Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Liên Hiệp Quốc → Liên Hợp Quốc
→‎Chú thích: clean up, general fixes using AWB
Dòng 18: Dòng 18:
{{Tham khảo|30em}}
{{Tham khảo|30em}}
{{Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại tại Việt Nam}}
{{Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại tại Việt Nam}}

{{sơ khai}}


[[Thể loại:Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại tại Việt Nam]]
[[Thể loại:Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại tại Việt Nam]]

Phiên bản lúc 13:24, ngày 16 tháng 8 năm 2021

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào ngày 25 tháng 11 năm 2005. Sau Nhã nhạc cung đình Huế, đây là di sản thứ hai của Việt Nam được nhận danh hiệu.

Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên trải dài trên 5 tỉnh Tây Nguyên: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk NôngLâm Đồng. Chủ thể của không gian văn hóa này gồm nhiều dân tộc khác nhau[1]: Ê đê, Jarai, Ba Na, Mạ, Lặc...

Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên bao gồm các yếu tố bộ phận sau: cồng chiêng, các bản nhạc tấu bằng cồng chiêng, những người chơi cồng chiêng, các lễ hội có sử dụng cồng chiêng (Lễ mừng lúa mới, Lễ cúng Bến nước...), những địa điểm tổ chức các lễ hội đó (nhà dài, nhà rông, nhà gươl, rẫy, bến nước, nhà mồ, các khu rừng cạnh các buôn làng Tây Nguyên,...), v.v.

Hiện tại, ở các vùng có cồng chiêng như ở Tây nguyên, Lễ hội Cồng chiêng được tổ chức hàng năm là một hoạt động vừa có ý nghĩa bảo tồn bản sắc văn hóa vừa là một sản phẩm du lịch ăn khách.

Thư viện ảnh

Chú thích