngày 28 tháng 6.[1]

Saury lên đường đi sang Albany, Tây Úc vào ngày 2 tháng 7, nơi nó tiến hành thử nghiệm ngư lôi Mark 14 vốn đang gặp nhiều trục trặc khi vận hành. Vào ngày 18 tháng 7, nó phóng thử nghiệm bốn quả ngư lôi vào lưới từ khoảng cách 850–900 yd (780–820 m), cài đặt ở độ sâu 10 ft (3,0 m). Từ ngày 23 đến ngày 25 tháng 7, nó hộ tống tàu tiếp liệu tàu ngầm Holland (AS-3) quay trở lại Fremantle, rồi chuẩn bị cho chuyến tuần tra tiếp theo tại khu vực Philippines.[1]

Chuyến tuần tra thứ tư[sửa | sửa mã nguồn]

Khởi hành vào ngày 31 tháng 3, Saury băng qua eo biển Lombok vào ngày 6 tháng 8, rồi mười ngày sau đó đã hoạt động dọc tuyến hàng hải giữa IloiloManila. Vào ngày 17 tháng 8, nó tuần tra trong khu vực eo biển Ambulongvịnh Mangarin, rồi sang ngày hôm sau đã di chuyển dọc bờ biển Mindoro đến mũi Calavite, Paluan, nơi nó hoạt động về phía Tây Corregidor. Đến ngày 20 tháng 8, chiếc tàu ngầm hoạt động dọc một tuyến hàng hải đối phương, và sang ngày hôm sau bắt gặp một tàu chở dầu nhưng không thể tiếp cận. Nó chuyển sang tuần tra dọc bờ biển cách bờ 5 mi (8,0 km).

Vào ngày 24 tháng 8, Saury lại tiếp cận vịnh Manila. Nó phát hiện một mục tiêu lúc 06 giờ 45 phút, nhưng cơn mưa giông lớn đã che lấp mục tiêu. Đến 09 giờ 52 phút, nó phóng hai quả ngư lôi tấn công, nhưng kính tiềm vọng gặp trục trặc nên nó không thể tiếp tục phóng thêm hai quả như dự định. Một tàu chở dầu nhỏ trúng ngư lôi lúc 09 giờ 54 phút và bị nghiêng 5 độ sang mạn trái. Nó lặn xuống độ sâu 200 ft (60 m) để tránh bị máy bay tuần tra đối phương phát hiện, nhưng đến 10 giờ 47 phút, một quả bom cũng nổ gần chiếc tàu ngầm, tiếp nối bởi những quả mìn sâu, và thêm hai quả bom nữa lần lượt lúc 11 giờ 50 phút và 11 giờ 52 phút. Cuộc truy đuổi kéo dài cho đến xế chiều và chấm dứt lúc 18 giờ 10 phút. Đến 19 giờ 21 phút, nó trồi lên mặt nước để nạp lại ắc-quy và rời khỏi khu vực với ba động cơ còn lại. Một giờ sau đó, nó lại phải lặn xuống né tránh một tàu khu trục.[1]

Trong đêm tiếp theo, Saury đụng độ một tàu khu trục hoặc một tàu phóng lôi; đang cần nạp điện lại cho ắc-quy, nên nó đã không tấn công. Thời tiết không thuận lợi trong ngày 29 tháng 8, và sang ngày 31 tháng 8, nó bắt gặp một tàu bệnh viện. Chiếc tàu ngầm hướng xuống phía Nam vào ngày 3 tháng 9, khi tình hình thời tiết đã cải thiện. [1]

Vào ngày 7 tháng 9, Saury được lệnh tuần tra ngoài khơi Makassar, và đang khi di chuyển trên mặt nước trong đêm 11 tháng 9, nó phát hiện một mục tiêu trong biển Banda, cách 30 mi (48 km) về phía Tây Bắc Kandari. Lúc 20 giờ 58 phút, nó phóng ba quả ngư lôi tấn công, và mục tiêu bị đánh trúng hai phút sau đó, hỏa hoạn lan ra khắp phần giữa con tàu. Mục tiêu nổ tung lúc 21 giờ 18 phút, và tàu vận chuyển máy bay Kanto Maru (8.606 tấn) đắm tại tọa độ 03°15′N 118°27′Đ / 3,25°N 118,45°Đ / -3.250; 118.450; 26 thủy thủ cùng 13 hành khách đã thiệt mạng cùng con tàu.[14][15] Saury rời khu vực eo biển Lombok vào ngày 17 tháng 9 để đi đến vịnh Exmouth, nơi nó chuyển nhiên liệu dư thừa sang một sà-lan, rồi tiếp tục hướng về căn cứ Fremantle, đến nơi vào ngày 23 tháng 9.[1]

Chuyến tuần tra thứ năm[sửa | sửa mã nguồn]

1945[sửa | sửa mã nguồn]

Cho đến khi chiến tranh kết thúc, Saury phục vụ tại vùng biển Hawaii trong vai trò tàu huấn luyện và giả lập mục tiêu để huấn luyện chống tàu ngầm. Nó lên đường vào ngày 19 tháng 8, 1945 để quay về San Francisco, California, và được cho ngừng hoạt động. Nó được cho xuất biên chế vào ngày 22 tháng 6, 1946,[1][3][13] rồi rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 19 tháng 7, 1946.[1][3][13] Con tàu bị bán cho hãng Learner Company tại Oakland, California để tháo dỡ vào tháng 5, 1947.[1][3][13]

Phần thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Saury được tặng thưởng bảy Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][3] Nó được ghi công đã đánh chìm năm tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 28.542 tấn.[8]

Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Silver star
Bronze star
Bronze star
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Dãi băng Hoạt động Tác chiến
Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ Huân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương
với 7 Ngôi sao Chiến trận
Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x Naval Historical Center. Saury (SS-189). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  2. ^ a b c d e f g Friedman 1995, tr. 285–304
  3. ^ a b c d e f Yarnall, Paul R. “Saury (SS-189)”. NavSource.org. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2024.
  4. ^ a b c d e f Bauer 1991, tr. 269–270
  5. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Friedman 1995, tr. 305-311
  6. ^ Friedman 1995, tr. 202–204, 310
  7. ^ Friedman 1995, tr. 310
  8. ^ a b The Joint Army-Navy Assessment Committee. “Japanese Naval and Merchant Shipping Losses During World War II by All Causes”. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2022.
  9. ^ Friedman 1995, tr. 203
  10. ^ “Sargo class, U.S. Submarine”. The Pacific War Online Encyclopedia. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2024.
  11. ^ Friedman 1995, tr. 265
  12. ^ Friedman 1995, tr. 263, 360-361
  13. ^ a b c d Helgason, Guðmundur. “Saury (SS-189)”. uboat.net. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2024.
  14. ^ The Joint Army-Navy Assessment Committee (tháng 2 năm 1947). “Japanese Naval and Merchant Shipping Losses During World War II by All Causes”. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2024.
  15. ^ Hackett, Bob; Kingsepp, Sander; Cundall, Peter (2007). “IJN KANTO MARU: Tabular Record of Movement”. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2024.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]