Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ngô Lập Chi”
←Trang mới: “'''Ngô Lập Chi''' hiệu '''Bái Đình''' (1888 - 1968) quê xã Bái Dương, huyện Nam Chân, nay là huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Xu…” |
n Cần thêm nguồn tham khảo. |
||
Dòng 1: | Dòng 1: | ||
'''Ngô Lập Chi''' hiệu '''Bái Đình''' ([[1888]] - [[1968]]) quê xã Bái Dương, huyện Nam Chân, nay là huyện Nam Trực, tỉnh [[Nam Định]]. |
'''Ngô Lập Chi''' hiệu '''Bái Đình''' ([[1888]] - [[1968]]) quê xã Bái Dương, huyện Nam Chân, nay là huyện [[Nam Trực]], tỉnh [[Nam Định]]. |
||
Ông xuất thân trong một gia đình truyền thống thi thư, là dòng dõi khai quốc công thần Chương Khánh Công [[Ngô Từ]] của nhà [[Tiền Lê]], và của [[tiến sĩ]] [[Ngô Thế Vinh]] (soạn giả ''Dương Đình thi văn tập'' và ''Trúc Đường phú tập''). |
|||
⚫ | |||
⚫ | |||
⚫ | |||
⚫ | |||
{{Sơ khai}} |
|||
[[Thể loại:Quan nhà Nguyễn]] |
[[Thể loại:Quan nhà Nguyễn]] |
||
[[Thể loại:Người Nam Định]] |
[[Thể loại:Người Nam Định]] |
||
{{thời gian sống|sinh=1888|mất= |
{{thời gian sống|sinh=1888|mất=1968|tên=Ngô Lập Chi}} |
Phiên bản lúc 21:24, ngày 20 tháng 4 năm 2010
Ngô Lập Chi hiệu Bái Đình (1888 - 1968) quê xã Bái Dương, huyện Nam Chân, nay là huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Ông xuất thân trong một gia đình truyền thống thi thư, là dòng dõi khai quốc công thần Chương Khánh Công Ngô Từ của nhà Tiền Lê, và của tiến sĩ Ngô Thế Vinh (soạn giả Dương Đình thi văn tập và Trúc Đường phú tập).
Ông đỗ cử nhân khoa Kỷ Dậu (1909) (năm Duy Tân thứ 3), làm quan đến chức huấn đạo kiêm bang tá huyện An Lão, tỉnh Kiến An, rồi quyền tri huyện Tiên Lãng (thay Phan Kế Toại), trợ tá phủ Kiến Thụy, rồi huyện Vũ Tiên (tỉnh Thái Bình).
Sau về dạy chữ Hán tại đền Ngọc Sơn (tiền thân của Đại học Văn Khoa, Hà Nội), sau năm 1954 công tác tại bộ phận phiên dịch của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, là dịch giả cuốn Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn.