Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Agatha Christie”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa ngày tháng năm
Dòng 1: Dòng 1:
{{About|một nữ tiểu thuyết gia người Anh|những định nghĩa khác|Agatha Christie (định hướng)}}
{{Infobox Writer
{{Infobox writer <!-- for more information see [[:Template:Infobox writer/doc]] -->
| name = Agatha Christie
| honorific_prefix = Dame
| image = Agatha Christie plaque -Torre Abbey.jpg
| name = Agatha Christie
| birth_date = [[15 tháng 9]] năm [[1890]]
| honorific_suffix = {{post-nominals|country=GBR|size=100%|DBE}}
| birth_place = Torquay, [[Devon]], [[Anh]]
| image = Agatha Christie.png
| death_date = [[12 tháng 1]] năm [[1976]] (85 tuổi)
| alt = Chân dung Christie ở độ tuổi trung niên
| death_place = [[Cholsey]], [[Oxfordshire]], [[Anh]]
| caption = Christie vào năm 1958
| occupation = [[Nhà văn]]
| pseudonym = Mary Westmacott
| genre = [[Trinh thám]]
| birth_name = Agatha Mary Clarissa Miller
| website = [http://www.agathachristie.com agathachristie.com]
| birth_date = {{Birth date|df=y|1890|9|15}}
| birth_place = [[Torquay]], [[Devon]], Anh
| death_date = {{Death date and age|df=y|1976|1|12|1890|9|15}}
| death_place = [[Winterbrook House]], [[Wallingford, Oxfordshire]], Anh
| resting_place = Nghĩa trang St Mary, [[Cholsey]], Oxfordshire
| occupation = {{flatlist|
*Tiểu thuyết gia
*nhà văn viết truyện ngắn
*nhà viết kịch
*nhà thơ
*người viết hồi ký
}}
}}
| genre = {{flatlist|
'''Agatha Mary Clarissa, Lady Mallowan''', [[Order of the British Empire|DBE]] ([[15 tháng 9]] năm [[1890]] - [[12 tháng 1]] năm [[1976]]), thường được biết đến với tên '''Agatha Christie''', là một [[nhà văn]] [[trinh thám]] [[người Anh]]. Bà còn viết tiểu thuyết [[lãng mạn]] với bút danh '''Mary Westmacott''', nhưng vẫn được nhớ đến hơn cả với bút danh Agatha Christie và hơn 80 tiểu thuyết trinh thám. Với hai nhân vật thám tử nổi tiếng, [[Hercule Poirot]] và [[Bà Marple]] (''Miss Marple''), Christie được coi là "Nữ hoàng trinh thám" (''Queen of Crime'') và là một trong những nhà văn quan trọng và sáng tạo nhất của thể loại này.
*Bí ẩn giết người
*trinh thám
*điều tra tội phạm
*[[giật gân]]
}}
| movement = [[Thời đại hoàng kim của truyện trinh thám viễn tưởng]]
| notableworks = {{flatlist|
*''[[Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông]]''
*''[[Vụ ám sát ông Roger Ackroyd]]''
*''[[Án mạng trên sông Nile]]''
*''[[Bí mật trong chiếc vali]]''
*''[[Partners in Crime (bộ sưu tập truyện ngắn)|Partners in Crime]]''
*''[[Chuỗi án mạng A.B.C]]''
*''[[Mười người da đen nhỏ]]''
*''[[The Mousetrap]]''
}}
| spouses = {{plainlist|
*{{Marriage|[[Archibald Christie]]|1914|1928|end=div}}
*{{Marriage|[[Max Mallowan]]|1930}}
}}
| children = [[Rosalind Hicks]]
| relatives = [[James Watts (chính trị gia Anh Quốc)|James Watts]] (cháu trai)
| signature = Agatha Christie's signature.png
| website = {{Official URL}}
}}
'''Dame Agatha Mary Clarissa Christie, Lady Mallowan''', {{post-nominals|country=GBR|size=100%|DBE}} ({{née|'''Miller'''}}; 15 tháng 9 năm 1890 – 12 tháng 1 năm 1976) là một nữ văn sĩ người Anh nổi tiếng với 66 [[Truyện trinh thám|tiểu thuyết trinh thám]] cùng 14 bộ sưu tập truyện ngắn, xoay quanh các nhân vật thám tử là [[Hercule Poirot]] và [[Bà Marple]]. Bà cũng là người biên soạn vở kịch ''[[The Mousetrap]]'', vở kịch có thời lượng dài nhất thế giới tính đến thời điểm hiện tại, kể từ khi nó bắt đầu được công diễn tại [[West End của Luân Đôn|West End]] năm 1952. Là một nhà văn của "[[thời kỳ hoàng kim của truyện trinh thám viễn tưởng]]", Agatha Christie được coi là "nữ hoàng trinh thám". Ngoài ra, bà cũng sáng tác tiểu thuyết dưới bút danh '''Mary Westmacott'''. Vào năm 1971, Agatha Christie được [[Elizabeth II|Nữ vương Elizabeth II]] phong tước Quý bà (DBE) vì những cống hiến của bà trong lĩnh vực văn chương. ''[[Sách Kỷ lục Guinness|Sách kỷ lục Guinness]]'' cũng xếp Agatha Christie vào danh sách nhà văn có tác phẩm bán chạy nhất mọi thời đại, với hơn 2 tỉ bản các tác phẩm được bán ra trên toàn cầu.


Agatha Christie sinh ra trong một gia đình giàu có thuộc tầng lớp [[Tầng lớp thượng trung lưu|thượng trung lưu]] ở [[Torquay]], Devon. Phần lớn thời gian thời niên thiếu bà được giáo dục tại nhà. Thời gian đầu, việc sáng tác của bà không mấy tốt đẹp khi có đến 6 lần liên tiếp bà bị các nhà xuất bản từ chối, nhưng mọi chuyện đã thay đổi vào năm 1920 khi bà xuất bản cuốn tiểu thuyết ''[[Vụ án bí ẩn ở Styles]]'', với nhân vật chính là Hercule Poirot. Người chồng đầu tiên của Agatha Christine là [[Archibald Christie]]. Họ kết hôn vào năm 1914, có với nhau một đứa con chung trước khi cả hai ly dị vào năm 1928. Năm 1926, Agatha Christine trở thành chủ đề gây sốt trên trang nhất các phương tiện truyền thông quốc tế khi mất tích 11 ngày, sau một khoảng thời gian vật lộn với cuộc hôn nhân tan vỡ và phải đối mặt với cái chết của mẹ mình. Trong hai cuộc chiến tranh thế giới, bà phục vụ trong các phòng phát thuốc ở bệnh viện. Tại đó, Agatha Christine tích lũy được kiến thức sâu rộng về các độc chất. Những kiến thức đó sau này đã đi vào trong các trang sách của nhiều cuốn tiểu thuyết, truyện ngắn và nhiều vở kịch khác nhau của bà. Sau khi kết hôn với nhà [[khảo cổ học]] [[Max Mallowan]] vào năm 1930, Agatha Christine đã dành vài tháng mỗi năm tham gia các hoạt động nghiên cứu, khai quật khảo cổ ở vùng Trung Đông và dùng những kiến thức đã tích lũy được vào quá trình sáng tác tác phẩm của mình.
Theo [[Sách Kỷ lục Guinness|Sách kỷ lục Guinness]], Agatha Christie là nhà văn có tác phẩm bán chạy nhất mọi thời đại của thể loại trinh thám, và đứng thứ hai nếu tính cả các thể loại khác (chỉ xếp sau [[William Shakespeare]]). Ước tính đã có khoảng 1 tỷ bản in bằng [[tiếng Anh]] và khoảng 1 tỷ bản in bằng 103 thứ tiếng khác những tác phẩm của Christie được tiêu thụ<ref>{{Chú thích web |url=http://uk.agathachristie.com/site/about_christie/queen_of_crime.php |ngày truy cập=2007-07-03 |tựa đề=Bản sao đã lưu trữ |archive-date=2006-12-19 |archive-url=https://web.archive.org/web/20061219083705/http://uk.agathachristie.com/site/about_christie/queen_of_crime.php |url-status=dead }}</ref>. Một ví dụ cho sự hấp dẫn của những tác phẩm của Agatha Christie ở nước ngoài là bà cũng là tác giả ăn khách nhất mọi thời đại ở [[Pháp]] với 40 triệu bản in bằng [[tiếng Pháp]] đã tiêu thụ (tính cho đến năm [[2003]]), trong khi người xếp thứ 2 là nhà văn Pháp [[Émile Zola|Emile Zola]] chỉ là 22 triệu bản.


Dựa theo chỉ số [[Index Translationum]] của tổ chức [[Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc|UNESCO]], Agatha Christine hiện vẫn là nhà văn cá nhân có số lượng tác phẩm được dịch sang ngôn ngữ khác nhiều nhất.<ref>{{cite web|title=Most translated author|url=https://www.guinnessworldrecords.com/world-records/67389-most-translated-author|website=Guinness World Records|date=7 March 2017 }}</ref> Trong đó, tác phẩm ''[[Mười người da đen nhỏ]]'' của bà nằm trong [[Danh sách sách bán chạy nhất|danh sách những tác phẩm bán chạy nhất mọi thời đại]], với xấp xỉ 100 triệu bản được bán ra. Vở kịch ''The Mousetrap'' do bà biên soạn cũng giữ kỷ lục thế giới cho vở kịch có thời gian công diễn lâu nhất trong lịch sử, ra mắt lần đầu tại rạp [[Ambassadors Theatre]] tại West End ngày 25 tháng 11 năm 1952 và vẫn tiếp tục được công diễn cho đến ngày nay. Tính đến năm 2018, vở kịch này đã có hơn 27.500 buổi diễn. Năm 2020, dưới tác động của lệnh [[Phong tỏa do COVID-19|phong tỏa do đại dịch COVID-19]], việc công diễn tại Luân Đôn tạm thời phải hoãn lại cho đến năm 2021.
Vở kịch ''The Mousetrap'' (Cái bẫy chuột) của bà cũng đang giữ kỷ lục vở kịch được công diễn lâu nhất trong lịch sử sân khấu London, ra mắt lần đầu tại rạp Ambassadors Theatre ngày [[25 tháng 11]] năm [[1952]] và vẫn tiếp tục được diễn cho đến nay (năm [[2022]]) với trên 30.000 buổi diễn. Năm [[1955]], Christie là người đầu tiên được nhận giải thưởng Grand Master Award của Hội nhà văn trinh thám Mỹ (''Mystery Writers of America''). Hầu như tất cả tác phẩm của bà đều đã được chuyển thể thành phim, một số tác phẩm đã được chuyển thể nhiều lần như ''[[Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông]]'', ''[[Án mạng trên sông Nin|Án mạng trên sông Nile]]'', ''[[Chuyến tàu 16h50]]'', nhiều tác phẩm cũng được chuyển thể thành phim truyền hình hoặc trò chơi điện tử.


Vào năm 1955, Agatha Christie trở thành người đầu tiên nhận [[giải Grand Master]] của [[Hội nhà văn trinh thám Hoa Kỳ]]. Cuối năm đó, tác phẩm ''[[Witness for the Prosecution (play)|Witness for the Prosecution]]'' cũng đã nhận [[giải Edgar]] cho tác phẩm kịch xuất sắc nhất. Năm 2013, 600 nhà văn chuyên nghiệp thuộc Hiệp hội Nhà văn Tội phạm Anh đã bầu chọn Agatha Christie là nhà văn tội phạm xuất sắc nhất và cuốn tiểu thuyết ''[[Vụ ám sát ông Roger Ackroyd]]'' của bà cũng được xướng danh là tác phẩm viết về đề tài tội phạm xuất sắc nhất. Đến năm 2015, trong một cuộc bình chọn trên trang web đại diện cho Agatha Christie, tác phẩm ''Mười người da đen nhỏ'' được liệt vào danh sách "World's Favourite Christie" (danh sách những tác phẩm được yêu thích nhất của bà).<ref>{{cite web|title=Result of world's favourite Christie global vote|url=https://www.agathachristie.com/en/news/2015/worlds-favourite-christie|website=Agatha Christie|date=22 December 2015|access-date=23 June 2023}}</ref> Phần lớn các tiểu thuyết và truyện ngắn của bà đều đã được chuyển thể thành phim truyền hình, truyền tranh trên radio, chuyển thể thành trò chơi điện tử và cả truyện tranh. Ngoài ra, hơn 30 tác phẩm của bà cũng được chuyển thể thành phim điện ảnh.
== Tiểu sử ==
== Cuộc đời và sự nghiệp ==
Agatha Christie có tên khai sinh là '''Agatha Mary Clarissa Miller''' sinh ngày [[15 tháng 9]] năm [[1890]] tại Torquay, [[Devon]], bà có cha là người [[Hoa Kỳ|Mỹ]] và mẹ là người Anh, tuy vậy chưa bao giờ Christie có hoặc tuyên bố là có quốc tịch Hoa Kỳ. Cha bà là ông Frederick Miller, một nhà giao dịch chứng khoán người giàu có, còn mẹ, bà Clara Bohemer có dòng dõi quý tộc Anh. Christie có một người chị, Margaret Frary Miller (1879-1950) và một người anh Louis Montant Miller (1880-1929). Bố của Agatha Christie mất khi bà còn rất nhỏ, bà Clara là người đã khuyến khích Christie viết từ khi còn bé. Lên 16 tuổi, Christie sang [[Paris]] để học hát và [[dương cầm|piano]].
=== 1890–1907: Thời thơ ấu và niên thiếu ===


[[File:Agatha Christie by Douglas John Connah.jpg|thumb|left|upright|Bức tranh với tiêu đề ''Lost in Reverie'', do Douglas John Connah vẽ vào năm 1894, mô tả chân dung của Agatha Christie.]]
Bà có cuộc hôn nhân đầu tiên không hạnh phúc với đại tá Archibald Christie, một phi công của [[Không quân hoàng gia Anh]]. Hai người cưới nhau năm [[1914]], có một con gái, Rosalind Hicks, và ly dị năm [[1928]].
Agatha Mary Clarissa Miller<!-- Họ Christie xuất phát từ hôn nhân đầu tiên của bà. --> sinh ngày 15 tháng 9 năm 1890 trong một gia đình [[Tầng lớp thượng trung lưu|thượng trung lưu]] giàu có ở [[Torquay]], Devon. Bà là con út trong gia đình có ba anh chị em. Cha của bà là Frederick Alvah Miller, "một [[quý ông]] giàu có",<ref name=":5">{{cite news |date=13 January 1976 |title=Obituary. Dame Agatha Christie |page=16 |work=[[The Times]] |quote='My father,' she [Christie] recalled, 'was a gentleman of substance, and never did a handsturn in his life, and he was a most agreeable man.'}}</ref> còn mẹ bà là Clarissa Margaret "Clara" Miller (nhũ danh Boehmer).<ref name="Morgan1984">{{cite book |last=Morgan |first=Janet P. |url=https://books.google.com/books?id=w4paAAAAMAAJ |title=Agatha Christie: A Biography |date=1984 |publisher=[[HarperCollins]] |isbn=978-0-00-216330-9 |location=London |access-date=25 May 2020 |archive-date=12 May 2021 |archive-url=https://web.archive.org/web/20210512060208/https://books.google.com/books?id=w4paAAAAMAAJ |url-status=live }}</ref>{{rp|1–4}}<ref name=":1">''Marriage Register''. St Peter's Church, Bayswater [Notting Hill], Middlesex, 1878, No. 399, p. 200.</ref><ref>''Birth Certificate''. [[General Register Office for England and Wales]], 1890 September Quarter, Newton Abbot, volume 5b, p. 151. [Christie's forenames were not registered.]</ref><ref name=":2">''Baptism Register''. Parish of Tormohun, Devon, 1890, No. 267, [n.p.].</ref>


