Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Minh Thành Tổ”
Không có tóm lược sửa đổi |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 39: | Dòng 39: | ||
Trong thời gian cai trị của mình, ông đã cử hai tướng Trương Phụ và Mộc Thạnh cầm quân sang đánh Đại Việt năm 1406. Hai tướng đó là hai trong số các tướng Uông Quảng Dương, Mộc Thạnh, Mộc Anh, Lưu Bá Ôn, Liễu Thăng, Vương Thông, Trần Hiệp, Hạ Bình, Hoàng Phúc, Thôi Tụ, Lý Lượng, Triệu Quân Dụng, Hồ Đại Hải, Lý Khánh, Trương Phụ, Lý Đằng. Uông Quảng Dương đứng đầu, có con gái là Uông Quảng Trinh, Liễu Thăng đứng thứ 5 còn Mộc Thạnh và Mộc Anh đứng thứ 2 và 3. Duy có Trương Phụ đứng thứ hai từ dưới lên sau Lý Đằng. |
Trong thời gian cai trị của mình, ông đã cử hai tướng Trương Phụ và Mộc Thạnh cầm quân sang đánh Đại Việt năm 1406. Hai tướng đó là hai trong số các tướng Uông Quảng Dương, Mộc Thạnh, Mộc Anh, Lưu Bá Ôn, Liễu Thăng, Vương Thông, Trần Hiệp, Hạ Bình, Hoàng Phúc, Thôi Tụ, Lý Lượng, Triệu Quân Dụng, Hồ Đại Hải, Lý Khánh, Trương Phụ, Lý Đằng. Uông Quảng Dương đứng đầu, có con gái là Uông Quảng Trinh, Liễu Thăng đứng thứ 5 còn Mộc Thạnh và Mộc Anh đứng thứ 2 và 3. Duy có Trương Phụ đứng thứ hai từ dưới lên sau Lý Đằng. |
||
Nhằm thủ tiêu nền [[văn hóa]] của [[người Việt]], ngay năm 1406, khi phát binh đánh [[Đại Ngu]], [[Minh Thành Tổ]] đã ban sắc viết: |
|||
:''Khi binh lính vào nước Nam, trừ các kinh [[Nho giáo|Nho gia]], kinh [[Phật]], [[đạo giáo|đạo Lão]] không thiêu hủy. Ngoài ra, tất cả sách vở, văn tự cho đến các loại văn tự ghi chép ca lý dân gian, hay sách dạy trẻ con học… đều đốt hết. Phàm những văn bia do Trung Quốc dựng từ xưa thì đều phải giữ cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá hủy tất cả, một chữ không để sót<ref>Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 338</ref>.'' |
|||
Năm 1407, Minh Thành Tổ ra chiếu lệnh thứ hai nhằm hủy diệt văn văn hóa triệt để hơn<ref>Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 339</ref>.: |
|||
:''Nhiều lần trẫm đã bảo các ngươi, phàm An Nam có văn tự gì, kể cả các câu hát dân gian,… các bia dù dựng lên một mảnh, hễ nom thấy là phá hủy hết. … Sách vở do quân lính bắt được phải ra lệnh đốt luôn, chớ được lưu lại'' |
|||
Sự hủy diệt đó khiến [[Ngô Sĩ Liên]], nhà sử học chứng kiến những sự kiện này than rằng: |
|||
:''Giáo mác đầy đường đâu cũng thấy quân Minh cuồng bạo. Sách vở cả nước thành một đống tro tàn'' |
|||
Năm 1418, [[nhà Minh]] sai Hạ Thanh và Hạ Thì sang thu các loại sách ghi chép về sự tích xưa của người Việt đưa về Trung Quốc. |
|||
== Qua đời == |
== Qua đời == |
||
Phiên bản lúc 05:32, ngày 15 tháng 9 năm 2013
Minh Thành Tổ | |||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hoàng đế nhà Minh | |||||||||||||||||
Trị vì | 17 tháng 7, 1402 – 12 tháng 8, 1424 (22 năm, 26 ngày)[1] | ||||||||||||||||
Tiền nhiệm | Minh Huệ Tông Chu Doãn Văn | ||||||||||||||||
Kế nhiệm | Minh Nhân Tông Chu Cao Sí | ||||||||||||||||
Thông tin chung | |||||||||||||||||
Sinh | 17 tháng 4 năm Chí Chính thứ 20 nhà Nguyên 2 tháng 5 năm 1360 Ứng Thiên (nay là Nam Kinh) | ||||||||||||||||
Mất | 18 tháng 7 năm Vĩnh Lạc thứ 22 nhà Minh 12 tháng 8 năm 1424 (64 tuổi) Yumuchuan (nay là Ujimqin, Nội Mông Cổ) | ||||||||||||||||
An táng | Trường lăng | ||||||||||||||||
Hậu phi |
| ||||||||||||||||
Hậu duệ |
| ||||||||||||||||
| |||||||||||||||||
Tước hiệu | Hoàng đế | ||||||||||||||||
Triều đại | Minh | ||||||||||||||||
Thân phụ | Thái Tổ Cao hoàng đế Chu Nguyên Chương | ||||||||||||||||
Thân mẫu | Hiếu Từ Cao hoàng hậu Mã thị |
Xin hãy đóng góp cho bài viết này bằng cách phát triển nó. Nếu bài viết đã được phát triển, hãy gỡ bản mẫu này. Thông tin thêm có thể được tìm thấy tại trang thảo luận. |
Minh Thành Tổ (chữ Hán: 明成祖) (2 tháng 5 năm 1360 – 12 tháng 8 năm 1424), tên thật là Chu Lệ (hay Đệ) (朱棣), dân tộc Hán, là vị hoàng đế thứ ba của nhà Minh, tại vị 1402 – 1424, tại vị 22 năm, niên hiệu Vĩnh Lạc (永樂).
