Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Minh Thành Tổ”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 39: Dòng 39:
Trong thời gian cai trị của mình, ông đã cử hai tướng Trương Phụ và Mộc Thạnh cầm quân sang đánh Đại Việt năm 1406. Hai tướng đó là hai trong số các tướng Uông Quảng Dương, Mộc Thạnh, Mộc Anh, Lưu Bá Ôn, Liễu Thăng, Vương Thông, Trần Hiệp, Hạ Bình, Hoàng Phúc, Thôi Tụ, Lý Lượng, Triệu Quân Dụng, Hồ Đại Hải, Lý Khánh, Trương Phụ, Lý Đằng. Uông Quảng Dương đứng đầu, có con gái là Uông Quảng Trinh, Liễu Thăng đứng thứ 5 còn Mộc Thạnh và Mộc Anh đứng thứ 2 và 3. Duy có Trương Phụ đứng thứ hai từ dưới lên sau Lý Đằng.
Trong thời gian cai trị của mình, ông đã cử hai tướng Trương Phụ và Mộc Thạnh cầm quân sang đánh Đại Việt năm 1406. Hai tướng đó là hai trong số các tướng Uông Quảng Dương, Mộc Thạnh, Mộc Anh, Lưu Bá Ôn, Liễu Thăng, Vương Thông, Trần Hiệp, Hạ Bình, Hoàng Phúc, Thôi Tụ, Lý Lượng, Triệu Quân Dụng, Hồ Đại Hải, Lý Khánh, Trương Phụ, Lý Đằng. Uông Quảng Dương đứng đầu, có con gái là Uông Quảng Trinh, Liễu Thăng đứng thứ 5 còn Mộc Thạnh và Mộc Anh đứng thứ 2 và 3. Duy có Trương Phụ đứng thứ hai từ dưới lên sau Lý Đằng.


Nhằm thủ tiêu nền [[văn hóa]] của [[người Việt]], ngay năm 1406, khi phát binh đánh [[Đại Ngu]], [[Minh Thành Tổ]] đã ban sắc viết:
:''Khi binh lính vào nước Nam, trừ các kinh [[Nho giáo|Nho gia]], kinh [[Phật]], [[đạo giáo|đạo Lão]] không thiêu hủy. Ngoài ra, tất cả sách vở, văn tự cho đến các loại văn tự ghi chép ca lý dân gian, hay sách dạy trẻ con học… đều đốt hết. Phàm những văn bia do Trung Quốc dựng từ xưa thì đều phải giữ cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá hủy tất cả, một chữ không để sót<ref>Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 338</ref>.''

Năm 1407, Minh Thành Tổ ra chiếu lệnh thứ hai nhằm hủy diệt văn văn hóa triệt để hơn<ref>Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 339</ref>.:
:''Nhiều lần trẫm đã bảo các ngươi, phàm An Nam có văn tự gì, kể cả các câu hát dân gian,… các bia dù dựng lên một mảnh, hễ nom thấy là phá hủy hết. … Sách vở do quân lính bắt được phải ra lệnh đốt luôn, chớ được lưu lại''

Sự hủy diệt đó khiến [[Ngô Sĩ Liên]], nhà sử học chứng kiến những sự kiện này than rằng:
:''Giáo mác đầy đường đâu cũng thấy quân Minh cuồng bạo. Sách vở cả nước thành một đống tro tàn''

Năm 1418, [[nhà Minh]] sai Hạ Thanh và Hạ Thì sang thu các loại sách ghi chép về sự tích xưa của người Việt đưa về Trung Quốc.
== Qua đời ==
== Qua đời ==