Clara, mẹ của Agatha Christie sinh năm 1854 tại [[Dublin]],{{Refn|Hầu hết những nhà viết tiểu sử đều cho rằng mẹ của Agatha Christie sinh ra ở Belfast, tuy nhiên, họ không cung cấp được nguồn kiểm chứng. Những bằng chứng chủ yếu hiện tại, bao gồm các mục thông tin điều tra dân số, hồ sơ rửa tội và cả bằng chứng phục vụ trong quân đội của cha bà cũng ghi rằng vị trí là ở Dublin, cho thấy rằng rất có thể bà sinh ra ở Dublin trong bốn tháng đầu tiên của năm 1854.<ref>''1871 England Census''. Class: RG10; Piece: 3685; Folio: 134; p. 44</ref><ref>[https://discovery.nationalarchives.gov.uk/details/r/C178476 Statement of Services] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20191026071323/https://discovery.nationalarchives.gov.uk/details/r/C178476 |date=26 October 2019 }}: Frederick Boehmer, 91st Foot. [[The National Archives (United Kingdom)|The National Archives]], Kew. WO 76/456, p. 57. [Also states his daughter Clarissa Margaret was baptised in Dublin.]</ref><ref name="Goff"/>|group=lower-alpha}} là con gái của sĩ quan quân đội Anh Frederick Boehmer <ref name="Goff">{{cite book |last=Goff |first=Gerald Lionel Joseph |url=https://archive.org/details/historicalrecord00goffuoft |title=Historical records of the 91st Argyllshire Highlanders, now the 1st Battalion Princess Louise's Argyll and Sutherland Highlanders, containing an account of the Regiment in 1794, and of its subsequent services to 1881 |publisher=R. Bentley |year=1891 |pages=xv, [https://archive.org/details/historicalrecord00goffuoft/page/218 218–19, 322]}}</ref> và vợ là Mary Ann Boehmer (nhũ danh West). Frederick Boehmer qua đời ở [[Jersey]] vào năm 1863,{{Refn|Boehmer's death registration states he died at age 49 from bronchitis after retiring from the army,<ref name="Jerseyburials"/> but Christie and her biographers have consistently claimed he was killed in a riding accident while still a serving officer.<ref name="Auto1993"/>{{rp|5}}<ref>{{cite book |last=Robyns |first=Gwen |title=The Mystery of Agatha Christie |publisher=[[Doubleday (publisher)|Doubleday & Company, Inc]] |year=1978 |isbn=0-385-12623-9 |location=Garden City, NY |page=13}}</ref><ref name="Morgan1984"/>{{rp|2}}<ref name="thompson"/>{{Rp|9–10}}|group=lower-alpha}} để lại người vợ phải một mình gồng gánh nuôi các con bằng nguồn thu nhập eo hẹp.<ref name="Jerseyburials">{{cite book |title=Burials in the Parish of St Helier, in the Island of Jersey |year=1863 |page=303}}</ref><ref name="thompson"/>{{rp|10}} Hai tuần sau cái chết của Boehmer, em gái Mary là Margaret West kết hôn với Nathaniel Frary Miller, một thương gia góa vợ người Mỹ chuyên buôn bán hàng may mặc.<ref>[https://www.familysearch.org/ark:/61903/3:1:S3HY-6LM7-W15?i=299 ''Marriage Register'']. Parish of Westbourne, Sussex, 1863, No. 318, p. 159.</ref> Để hỗ trợ tài chính cho Mary, vợ chồng Nathaniel đồng ý nhận nuôi Clara, lúc bấy giờ mới 9 tuổi. Cả gia đình quyết định đến sống ở [[Timperley]], Cheshire.<ref>[https://discovery.nationalarchives.gov.uk/details/r/C7314015 Naturalisation Papers] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20191024232807/https://discovery.nationalarchives.gov.uk/details/r/C7314015|date=24 October 2019}}: Miller, Nathaniel Frary, from the United States. Certificate 4798 issued 25 August 1865. [[The National Archives (United Kingdom)|The National Archives]], Kew. HO 1/123/4798.</ref> Hai người không có con chung, nhưng Nathaniel có một cậu con trai 17 tuổi tên Fred Miller, là kết quả từ cuộc hôn nhân trước đó của ông. Fred sinh ra tại New York, từng học tại một trường trung học nội trú ở Thụy Sĩ và du lịch ở nhiều nơi.<ref name="thompson"/>{{rp|12}} Năm 1878, Fred và Clara kết hôn ở Luân Đôn.<ref name="Morgan1984"/>{{rp|2–5}}<ref name=":1"/> Năm 1879, đứa con đầu lòng của họ là Margaret Frary ("Madge") chào đời ở Torquay.<ref name="Morgan1984"/>{{rp|6}}<ref>''Birth Certificate''. [[General Register Office for England and Wales]], 1879 March Quarter, Newton Abbot, volume 5b, p. 162.</ref> Một năm sau, đứa con thứ hai là Louis Montant ("Monty") cũng chào đời ở [[Morristown, New Jersey]]<ref>{{cite news |date=26 June 1880 |title=Births |page=1 |work=[[London Evening Standard]]}}</ref> trong thời gian mà cả gia đình đang có một chuyến du lịch dài ở Mỹ.<ref name="Auto1993">{{cite book |last=Christie |first=Agatha |url=https://archive.org/details/agathachristieau00chri |title=Agatha Christie: An Autobiography |publisher=[[Dodd, Mead & Co.|Dodd, Mead & Company]] |year=1977 |isbn=0-396-07516-9 |location=New York City |url-access=registration}}</ref>{{rp|7}}
Trong [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]] bà làm việc tại bệnh viện và sau đó là tiệm thuốc, công việc này đã ảnh hưởng tới những sáng tác của bà sau này khi rất nhiều vụ giết người trong các tác phẩm của Christie được thực hiện bằng [[thuốc độc]] như [[asen|thạch tín]], [[ricin]] và [[tali|thallium]].


Khi bố của Fred qua đời vào năm 1869,<ref>''Death Certificate''. [[General Register Office for England and Wales]], 1869 June Quarter, Westbourne, volume 02B, p. 230.</ref> ông để lại cho vợ chồng Clara 2.000 bảng Anh (tương đương 200 nghìn bảng Anh thời giá năm 2021). Năm 1881, họ sử dụng số tiền này để thuê một căn biệt thự tại Torquay có tên là [[Ashfield, Torquay|Ashfield]].<ref>{{cite news |date=5 October 1880 |title=Auctions. Torquay |page=1 |work=Western Times [Exeter, Devon]}}</ref><ref>{{cite news |date=20 May 1881 |title=Arrivals |page=4 |work=Torquay Times}}</ref> Tại nơi này, đứa con thứ ba và đứa con út của họ (Agatha) lần lượt chào đời.<ref name="Morgan1984"/>{{rp|6–7}}<ref name=":2"/> Theo Christie, những năm tháng tuổi thơ của bà "vô cùng hạnh phúc".<ref name="Auto1993"/>{{rp|3}} Gia đình Miller dành phần lớn thời gian sống tại Devon, nhưng Christie và gia đình cũng thường đến thăm bà ngại nuôi Margaret Miller tại [[Ealing]] và bà ngoại ruột Mary Boehmer tại [[Bayswater]].<ref name="Auto1993"/>{{rp|26–31}} Christie cũng dành một năm sống ở nước ngoài cùng gia đình tại các vùng [[Pyrénées]], [[Paris]], [[Dinard]] và [[Guernsey]].<ref name="Morgan1984"/>{{rp|15, 24–25}} Vì nhỏ tuổi hơn nhiều so với những người anh chị em trong gia đình, cũng như xung quanh nơi bà sống không có nhiều trẻ con nên Christie dành hầu hết thời gian chơi một mình với thú cưng và những người bạn tưởng tượng của mình.<ref name="Auto1993"/>{{rp|9–10, 86–88}} Cuối cùng thì bà cũng kết bạn với những cô gái khác ở Torquay, tham gia cùng họ trong một buổi biểu diễn dành cho thanh thiếu niên, nơi bà vào vai Đại tá anh hùng Fairfax trong vở ''[[The Yeomen of the Guard]]'' của [[Gilbert và Sullivan]]. Đó là trải nghiệm mà đối với Christie là "một trong những điểm đáng nhớ nhất trong suốt cuộc đời" của bà.<ref name="Morgan1984"/>{{rp|23–27}}
Ngày [[8 tháng 12]] năm [[1926]], khi đang sống ở Sunningdale, [[Berkshire]], bà đột nhiên biến mất 10 ngày khiến dư luận xôn xao. Cuối cùng bà được tìm thấy khi đang ở khách sạn Swan Hydro vùng Harrogate dưới tên của người phụ nữ đã ngoại tình với chồng bà trước đó. Agatha Christie nói rằng bà bị mắc chứng [[suy giảm trí nhớ|đãng trí]] vì suy sụp sau cái chết của mẹ bà và sự phản bội của người chồng.


[[File:Agatha Christie as a child No 1.jpg|thumb|upright|Agatha Christie những năm 1900, khi còn là một cô gái.|alt=Black-and-white portrait photograph of Christie as a girl]]
Năm [[1930]], Christie kết hôn với nhà khảo cổ Max Mallowan trẻ hơn bà 14 tuổi.


Theo lời Christie, mẹ bà tin rằng bà không nên học đọc trước năm 8 tuổi, nhưng vì sự tò mò của mình, bà đã biết đọc khi chỉ mới 4 tuổi.<ref name="Auto1993"/>{{Rp|13}} Bất chấp việc gửi người chị gái đến học tại một trường nội trú, mẹ Christie lại buộc bà phải học tại nhà. Dưới sự giám sát của bố mẹ và chị của mình, bà đã học đọc, viết và làm các phép toán cơ bản, một môn học mà bà yêu thích. Họ cũng dạy Christie học nhạc, vì vậy mà bà đã học chơi đàn piano và đàn mandolin.<ref name="Morgan1984"/>{{rp|8, 20–21}}
Agatha Christie mất ngày [[12 tháng 1]] năm [[1976]] ở tuổi 85, tại Wallingford, [[Oxfordshire]]. Đứa con duy nhất của bà, Rosalind Hicks, mất ngày [[28 tháng 10]] năm [[2004]] cũng ở tuổi 85, và hiện cháu trai bà, Mathew Prichard đang giữ bản quyền tất cả tác phẩm của bà ngoại.


Ngay từ khi còn nhỏ, Agatha Christie đã bộc lộ sở thích ham đọc sách. Những quyển sách đầu tiên mà bà đọc là những quyển sách thiếu nhi của [[Mary Louisa Molesworth|Mrs Molesworth]] và [[Edith Nesbit]]. Khi lớn hơn chút nữa, bà chuyển sang đọc các trang thơ siêu thực của [[Edward Lear]] và [[Lewis Carroll]].<ref name="Morgan1984"/>{{rp|18–19}} Đến tuổi thiếu niên, bà trở nên yêu thích các tác phẩm của [[Anthony Hope]], [[Walter Scott]], [[Charles Dickens]] và [[Alexandre Dumas]].<ref name="Auto1993"/>{{rp|111, 136–37}} Vào tháng 4 năm 1901, Christie viết bài thơ đầu tiên của mình là "The Cow Slip". Khi ấy bà chỉ mới 10 tuổi.<ref name="film">{{cite AV media |title=The Mystery of Agatha Christie – A Trip With David Suchet (Directed by Claire Lewins) |publisher=Testimony Films (for [[ITV (TV network)|ITV]])}}</ref>
== Hercule Poirot và Bà Marple ==
[[Tập tin:Hotel Pera Palace - Istanbul.jpg|nhỏ|trái|Nơi Agatha Christie đã viết ''Murder on the Orient Express'']]
Tiểu thuyết đầu tiên của Agatha Christie, ''The Mysterious Affair at Styles'' được xuất bản năm 1920 và lần đầu tiên giới thiệu cho độc giả nhân vật thám tử nổi tiếng [[Hercule Poirot]], người sẽ xuất hiện trong 30 tiểu thuyết và 50 truyện ngắn khác của Christie.


