Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Quark duyên”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 13: | Dòng 13: | ||
| antiparticle = Charm antiquark |
| antiparticle = Charm antiquark |
||
| theorized = Sheldon Glashow, John Iliopoulos, Luciano Maiani (1970) |
| theorized = Sheldon Glashow, John Iliopoulos, Luciano Maiani (1970) |
||
| discovered = Samuel C.C. Ting và Burton Richter ( |
| discovered = Samuel C.C. Ting và Burton Richter (1974) |
||
| symbol = c |
| symbol = c |
||
| mass = 1.16–1.34 [[electron volt|MeV]]/[[tốc độ ánh sáng|c]]<sup>2</sup> |
| mass = 1.16–1.34 [[electron volt|MeV]]/[[tốc độ ánh sáng|c]]<sup>2</sup> |
||
| mean_lifetime = Strange quark, down quark |
| mean_lifetime = [[Strange quark]], [[down quark]] |
||
| electric_charge = +{{frac|2|3}} [[Điện tích|e]] |
| electric_charge = +{{frac|2|3}} [[Điện tích|e]] |
||
| color_charge = Có |
| color_charge = Có |
||
Dòng 22: | Dòng 22: | ||
| num_spin_states = |
| num_spin_states = |
||
}} |
}} |
||
Charm quark thuộc gia đình fermion, nhóm quark, thế hệ thứ hai. Lý thuyết của hạt được đưa ra vào năm 1970 bởi |
'''Charm quark''' thuộc gia đình [[fermion]], nhóm [[quark]], thế hệ thứ hai. Lý thuyết của hạt được đưa ra vào năm 1970 bởi [[Sheldon Glashow]], [[John Iliopoulos]], [[Luciano Maiani]], và được thực nghiệm vào 1974 bời [[Samuel C.C. Ting]] và [[Burton Richter]]. |
||
{{sơ khai}} |
|||
{{hạt cơ bản}} |
{{hạt cơ bản}} |
||
Phiên bản lúc 08:09, ngày 14 tháng 8 năm 2009
Cấu trúc | Hạt sơ cấp |
---|---|
Loại hạt | Fermion |
Nhóm | Quark |
Thế hệ | thứ hai |
Tương tác cơ bản | Tương tác mạnh, Tương tác yếu, Tương tác điện từ, Tương tác hấp dẫn. |
Phản hạt | Charm antiquark |
Lý thuyết | Sheldon Glashow, John Iliopoulos, Luciano Maiani (1970) |
Thực nghiệm | Samuel C.C. Ting và Burton Richter (1974) |
Ký hiệu | c |
Khối lượng | 1.16–1.34 MeV/c2 |
Thời gian sống | Strange quark, down quark |
Điện tích | +2⁄3 e |
Màu tích | Có |
Spin | 1⁄2 |
Charm quark thuộc gia đình fermion, nhóm quark, thế hệ thứ hai. Lý thuyết của hạt được đưa ra vào năm 1970 bởi Sheldon Glashow, John Iliopoulos, Luciano Maiani, và được thực nghiệm vào 1974 bời Samuel C.C. Ting và Burton Richter.