Chu Đệ vốn được phong làm Yên Vương (燕王) vào tháng 5 năm 1370, đóng đô ở Bắc Bình (nay là Bắc Kinh). Ông là một người rất tham vọng, mạnh mẽ chủ trương bành trướng thế lực ra nước ngoài. Ông thành lập một hạm đội hùng hậu do Trịnh Hòa điều khiển. Trịnh Hòa (1371-1433) đã dẫn hạm đội xuống Bắc Úc, qua bán đảo Ả Rập và có tài liệu cho rằng Trịnh Hòa qua tận Mỹ châu.
Trong thời gian cai trị của mình, ông đã cử hai tướng Trương Phụ và Mộc Thạnh cầm quân sang đánh Đại Việt năm 1406. Hai tướng đó là hai trong số các tướng Uông Quảng Dương, Mộc Thạnh, Mộc Anh, Lưu Bá Ôn, Liễu Thăng, Vương Thông, Trần Hiệp, Hạ Bình, Hoàng Phúc, Thôi Tụ, Lý Lượng, Triệu Quân Dụng, Hồ Đại Hải, Lý Khánh, Trương Phụ, Lý Đằng. Uông Quảng Dương đứng đầu, có con gái là Uông Quảng Trinh, Liễu Thăng đứng thứ 5 còn Mộc Thạnh và Mộc Anh đứng thứ 2 và 3. Duy có Trương Phụ đứng thứ hai từ dưới lên sau Lý Đằng.
Nhằm thủ tiêu nền văn hóa của người Việt, ngay năm 1406, khi phát binh đánh Đại Ngu, Minh Thành Tổ đã ban sắc viết:
- Khi binh lính vào nước Nam, trừ các kinh Nho gia, kinh Phật, đạo Lão không thiêu hủy. Ngoài ra, tất cả sách vở, văn tự cho đến các loại văn tự ghi chép ca lý dân gian, hay sách dạy trẻ con học… đều đốt hết. Phàm những văn bia do Trung Quốc dựng từ xưa thì đều phải giữ cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá hủy tất cả, một chữ không để sót[2].
Năm 1407, Minh Thành Tổ ra chiếu lệnh thứ hai nhằm hủy diệt văn văn hóa triệt để hơn[3].:
- Nhiều lần trẫm đã bảo các ngươi, phàm An Nam có văn tự gì, kể cả các câu hát dân gian,… các bia dù dựng lên một mảnh, hễ nom thấy là phá hủy hết. … Sách vở do quân lính bắt được phải ra lệnh đốt luôn, chớ được lưu lại
Sự hủy diệt đó khiến Ngô Sĩ Liên, nhà sử học chứng kiến những sự kiện này than rằng:
- Giáo mác đầy đường đâu cũng thấy quân Minh cuồng bạo. Sách vở cả nước thành một đống tro tàn
Năm 1418, nhà Minh sai Hạ Thanh và Hạ Thì sang thu các loại sách ghi chép về sự tích xưa của người Việt đưa về Trung Quốc.
Qua đời
Chú thích
- ^ Ghi chú chung: Ngày tháng tại đây tính theo lịch Julius. Nó không phải là lịch Gregory đón trước.
- ^ Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 338
- ^ Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 339
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Minh Thành Tổ. |