Năm 1901, sức khỏe của cha Agatha Christie suy yếu vì ông tin rằng mình mắc một số vấn đề về tim mạch.<ref name="thompson"/>{{Rp|33}} Fred qua đời vào tháng 11 cùng năm vì bệnh [[viêm phổi]] và [[bệnh thận]].<ref>Death Certificate. [[General Register Office for England and Wales]], 1901 December Quarter, Brentford, volume 3A, p. 71. ("Cause of Death. [[Bright's disease]], chronic. [[Pneumonia]]. Coma and heart failure.")</ref> Sau này, Christie cho biết rằng cái chết của cha khi bà mới 11 tuổi đã đặt dấu chấm hết do những năm tháng tuổi thơ của bà.<ref name="Morgan1984"/>{{rp|32–33}}
Nhân vật thám tử nổi tiếng nữa của Christie là [[Bà Marple]] (''Miss Marple'') xuất hiện lần đầu trong ''The Murder at the Vicarage'' xuất bản năm 1930.


Vào thời điểm này, tình hình tài chính của gia đình bà bắt đầu trở nên tồi tệ hơn. Một năm sau cái chết của cha, người chị gái Madge kết hôn và chuyển đến sống cùng chồng ở [[Cheadle Hulme|Cheadle]], Cheshire. Anh trai Monty thì vẫn đang ở nước ngoài, phục vụ trong một trung đoàn của quân đội Anh.<ref name="thompson"/>{{rp|43, 49}} Christie phải sống một mình với mẹ tại Ashfield. Năm 1902, bà đến học tại trường dành cho nữ sinh của cô Guyer ở Torquay. Tuy nhiên, bà cảm thấy khó khăn trong việc thích nghi với bầu không khí nghiêm khắc và kỉ luật ở đó.<ref name="Auto1993"/>{{rp|139}} Năm 1905, Clara gửi con gái mình đến Paris, theo học một loạt các {{Lang|fr|pensionnat}} (trường nội trú) khác nhau ở Pháp, tập trung vào việc rèn luyện giọng hát và chơi đàn piano. Sau khi nhận thấy bản thân không có tố chất và tài năng để trở thành một nghệ sĩ piano hoặc một ca sĩ opera, Christie quyết định từ bỏ con đường đó.<ref name="thompson"/>{{rp|59–61}}
Trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai]], Christie viết hai tiểu thuyết ''Curtain'' và ''Sleeping Murder'', bà dự định đó sẽ là những vụ án cuối cùng của hai thám tử Hercule Poirot và Bà Marple. Hai tác phẩm này được giữ trong nhà băng hơn 30 năm và chỉ được phát hành vào cuối đời của tác giả, khi Christie nhận ra rằng mình không thể viết thêm tiểu thuyết nào nữa.


=== 1907–1926: Những nỗ lực ban đầu, kết hôn và thành công trong lĩnh vực văn học ===
Cũng giống [[Arthur Conan Doyle]], Christie đã từng trở nên chán ngán với những nhân vật thám tử của mình. Vào cuối [[thập niên 1930]], Christie đã viết trong nhật ký rằng bà nhận thấy Poirot là "không thể chịu đựng nổi", tuy nhiên khác với Doyle, Agatha Christie đã chống lại được cảm giác muốn kết liễu nhân vật thám tử của mình khi anh ta vẫn còn đang nổi tiếng. Bà coi mình là một người làm nghề giải trí mà công việc là sáng tạo ra những thứ công chúng ưa thích, và thứ mà công chúng ưa thích lại chính là nhân vật thám tử Poirot.


Sau khi hoàn thành việc học, Agatha Christie quay về Anh. Bà phát hiện mẹ mình đang gặp vấn đề về sức khỏe. Vì vậy, mùa đông 1907–1908, bà và mẹ quyết định đến sống tại vùng khí hậu ấm áp tại Ai Cập. Lúc bấy giờ, đây là điểm đến ưa thích của những người Anh giàu có.<ref name="Auto1993"/>{{rp|155–57}} Mẹ con Christie dành ba tháng sống tại khách sạn [[Gezirah Palace]] ở [[Cairo]]. Tại đây, Christie tham gia vào nhiều buổi nhảy múa và các hoạt động xã hội khác. Bà đặc biệt ưa thích đến xem các trận đấu polo của các vận động viên nghiệp dư. Mặc dù Christie đã đến thăm một số di tích cổ đại của Ai Cập như [[Đại Kim tự tháp Giza]], nhưng mãi đến nhiều năm sau, bà mới thể hiện sự quan tâm lớn đến lĩnh vực [[khảo cổ học]] và [[Ai Cập học]].<ref name="Morgan1984"/>{{rp|40–41}} Sau khi trở về Anh, bà tiếp tục tham gia các hoạt động xã hội, sáng tác và tham gia biểu diễn trong một vài vở kịch không chuyên. Cùng với những người bạn nữ của mình, bà cũng tham gia tổ chức vở kịch có tên là ''The Blue Beard of Unhappiness''.<ref name="Morgan1984"/>{{rp|45–47}}
Trái ngược với Poirot, Christie rất yêu thích nhân vật Bà Marple. Đáng ngạc nhiên là số tiểu thuyết có xuất hiện Bà Marple lại chưa bằng một nửa số tiểu thuyết có xuất hiện ông thám tử người [[Bỉ]] Poirot.


Năm Christie tròn 18, bà sáng tác truyện ngắn đầu tay mang tên "The House of Beauty". Bà viết tác phẩm này trong quá trình điều trị hồi phục sau một căn bệnh. Nội dung tác phẩm chứa đựng khoảng 6.000 từ về "sự rồ dại và những giấc mơ", những đề tài mà Christie vốn rất say mê. Nhận xét về tác phẩm, nhà tiểu sử học Janet Morgan cho rằng bất chấp những "khuyết thiếu trong phong cách [sáng tác]", đây vẫn là một tác phẩm "hấp dẫn".<ref name="Morgan1984"/>{{rp|48–49}} Tác phẩm này sau này đã trở thành một phần của một tác phẩm đầy đủ hơn với tên [[While the Light Lasts and Other Stories|"The House of Dreams"]].<ref>{{cite web |title=The House of Dreams |url=http://www.agathachristie.com/christies-work/stories/the-house-of-dreams/377 |access-date=27 June 2020 |website=agathachristie.com |archive-date=25 May 2014 |archive-url=https://web.archive.org/web/20140525200925/http://www.agathachristie.com/christies-work/stories/the-house-of-dreams/377 |url-status=live }}</ref> Christie tiếp tục sáng tác một số tác phẩm khác. Hầu hết các tác phẩm này đều thể hiện sự quan tâm của bà đối với [[Thuyết duy linh|thế giới tâm linh]] và những [[Siêu linh|điều dị thường]]. Trong số này có thể kể đến "The Call of Wings" và "The Little Lonely God". Christie đã gửi các bản thảo ban đầu của mình đến nhiều tạp chí khác nhau, dưới một vài bút danh như Mac Miller, Nathaniel Miller hay Sydney West, nhưng tất cả đều bị từ chối. Mặc dù vậy, sau này, nhiều bản thảo của bà đã được tái xét duyệt và phát hành bằng nhiều tiêu đề mới dưới tên thật của bà.<ref name="Morgan1984" />{{rp|49–50}}[[File:Agatha Christie as a young woman.jpg|thumb|upright|Christie những năm 1910, khi còn là một cô gái trẻ.]]
Poirot là nhân vật hư cấu duy nhất cho đến nay được đăng cáo phó trên tờ ''[[The New York Times]]'' sau khi tiểu thuyết ''Curtain'' xuất bản năm 1975 trong đó Poirot bị bà Christie "giết chết". Tiếp nối thành công của ''Curtain'', Christie cho xuất bản tiểu thuyết ''Sleeping Murder'' vào năm [[1976]], nhưng bà lại chết trước khi tác phẩm của mình được phát hành. Điều này giải thích một số mâu thuẫn của tác phẩm này với loạt truyện về Bà Marple, có lẽ Christie không còn thời gian để xem lại bản thảo trước khi bà qua đời. Miss Marple được "đối xử" tốt hơn viên thanh tra Poirot khi bà vẫn sống sau khi giải quyết xong vụ án của ''Sleeping Murder''.
Cũng trong thời gian này, dưới bút danh Monosyllaba, Agatha Christie bắt tay vào sáng tác cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên ''Snow Upon the Desert''. Tác phẩm lấy bối cảnh ở Cairo, chủ yếu dựa trên những trải nghiệm của bà trong thời gian sống ở đó. Tuy nhiên, bà đã trở nên thất vọng sau khi tác phẩm của mình bị sáu nhà xuất bản từ chối.<ref name="Morgan1984"/>{{rp|50–51}}<ref name="curran">{{cite web |url=http://www.agathachristie.com/about-christie/christie-experts/john-curran-75-facts-about-christie |title=75 facts about Christie |last1=Curran |first1=John |website=The Home of Agatha Christie |publisher=Agatha Christie Limited |access-date=21 July 2017 |archive-date=29 July 2017 |archive-url=https://web.archive.org/web/20170729055754/http://www.agathachristie.com/about-christie/christie-experts/john-curran-75-facts-about-christie |url-status=live }}</ref> Nhận thấy điều đó, Clara đã đề nghị con gái mình nên tham khảo ý kiến từ [[Eden Phillpotts]], một nhà văn thành công và cũng vừa là bạn, vừa là hàng xóm của gia đình. Đáp lại yêu cầu đó, Phillpotts đã khuyến khích Christie viết lách, đồng thời giới thiệu cô đến với đại lý văn học của mình là Hughes Massie. Mặc dù từng từ chối tác phẩm ''Snow Upon the Desert'', nhưng đại lý này đã đề xuất cho bà viết cuốn tiểu thuyết thứ hai.<ref name="Morgan1984"/>{{rp|51–52}}


