USS Sproston (DD-173)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
USS Sproston (DD-173)
Tàu khu trục USS Sproston (DD-173)
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Sproston (DD-173)
Đặt tên theo John G. Sproston
Xưởng đóng tàu Union Iron Works, San Francisco, California
Đặt lườn 20 tháng 4 năm 1918
Hạ thủy 10 tháng 8 năm 1918
Người đỡ đầu bà George J. Dennis
Nhập biên chế 12 tháng 7 năm 1919
Xuất biên chế 15 tháng 8 năm 1922
Xếp lớp lại DM-13, 17 tháng 7 năm 1920
Xóa đăng bạ 1 tháng 12 năm 1936
Số phận Đánh chìm như một mục tiêu, 20 tháng 7 năm 1937
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp tàu khu trục Wickes
Trọng tải choán nước
  • 1.154 tấn Anh (1.173 t) (thông thường),
  • 1.247 tấn Anh (1.267 t) (đầy tải)
Chiều dài 314,4 ft (95,83 m)
Sườn ngang 31 ft (9,45 m)
Mớn nước 9 ft (2,74 m)
Động cơ đẩy
  • 2 × turbine hơi nước hộp số Parsons;[1]
  • 4 × nồi hơi 300 psi (2.100 kPa);[1]
  • 2 × trục;
  • công suất 24.610 hp (18.350 kW)
Tốc độ 35,3 kn (65,4 km/h)
Thủy thủ đoàn tối đa 133 sĩ quan và thủy thủ
Vũ khí

USS Sproston (DD–173) là một tàu khu trục thuộc lớp Wickes của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được cải biến thành tàu rải mìn hạng nhẹ DM-13 trước khi ngừng hoạt động năm 1922. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Trung úy Hải quân John G. Sproston, một sĩ quan từng tham gia cuộc Nội chiến Hoa Kỳ.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Sproston được đặt lườn vào ngày 20 tháng 4 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng Union Iron WorksSan Francisco, California. Nó được hạ thủy vào ngày 10 tháng 8 năm 1918, được đỡ đầu bởi bà George J. Dennis, và được đưa ra hoạt động vào ngày 12 tháng 7 năm 1919.

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Sproston lên đường đi Hawaii và được phân về Hạm đội Thái Bình Dương vào mùa Thu năm 1919. Vào ngày 17 tháng 7 năm 1920, nó được xếp lại lớp từ tàu khu trục thành một tàu rải mìn hạng nhẹ với ký hiệu lườn DM-13, và tiếp tục hoạt động tại khu vực Trân Châu Cảng cho đến năm 1922. Vào ngày 15 tháng 8 năm 1922, Sproston được cho ngừng hoạt động tại đây và được đưa về Hạm đội Dự bị. Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 12 năm 1936, và sau đó lườn tàu bị đánh chìm như một mục tiêu vào ngày 20 tháng 7 năm 1937.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e Thomas, Donald I., CAPT USN "Recommissioning Destroyers, 1939 Style" United States Naval Institute Proceedings September 1979 tr. 71

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]