Phiên bản lúc 05:32, ngày 15 tháng 9 năm 2013

Minh Thành Tổ
Hoàng đế nhà Minh
Trị vì17 tháng 7, 140212 tháng 8, 1424
(22 năm, 26 ngày)[1]
Tiền nhiệmMinh Huệ Tông Chu Doãn Văn
Kế nhiệmMinh Nhân Tông Chu Cao Sí
Thông tin chung
Sinh17 tháng 4 năm Chí Chính thứ 20 nhà Nguyên
2 tháng 5 năm 1360
Ứng Thiên (nay là Nam Kinh)
Mất18 tháng 7 năm Vĩnh Lạc thứ 22 nhà Minh
12 tháng 8 năm 1424(1424-08-12) (64 tuổi)
Yumuchuan (nay là Ujimqin, Nội Mông Cổ)
An tángTrường lăng
Hậu phi
Hậu duệ
Tên thật
Chu Lệ (hay "Đệ")
朱棣
Niên hiệu
Vĩnh Lạc
永樂
Thụy hiệu
Thể thiên Hoằng đạo Cao minh Quảng vận Thánh vũ Thần công Thuần nhân Chí hiếu Văn hoàng đế
體天弘道高明廣運聖武神功純仁至孝文皇帝
Khải thiên Hoằng đạo Cao minh Triệu vận Thánh vũ Thần công Thuần nhân Chí hiếu Văn hoàng đế
啓天弘道高明肇運聖武神功純仁至孝文皇帝
(thụy đổi tháng 9 năm Gia Tĩnh thứ 17 (1538) thời Minh Thế Tông)
Miếu hiệu
Thái Tông
Thành Tổ
(đổi tháng 9 năm Gia Tĩnh thứ 17 (1538) thời Minh Thế Tông)
Tước hiệuHoàng đế
Triều đạiMinh
Thân phụThái Tổ Cao hoàng đế Chu Nguyên Chương
Thân mẫuHiếu Từ Cao hoàng hậu Mã thị

Minh Thành Tổ (chữ Hán: 明成祖) (2 tháng 5 năm 136012 tháng 8 năm 1424), tên thật là Chu Lệ (hay Đệ) (朱棣), dân tộc Hán, là vị hoàng đế thứ ba của nhà Minh, tại vị 1402 – 1424, tại vị 22 năm, niên hiệu Vĩnh Lạc (永樂).

Chu Đệ vốn được phong làm Yên Vương (燕王) vào tháng 5 năm 1370, đóng đô ở Bắc Bình (nay là Bắc Kinh). Ông là một người rất tham vọng, mạnh mẽ chủ trương bành trướng thế lực ra nước ngoài. Ông thành lập một hạm đội hùng hậu do Trịnh Hòa điều khiển. Trịnh Hòa (1371-1433) đã dẫn hạm đội xuống Bắc Úc, qua bán đảo Ả Rập và có tài liệu cho rằng Trịnh Hòa qua tận Mỹ châu.

Trong thời gian cai trị của mình, ông đã cử hai tướng Trương Phụ và Mộc Thạnh cầm quân sang đánh Đại Việt năm 1406. Hai tướng đó là hai trong số các tướng Uông Quảng Dương, Mộc Thạnh, Mộc Anh, Lưu Bá Ôn, Liễu Thăng, Vương Thông, Trần Hiệp, Hạ Bình, Hoàng Phúc, Thôi Tụ, Lý Lượng, Triệu Quân Dụng, Hồ Đại Hải, Lý Khánh, Trương Phụ, Lý Đằng. Uông Quảng Dương đứng đầu, có con gái là Uông Quảng Trinh, Liễu Thăng đứng thứ 5 còn Mộc Thạnh và Mộc Anh đứng thứ 2 và 3. Duy có Trương Phụ đứng thứ hai từ dưới lên sau Lý Đằng.

Nhằm thủ tiêu nền văn hóa của người Việt, ngay năm 1406, khi phát binh đánh Đại Ngu, Minh Thành Tổ đã ban sắc viết:

Khi binh lính vào nước Nam, trừ các kinh Nho gia, kinh Phật, đạo Lão không thiêu hủy. Ngoài ra, tất cả sách vở, văn tự cho đến các loại văn tự ghi chép ca lý dân gian, hay sách dạy trẻ con học… đều đốt hết. Phàm những văn bia do Trung Quốc dựng từ xưa thì đều phải giữ cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá hủy tất cả, một chữ không để sót[2].

Năm 1407, Minh Thành Tổ ra chiếu lệnh thứ hai nhằm hủy diệt văn văn hóa triệt để hơn[3].:

Nhiều lần trẫm đã bảo các ngươi, phàm An Nam có văn tự gì, kể cả các câu hát dân gian,… các bia dù dựng lên một mảnh, hễ nom thấy là phá hủy hết. … Sách vở do quân lính bắt được phải ra lệnh đốt luôn, chớ được lưu lại

Sự hủy diệt đó khiến Ngô Sĩ Liên, nhà sử học chứng kiến những sự kiện này than rằng:

Giáo mác đầy đường đâu cũng thấy quân Minh cuồng bạo. Sách vở cả nước thành một đống tro tàn

Năm 1418, nhà Minh sai Hạ Thanh và Hạ Thì sang thu các loại sách ghi chép về sự tích xưa của người Việt đưa về Trung Quốc.

Qua đời

Chú thích

  1. ^ Ghi chú chung: Ngày tháng tại đây tính theo lịch Julius. Nó không phải là lịch Gregory đón trước.
  2. ^ Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 338
  3. ^ Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 339