Trong lúc đó, Christie tích cực tham gia nhiều hơn vào các hoạt động xã hội. Bà tham gia vào các buổi tiệc tùng tại các ngôi nhà ở vùng quê, cưỡi ngựa, săn bắn, khiêu vũ và trượt patanh.<ref name="Auto1993"/>{{rp|165–66}} Bà có mối quan hệ chóng vánh với bốn người đàn ông khác nhau và từng hứa hôn với một người đàn ông khác..<ref name="thompson"/>{{Rp|64–67}} Tháng 10 năm 1912, bà gặp gỡ [[Archie Christie|Archibald "Archie" Christie]] tại một buổi khiêu vũ do [[Baron Clifford of Chudleigh|vợ chồng Nam tước Clifford]] tổ chức ở [[Ugbrooke]], cách Torquay khoảng {{convert|12|mi|km}}. Archie là con trai của một luật sư phục vụ trong Cơ quan Dân sự Ấn Độ. Ngoài ra, ông cũng là một sĩ quan pháo binh của Hoàng gia Anh và từng được cắt cử đến Quân đoàn Không lực Hoàng gia Anh vào tháng 4 năm 1913.<ref>{{Cite news |url=https://www.thegazette.co.uk/London/issue/28725/page/3914|page=3914 |title=War Office, Regular Forces |issue=28725 |date=3 June 1913 |publisher=[[The London Gazette]] }}</ref> Cả hai người nhanh chóng yêu nhau. Sau ba tháng kể từ cuộc gặp gỡ đầu tiên, Archie ngỏ lời cầu hôn và nhận được cái gật đầu đồng ý từ Agatha.<ref name="Morgan1984"/>{{rp|54–63}}
== 11 ngày mất tích bí ẩn của Agatha ==
{{thiếu nguồn gốc (đề mục)}}
Năm 1926, Christie đã mất tích một cách bí ẩn trong 11 ngày. Vụ mất tích của bà thậm chí còn thu hút sự quan tâm của một đồng nghiệp nổi tiếng khác, đó là Sir Conan Doyle, người đã sáng tạo ra thám tử Sherlock Holmes.<ref name=":0">{{Chú thích web|url=https://zingnews.vn/zingnews-post822046.html|tựa đề=14 điều ít biết về nữ hoàng truyện trinh thám Agatha Christie|ngày=2018-02-27|website=ZingNews.vn|ngôn ngữ=vi|ngày truy cập=2021-11-26}}</ref>


[[File:Nurse at Ashfield.jpg|thumb|left|upright|Ảnh chụp Christie vào năm 1915, tại căn nhà thời thơ ấu của bà ở [[Ashfield, Torquay|Ashfield]], thời điểm bà đang là một y tá của Đội Cứu trợ tình nguyện Hội Chữ thập đỏ Anh Quốc.]]
Sự mất tích của bà giống như những âm mưu trong những cuốn tiểu thuyết của chính bà vậy. Vào tối ngày 4/12/1926, Christie biến mất không một dấu vết.


Sau khi [[chiến tranh thế giới thứ nhất]] bùng nổ, tháng 8 năm 1914, Archie đến chiến đấu ở Pháp. Dịp Giáng sinh năm đó, Archie được phép về nhà. Cả hai cử hành hôn lễ tại Nhà nguyện Thánh Emmanuel, [[Clifton, Bristol|Clifton]], Bristol, gần nhà bố mẹ Archie, vào đúng đêm vọng Lễ Giáng sinh.<ref>{{cite web |last1=Curtis |first1=Fay |date=24 December 2014 |title=Desert Island Doc: Agatha Christie's wartime wedding |url=http://www.bristolmuseums.org.uk/blog/desert-island-doc-agatha-christies-wartime-wedding |publisher=Bristol Museums, Galleries & Archives |access-date=30 December 2014 |archive-date=31 December 2014 |archive-url=https://web.archive.org/web/20141231122809/http://www.bristolmuseums.org.uk/blog/desert-island-doc-agatha-christies-wartime-wedding/ |url-status=live }}</ref><ref>''Marriage Register''. Parish of Emmanuel, Clifton, 1914, No. 305, p. 153.</ref> Trong thời gian chiến tranh, Archie nhiều lần được thăng quân hàm và trở về Anh vào tháng 9 năm 1918 với tư cách là Đại tá Bộ Không quân Anh. Trong khi đó, Agatha tham gia vào chiến trường với vai trò thành viên của Đội Cứu trợ tình nguyện của Hội Chữ thập đỏ Anh Quốc. Từ tháng 10 năm 1914 đến tháng 5 năm 1915, rồi sau đó là từ tháng 6 năm 1916 đến tháng 9 năm 1918, bà đã dành tổng cộng 3.000 giờ làm việc tại Bệnh viện Chữ thập đỏ Torquay. Ban đầu, bà làm việc như một y tá không lương. Đến năm 1917, sau khi đủ tiêu chuẩn trở thành trợ lý cấp phát thuốc, bà trở thành nhân viên phát thuốc tại bệnh viện với mức lương 16 bảng Anh/năm.<ref name="Morgan1984"/>{{Rp|69}}<ref name="BRC">{{cite web |title=Agatha Christie – British Red Cross |url=https://vad.redcross.org.uk/Agatha-Christie |access-date=26 October 2019 |publisher=[[British Red Cross]] |archive-date=25 October 2019 |archive-url=https://web.archive.org/web/20191025223408/https://vad.redcross.org.uk/Agatha-Christie |url-status=live }}</ref> Tháng 9 năm 1918, bà dừng phục vụ trong cuộc chiến sau khi Archie quay trở lại Luân Đôn. Họ thuê một căn hộ ở [[St. John's Wood]] và sống ở đó.<ref name="Morgan1984"/>{{rp|73–74}}
Ngày 6/12/1926


Từ lâu, Agatha Christie đã là một fan hâm mộ của thể loại tiểu thuyết trinh thám. Bà thích đọc ''[[The Woman in White (tiểu thuyết)|The Woman in White]]'' và [[The Moonstone|''The Moonstone'']] của [[Wilkie Collins]] cũng như các tác phẩm đầu tiên trong bộ truyện [[Sherlock Holmes]] của văn hào [[Arthur Conan Doyle]]. Năm 1916, Christie sáng tác cuốn tiểu thuyết trinh thám đầu tay mang tên ''[[Vụ án bí ẩn ở Styles]]'', kể về nhân vật [[Hercule Poirot]], một cựu sĩ quan cảnh sát người Bỉ với "bộ ria mép rất cừ" và một cái đầu "giống hệt như hình quả trứng",<ref name=":16">{{cite book |last=Osborne |first=Charles |title=The Life and Crimes of Agatha Christie: A Biographical Companion to the Works of Agatha Christie |publisher=[[St. Martin's Press]] |year=2001 |isbn=0-312-28130-7 |location=New York City}}</ref>{{Rp|13}} sống lưu vong ở Anh sau khi Đức xâm lược Bỉ. Đây là nhân vật mà Christie lấy cảm hứng từ chính những người tị nạn Bỉ sống tại Torquay và các binh sĩ Bỉ mà bà giúp đỡ trong thời gian làm y tá tình nguyện trong chiến tranh thế giới thứ nhất.<ref name="Morgan1984"/>{{rp|75–79}}<ref name=":17">{{cite book |last1=Fitzgibbon |first1=Russell H. |url=https://archive.org/details/agathachristieco00fitz |title=The Agatha Christie Companion |publisher=The Bowling Green State University Popular Press |year=1980 |location=Bowling Green, Ohio |url-access=registration}}</ref>{{Rp|17–18}} Không may, hai nhà xuất bản là [[Hodder & Stoughton]] và [[Methuen Publishing|Methuen]] đã từ chối bản thảo của bà. Sau khi giữ bản thảo trong vài tháng, John Lane từ nhà xuất bản [[The Bodley Head]] hứa hẹn sẽ chấp nhận xuất bản, với điều kiện Christie phải thay đổi cách mà những bí ẩn trong cuốn tiểu thuyết được làm sáng tỏ. Bà chấp thuận với đề nghị này, đồng thời ký một bản hợp đồng với điều khoản cho phép nhà xuất bản này chịu trách nhiệm phát hành năm quyển tiểu thuyết tiếp theo. Tuy nhiên sau này, Christie cảm thấy dường như bà đã bị lợi dụng.<ref name="Morgan1984"/>{{rp|79, 81–82}} Tác phẩm ''Vụ án bí ẩn ở Styles'' ra mắt độc giả năm 1920.<ref name="film"/>
Lúc bấy giờ, “nữ hoàng truyện trinh thám” đang ở tuổi 36, và sự biến mất của bà xuất hiện trên khắp các mặt báo của The Times. Chiếc xe hơi của bà được tìm thấy trong tình trạng bánh trước bị long ra, bên cạnh một cái hố.
[[File:British Empire Tour 1922 Belcher.jpg|alt=Black-and-white photograph of three men in suits and one woman seated in a room and looking at an open newspaper|thumb|Từ trái sang phải: Archie Christie, Ernest Belcher (người dẫn đoàn), thư ký Bates và Agatha Christie trong tour du lịch thám hiểm Đế quốc Anh năm 1922]]


Tháng 8 năm 1919, tại Ashfield, Christie hạ sinh đứa con đầu lòng và cũng là đứa con duy nhất của bà, [[Rosalind Hicks|Rosalind Margaret Clarissa]] (sau khi kết hôn đổi họ thành Hicks).<ref name="Morgan1984"/>{{rp|79}}<ref name="thompson"/>{{Rp|340, 349, 422}} Khi chiến tranh kết thúc, Archie rời lực lượng không quân và chuyển sang làm việc trong lĩnh vực tài chính tại [[Thành phố Luân Đôn]] với đồng lương ít ỏi. Bên cạnh đó, họ cũng thuê một người giúp việc cho gia đình.<ref name="Morgan1984"/>{{rp|80–81}} Năm 1922, The Bodley Head cho phát hành cuốn tiểu thuyết thứ hai của Christie mang tên ''[[Địch thủ bí mật]]''. Nhân vật chính lần này là bộ đôi thám tử [[Tommy và Tuppence]]. Bà đã nhận được 50 bảng Anh tiền nhuận bút cho tác phẩm này. Sau cuốn tiểu thuyết thứ hai, cuốn tiểu thuyết thứ ba ''[[Vụ giết người trên sân gôn]]'' ra đời, tiếp tục theo chân nhân vật thám tử Poirot. Ngoài tiểu thuyết ''Vụ giết người trên sân gôn'', kể từ năm 1923, bà cũng viết nhiều truyện ngắn khác có sự xuất hiện của nhân vật thám tử Poirot cho tạp chí ''[[The Sketch]]'', dưới sự yêu cầu từ biên tập viên [[Bruce Ingram]].<ref name="Morgan1984"/>{{rp|83}} Kể từ thời điểm đó, việc Christie bán các tác phẩm của mình đã trở nên thuận lợi hơn.<ref name=":16"/>{{rp|33}}
Ngày 8/12/1926


Năm 1922, gia đình Christie tham gia vào một chuyến du lịch vòng quanh thế giới, với mục đích quảng bá cho [[Triển lãm Đế quốc Anh]]. Chuyến du lịch do Thiếu tá [[Ernest Belcher]] dẫn đầu. Sau khi để lại đứa con gái cho mẹ và chị gái chăm sóc, Agatha cùng chồng chu du trong 10 tháng qua nhiều vùng đất khác nhau như [[Cộng hòa Nam Phi|Nam Phi]], [[Úc]], [[New Zealand]], [[Hawaii]] và [[Canada]].<ref name="Morgan1984"/>{{rp|86–103}}<ref>{{cite book |last=Prichard |first=Mathew |title=The Grand Tour: Around The World With The Queen Of Mystery |publisher=[[HarperCollins]] Publishers |year=2012 |isbn=978-0-06-219122-9 |location=New York City}}</ref> Ở Nam Phi, họ học [[lướt sóng]] bằng cách nằm sấp, nhưng khi đến [[Waikiki]], họ đã có thể vừa đứng vừa lướt sóng, qua đó trở thành những người Anh đầu tiên có thể làm được điều này. Vì vậy họ quyết định dành thêm ba tháng tiếp theo ở đó để học lướt sóng.<ref>{{cite news |last=Jones |first=Sam |date=29 July 2011 |title=Agatha Christie's Surfing Secret Revealed |newspaper=[[The Guardian]] |url=https://www.theguardian.com/books/2011/jul/29/agatha-christie-hercule-poirot-surfing-secret |access-date=30 July 2011 |archive-date=15 December 2013 |archive-url=https://web.archive.org/web/20131215093338/http://www.theguardian.com/books/2011/jul/29/agatha-christie-hercule-poirot-surfing-secret |url-status=live }}</ref><ref>{{cite news |date=29 July 2011 |title=Agatha Christie 'one of Britain's first stand-up surfers' |work=[[The Daily Telegraph]] |url=https://www.telegraph.co.uk/culture/books/8670354/Agatha-Christie-one-of-Britains-first-stand-up-surfers.html |access-date=30 July 2011 |archive-date=29 July 2011 |archive-url=https://web.archive.org/web/20110729225835/http://www.telegraph.co.uk/culture/books/8670354/Agatha-Christie-one-of-Britains-first-stand-up-surfers.html |url-status=live }}</ref> Bảo tàng Lướt sóng Anh Quốc đã ghi lại cảm nhận của bà khi nhắc đến bộ môn này như sau: "Ôi đúng là thiên đường! Không có gì tuyệt vời hơn việc lao vút qua dòng nước như thể [bạn đang di chuyển] với vận tốc hai trăm dặm một giờ. Đó là một trong những thú vui thể chất tuyệt vời nhất mà tôi từng biết."<ref>{{Cite web |date=2019-03-24 |title=Agatha Christie began riding surfboards standing up at Waikiki - Museum of British Surfing |url=https://www.museumofbritishsurfing.org.uk/timeline/agatha-christie-began-riding-surfboards-standing-up-at-waikiki/ |access-date=2022-09-01 |language=en-GB}}</ref>
Sau 3 ngày tìm kiếm, cảnh sát cho rằng anh rể của bà đã nhận được 1 lá thư từ bà. Trong thư nói rằng bà sẽ đến một spa ở Yorkshire để nghỉ ngơi và điều trị. Đến đây, dường như vụ án đã được khép lại. Nhưng không phải như vậy.


Khi quay trở về Anh, Archie tiếp tục công việc của mình trong thành phố, còn Christie chăm chỉ sáng tác. Sau một thời gian sống trong nhiều căn hộ khác nhau ở Luân Đôn, cuối cùng đôi vợ chồng cũng có thể mua một căn nhà ở [[Sunningdale]], Berkshire. Họ quyết định đổi tên căn nhà thành "Styles", theo tên của căn biệt thự trong tiểu thuyết đầu tiên của Christie.<ref name="Morgan1984"/>{{Rp|124–25}}<ref name="thompson"/>{{Rp|154–55}}
Ngày 10/12/1926


Tháng 4 năm 1926, mẹ của Christie, [[Clarissa Miller]] qua đời. Nỗi mất mát quá lớn khiến Christie rơi vào trầm cảm nặng, vì cả hai từng vô cùng thân thiết.<ref name="thompson"/>{{Rp|168–72}} Đến tháng 8 cùng năm, báo chí loan tin Christie đã chuyển đến một ngôi làng gần [[Biarritz]] để phục hồi sau "cơn suy sụp" gây ra bởi "làm việc quá sức".<ref name=":6">{{cite news |date=20 August 1926 |title=A Penalty of Realism |page=6 |work=[[The News (Portsmouth)|The Evening News]] |location=Portsmouth, Hampshire}}</ref>
Cảnh sát dường như không bị lá thư kia thuyết phục, đã mở rộng tìm kiếm. Thậm chí, họ đã sử dụng con chó của Christie trong quá trình tìm kiếm, nhằm hi vọng nó sẽ phát hiện ra mùi hương của chủ mình ở đâu đó.


=== 1926: Mất tích ===
Tờ báo The Times đã đưa tin: các thám tử cho rằng đó là một vụ tự sát. Cuộc tìm kiếm lại chuyển hướng tập trung vào một cái ao có tên là “the Silent Pool”, mà theo truyền thuyết địa phương là sâu không đáy.


[[File:Christie at Hydro.jpg|thumb|upright|Ảnh chụp một trang của tờ báo ''[[Daily Herald (UK newspaper)|Daily Herald]]'' phát hành ngày 15 tháng 12 năm 1926, đưa tin về việc Christie đã được tìm thấy. Sau khi mất tích 11 ngày, người ta đã tìm thấy bà ở [[Khách sạn Old Swan|khách sạn Swan Hydropathic]], [[Harrogate]], Yorkshire.|alt=Newspaper article with portraits of Agatha and Archie Christie]]
Có một chi tiết được biệt trêu ngươi ở cuối bài báo đã viết: Một người bạn của Christie đã nói rằng ngôi nhà bà sống ở Sunningdale đã khiến bà căng thẳng. Ngôi nhà ấy nằm trên một con đường đơn độc, không có ánh sáng vào ban đêm, có tiếng ma ám. Con đường dẫn vào ngôi nhà ấy còn là hiện trường của một vụ giết hại người phụ nữ và một người đàn ông cũng tự tử ở đó.


Tháng 8 năm 1926, Archie đòi ly hôn với Agatha sau khi có tình cảm với Nancy Neele, một người bạn của Đại tá Belcher.<ref name="thompson"/>{{Rp|173–74}} Vào ngày 3 tháng 12 năm 1926, cặp đôi cãi nhau sau khi Archie thông báo sẽ dành cuối tuần cùng bạn bè mà không đưa vợ đi cùng. Tối muộn ngày hôm đó, Christie biến mất khỏi ngôi nhà ở Sunningdale. Sáng hôm sau, người ta phát hiện chiếc xe hơi hiệu [[Morris Cowley]] của bà đậu trên một mỏ đá vôi ở [[Newlands Corner]], [[Surrey]], bên trong là giấy phép lái xe hết hạn và một vài bộ quần áo.<ref>{{cite news |date=6 December 1926 |title=100 Police Scour Downs for Missing Woman Novelist |page=1 |work=[[Yorkshire Evening Post]]}}</ref><ref name="ChristieLife">{{cite web |title=Christie's Life: 1925–1928 A Difficult Start |url=http://www.agathachristie.com/about-christie#christies-life |website=The Home of Agatha Christie |access-date=12 February 2017 |archive-date=7 December 2015 |archive-url=https://web.archive.org/web/20151207094654/http://www.agathachristie.com/about-christie/#christies-life |url-status=live }}</ref> Người ta lo sợ rằng bà có thể đã trầm mình xuống hồ [[Silent Pool]], một địa điểm tham quan gần đó.<ref>{{cite news|title=Agatha Christie's real-life mystery at the Silent Pool|url=http://news.bbc.co.uk/local/surrey/hi/people_and_places/history/newsid_9005000/9005502.stm|access-date=10 November 2022|publisher=BBC News|date=17 September 2010}}</ref>
“Nếu tôi không rời Sunningdale sớm thì Sunningdale sẽ giết tôi mất.” - Đó là những gì mà Christie nói với người bạn của mình.


Vụ mất tích nhanh chóng trở thành câu chuyện nổi bật trên khắp các mặt báo. Báo chí như vớ được vàng, nhanh chóng tìm cách làm hài lòng những độc giả vốn đang "thèm khát những tin giật gân, tin về thảm họa và các vụ bê bối".<ref name="thompson"/>{{Rp|224}} [[Bộ trưởng Bộ Nội vụ Anh]] [[William Joynson-Hicks]] gây áp lực lên cảnh sát, trong khi một tòa soạn báo đã treo thưởng lên đến 100 bảng Anh (tương đương 6.400 bảng thời giá 2021) cho ai tìm được Christie. Hơn 1.000 cảnh sát, 15.000 tình nguyện viên cùng một vài máy bay đã tham gia lùng sục khắp một vùng nông thôn rộng lớn. Nhà văn [[Arthur Conan Doyle]] đã đưa một trong những chiếc găng tay của Christie cho một thầy đồng nhờ người này tìm kiếm bà.{{Refn|[[Dorothy L. Sayers]], who visited the "scene of the disappearance", later incorporated details in her book ''[[Unnatural Death (novel)|Unnatural Death]]''.<ref name="thorpe"/>|group=lower-alpha}} Sự mất tích của Christie cũng trở thành tiêu điểm trên các phương tiện truyền thông quốc tế, bao gồm việc xuất hiện trên trang nhất của tờ ''[[The New York Times]]''.<ref>{{cite news |title=When the World's Most Famous Mystery Writer Vanished |url=https://www.nytimes.com/2019/06/11/books/agatha-christie-vanished-11-days-1926.html |access-date=12 November 2020 |newspaper=The New York Times |date=11 June 2019 |archive-date=31 October 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20201031092245/https://www.nytimes.com/2019/06/11/books/agatha-christie-vanished-11-days-1926.html |url-status=live |last1=Jordan |first1=Tina }}</ref><ref>{{cite news |title=The original Gone Girl: Agatha Christie's mysterious disappearance |url=https://www.independent.co.uk/news/people/the-original-gone-girl-agatha-christie-s-mysterious-disappearance-9839497.html |access-date=17 September 2022 |newspaper=The Independent}}</ref> Phải đến 10 ngày sau đó thì Christie mới được tìm thấy, mặc cho nhiều nỗ lực tìm kiếm quy mô lớn.<ref name="thorpe">{{cite news |last=Thorpe |first=Vanessa |date=15 October 2006 |title=Christie's most famous mystery solved at last |newspaper=[[The Guardian]] |location=London |url=https://www.theguardian.com/uk/2006/oct/15/books.booksnews |access-date=21 May 2013 |archive-date=5 October 2013 |archive-url=https://web.archive.org/web/20131005125638/http://www.theguardian.com/uk/2006/oct/15/books.booksnews |url-status=live }}</ref><ref>{{cite news |date=15 December 1926 |title=Mrs Christie Found in a Yorkshire Spa |page=1 |newspaper=[[The New York Times]] |url=https://www.nytimes.com/1926/12/15/archives/mrs-christie-found-in-a-yorkshire-spa-missing-novelist-under-an.html |url-access=subscription |access-date=16 September 2009 |archive-date=13 November 2013 |archive-url=https://web.archive.org/web/20131113125813/http://select.nytimes.com/gst/abstract.html?res=F60C17FE3C591B7A93C7A81789D95F428285F9 |url-status=live }}</ref><ref name="Harrogate">{{cite news |date=3 December 2009 |title=Agatha Christie's Harrogate mystery |work=[[BBC News]] |url=http://news.bbc.co.uk/local/york/hi/people_and_places/history/newsid_8393000/8393552.stm |access-date=17 March 2013 |archive-date=16 July 2013 |archive-url=https://web.archive.org/web/20130716003934/http://news.bbc.co.uk/local/york/hi/people_and_places/history/newsid_8393000/8393552.stm |url-status=live }}</ref> Sau này, người ta mới biết, vào ngày 4 tháng 12, một ngày sau khi Christie mất tích, bà đã đến Luân Đôn uống trà và ghé thăm cửa hàng bách hóa [[Harrods]], để rồi ngạc nhiên trước cảnh [[trang trí Giáng Sinh]] ở đó.<ref>{{cite news |title=What really happened when Agatha Christie went missing |url=https://www.thetimes.co.uk/article/what-really-happened-when-agatha-christie-went-missing-7qgw5strl |access-date=4 December 2023 |work=The Times}}</ref> Ngày 14 tháng 12 năm 1926, người ta phát hiện Christie đang đăng ký nhận phòng ở [[Khách sạn Old Swan|khách sạn Swan Hydropathic]], [[Harrogate]], Yorkshire, cách Sunningdale {{convert|184|mi|km}} về phía bắc. Bà đăng ký với tên "Mrs Tressa{{Refn|Thông báo mà Christie đăng trên trang đầu tiên của tờ ''[[The Times]]'' vào ngày 11 tháng 12 năm 1926 được viết dưới tên Teresa, nhưng chữ ký ghi trên sổ đăng ký khách sạn đọc một cách tự nhiên hơn lại là Tressa. Báo chí cũng cho biết rằng Christie đã dùng cái Tressa trong nhiều dịp khác nhau suốt khoảng thời gian mà bà mất tích (bao gồm việc đến thư viện).<ref name="Leedsp1"/>|group=lower-alpha}} Neele", quê quán ở "{{Sic|Capetown}} S.A." (Nam Phi). Trong đó, Tressa là họ của người phụ nữ mà chồng bà đang ngoại tình.<ref>{{cite web |url=https://www.classic-lodge.co.uk/the-old-swan/agatha-christie/ |title=The Details of this Strange Case ... |year=2019 |website=Classic Lodges |access-date=27 October 2019 |archive-date=27 October 2019 |archive-url=https://web.archive.org/web/20191027031930/https://www.classiclodges.co.uk/the-old-swan/agatha-christie/ |url-status=live }}</ref> Ngày hôm sau, Christie rời khách sạn và đến tá túc tại nhà chị gái ở [[Abney Hall]], Cheadle, nơi bà sống cô lập "trong một căn phòng được bảo vệ nghiêm ngặt, cổng đóng kín, mọi liên lạc bị cắt đứt và bất cứ bất cứ ai đến thăm đều bị từ chối".<ref name="Leedsp1">{{cite news |date=16 December 1926 |title=What We Want to Know about Mrs. Christie |page=1 |work=[[The Leeds Mercury]]}}</ref><ref>{{cite news |date=16 December 1926 |title=My Point is This. What I want to Know About Mrs. Christie |page=4 |work=[[The Leeds Mercury]]}}</ref><ref>{{cite news |date=16 December 1926 |title=Medium Looks for Mrs. Christie |page=9 |work=[[The Leeds Mercury]]}}</ref><ref name=":3">{{cite news |date=17 December 1926 |title=Two Doctors Examine Mrs. Christie |page=1 |work=[[The Leeds Mercury]]}}</ref>
Ngày 11/12/1926


Trong cuốn tự truyện của mình, Christie không hề đề cập gì đến vụ mất tích bí ẩn đó.<ref name="Auto1993"/> Hai bác sĩ khám bệnh cho Christie đã chẩn đoán bà "thực sự mất trí nhớ hoàn toàn",<ref name=":3"/><ref>{{cite news |date=17 December 1926 |title=Mrs Christie. Doctors Certify Loss of Memory |page=12 |work=[[Western Daily Press]]}}</ref> thế nhưng nguyên nhân đằng sau sự biến mất này vẫn còn là chủ đề gây tranh cãi. Một vài ý kiến, bao gồm nhà viết tiểu sử Morgan thì tin rằng bà mất tích trong trạng thái [[quên phân ly]].<ref name="Morgan1984"/>{{Rp|154–59}}<ref name="thorpe"/><ref name="disfugue">{{cite magazine |date=17 March 2012 |title=Dissociative Fugue |url=http://www.psychologytoday.com/blog/hide-and-seek/201203/dissociative-fugue-the-mystery-agatha-christie |magazine=[[Psychology Today]] |access-date=17 March 2013 }}</ref> Trong khi đó, tác giả Jared Cade thì lại có quan điểm rằng Christie đã cố tình lên kế hoạch này nhằm mục đích khiến chồng xấu hổ nhưng không lường trước được phản ứng quá cường điệu từ công chúng.<ref>{{Citation |last=Cade |first=Jared |title=Agatha Christie and the Missing Eleven Days |year=1997 |publisher=[[Peter Owen Publishers|Peter Owen]] |isbn=0-7206-1112-1}}</ref>{{Rp|121}} Còn nhà viết tiểu sử Laura Thompson thì có cái nhìn khác hơn, cho rằng Christie biến mất trong tình trạng suy nhược thần kinh, nên tuy bà nhận thức được hành động của mình nhưng lại không thể kiềm chế được cảm xúc.<ref name="thompson"/>{{Rp|220–21}} Phản ứng của công chúng lúc bấy giờ phần lớn là tiêu cực. Họ nghi ngờ rằng đây chỉ là chiêu trò quảng bá bản thân của bà hoặc nhằm mục đích sâu xa hơn là gán ghép cho chồng tội mưu sát.<ref>{{Citation |last=Adams |first=Cecil |title=Why did mystery writer Agatha Christie mysteriously disappear? |date=2 April 1982 |url=http://www.straightdope.com/columns/read/361/why-did-mystery-writer-agatha-christie-mysteriously-disappear |newspaper=[[The Chicago Reader]] |access-date=19 May 2008 |archive-date=18 September 2008 |archive-url=https://web.archive.org/web/20080918082312/http://www.straightdope.com/columns/read/361/why-did-mystery-writer-agatha-christie-mysteriously-disappear |url-status=live }}</ref>{{Refn|group=lower-alpha|Agatha Christie từng bóng gió đề cập đến việc bản thân bị suy nhược thần kinh trong một lần trò chuyện với một người phụ nữ có biểu hiện tương tự mình: "Tôi nghĩ cô nên cẩn thận, vì đây có thể là dấu hiệu cho việc suy nhược thần kinh."<ref name="Auto1993"/>{{rp|337}}}}
Christie đã mất tích được một tuần. Cảnh sát lúc này đang rất bối rối bởi không có nhân chứng đáng tin cậy nào nhìn thấy bà từ cái đêm bà rời khỏi nhà. Nhưng có một tình tiết quan trọng: Christie đã để lại 3 lá thư: một cho thư ký, một cho anh rể và một cho chồng. Chồng bà đã từ chối tiết lộ những gì mà bà đã viết.


=== 1927–1976: Tái hôn và những năm tháng cuối đời ===
Ngày 12/12/1926


[[File:Hotel Pera Palace - Istanbul.jpg|thumb|Căn phòng Christie từng ở tại [[khách sạn Pera Palace]], [[Istanbul]], nơi mà nhân viên khách sạn một mực khẳng định rằng bà đã sáng tác cuốn tiểu thuyết ''[[Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông]]''|alt=Colour photograph of a hotel room with Christie memorabilia on the walls]]
Các thám tử kêu gọi sự giúp đỡ từ những người lái xe mô tô và những mật thám nghiệp dư. Không cần biết tại sao, cảnh sát vẫn tin rằng bà đang ở đâu đó cách không xa nơi chiếc ô tô của bà được tìm thấy.


Tháng 1 năm 1927, Christie trong bộ dạng "vô cùng tiều tụy", đã lên thuyền cùng con gái và thư ký riêng của mình đến [[Las Palmas de Gran Canaria|Las Palmas]], [[Quần đảo Canaria]] để "hoàn thành quá trình dưỡng bệnh"<ref>{{cite news |date=24 January 1927 |title=Mrs. Christie Leaves |page=1 |work=[[Daily Herald (UK newspaper)|Daily Herald]]}}</ref> và quay trở về sau ba tháng.<ref>[https://discovery.nationalarchives.gov.uk/details/r/C9438379 Inwards Passenger Lists] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20191030035258/https://discovery.nationalarchives.gov.uk/details/r/C9438379|date=30 October 2019}}. [[The National Archives (United Kingdom)|The National Archives]], Kew. Board of Trade: Commercial and Statistical Department and successors, BT26/837/112.</ref>{{Refn|Christie's authorised biographer includes an account of specialist psychiatric treatment following Christie's disappearance, but the information was obtained second or third hand after her death.<ref name="Morgan1984"/>{{rp|148–49, 159}}|group=lower-alpha}} Christie đệ đơn li hôn và nhận được [[Decree nisi|sự chấp thuận tạm thời]] từ tòa án vào tháng 4 năm 1928. Quyết định ly hôn chính thức có hiệu lực vào tháng 10 cùng năm. Một tuần sau, Archie chính thức kết hôn với nhân tình Nancy Neele.<ref>{{cite news |date=6 November 1928 |title=Col. Christie Married |page=5 [Includes divorce details] |work=[[Gloucestershire Echo]]}}</ref> Christie duy trì quyền nuôi con gái và giữ lại họ chồng cũ là Christie cho mục đích sáng tác sau này.<ref name=":17"/>{{Rp|21}}<ref>{{cite news |date=21 April 1928 |title=Mrs. Christie. Novelist Granted Decree Nisi |page=17 |work=[[The Yorkshire Post]]}}</ref> Trong cuốn hồi ký của mình, khi nhớ về giai đoạn đó, Christie tâm sự: "Vậy là, sau cơn đau ốm, thứ còn lại chỉ là nỗi buồn, tuyệt vọng và cảm giác đổ vỡ. Không cần phải nhắc thêm gì về nó nữa."<ref name="Auto1993" />{{Rp|340}}
Trong cùng một bài viết, thư ký cá nhân của bà đã giận dữ phủ nhận rằng toàn bộ sự việc là một trò nực cười: “Như vậy là đã quá đủ với bà Christie rồi.” Và người thư ký này cũng trao lại bức thư mà Christie đã để lại cho mình, và những gì trong bức thư chỉ là lịch trình làm việc.


Năm 1928, Christie rời nước Anh, rong ruổi trên chuyến [[tàu tốc hành Phương Đông]] qua [[Istanbul]] rồi sau đó đến [[Baghdad]].<ref name="Morgan1984"/>{{Rp|169–70}} Tại mảnh đất Iraq, bà làm bạn với vợ chồng nhà khảo cổ học Leonard Woolley. Đến tháng 2 năm 1930, họ mời Christie quay trở lại địa điểm nơi mà họ thực hiện khai quật.<ref name="Auto1993"/>{{Rp|376–77}} Trong chuyến đi thứ hai này, bà gặp gỡ nhà khảo cổ học [[Max Mallowan]], người kém bà 13 tuổi.<ref name="thompson"/>{{Rp|284}} Trong một cuộc phỏng vấn vào năm 1977, Mallowan có dịp thuật lại chi tiết về lần gặp gỡ đầu tiên của mình với Christie, khi ông dẫn bà cùng một nhóm khách du lịch khác tham quan địa điểm khai quật của mình ở Iraq.<ref name="max">{{cite web |title=Interview with Max Mallowan |url=https://www.bbc.co.uk/archive/agatha_christie/12508.shtml |access-date=21 July 2017 |work=[[BBC]] |archive-date=27 July 2017 |archive-url=https://web.archive.org/web/20170727080059/http://www.bbc.co.uk/archive/agatha_christie/12508.shtml |url-status=live }}</ref> Christie tái hôn với Mallowan tại [[Edinburgh]] vào tháng 9 năm 1930<ref name="thompson"/>{{Rp|295–96}}<ref>''Marriage Certificate''. Scotland{{snd}}Statutory Register of Marriages, 685/04 0938, 11 September 1930, District of St Giles, Edinburgh.</ref> và ông trở thành người bạn đời cuối cùng của Christie cho đến khi bà qua đời vào năm 1976.<ref name="thompson">{{Citation |last=Thompson |first=Laura |title=Agatha Christie: An English Mystery |year=2008 |place=London |publisher=[[Headline Publishing Group|Headline Review]] |isbn=978-0-7553-1488-1}}</ref>{{Rp|413–14}} Việc thường xuyên tham gia cùng Mallowan trong các cuộc thám hiểm khảo cổ đã góp phần giúp Christie có được nguồn cảm hứng, khơi mào cho một số tác phẩm lấy bối cảnh ở vùng Trung Đông,<ref name="max"/> mặc dù một số tiểu thuyết khác (chẳng hạn như ''[[Hiểm họa ở Nhà Kết]]'') lại lấy bối cảnh xung quanh vùng Torquay nơi bà lớn lên.<ref name=":16"/>{{Rp|95}} Ngoài ra, nhờ những trải nghiệm có được trên chuyến tàu xuyên quốc tế, Christie đã có thêm tư liệu để tạo ra tác phẩm ''[[Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông]]''.<ref name="Morgan1984"/>{{Rp|201}} Tại [[khách sạn Pera Palace]] ở Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay, điểm cuối của chuyến tàu tốc hành Phương Đông, một căn phòng được cho là nơi Christie từng ở trong thời gian sáng tác cuốn tiểu thuyết đã trở thành một nơi tưởng niệm dành cho nữ tác giả.<ref>{{cite web |date=19 September 2018 |title=World-famous Author Agatha Christie and The Mysterious Story of Her Lost 11 Days |url=https://blog.perapalace.com/en/story-of-pera/agatha-christie-and-the-story-of-her-lost-11-days/ |access-date=2 May 2020 |website=[[Pera Palace Hotel]] |language=en-US |archive-date=6 August 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20200806092428/https://blog.perapalace.com/en/story-of-pera/agatha-christie-and-the-story-of-her-lost-11-days/ |url-status=live }}</ref>{{Refn|Other authors claim Christie wrote ''Murder on the Orient Express'' whilst at a dig at [[Tell Arpachiyah|Arpachiyah]].<ref name="Morgan1984"/>{{Rp|206}}<ref name=":16"/>{{Rp|111}}|group=lower-alpha}}
Cảnh sát bắt đầu sục sạo. Họ chuyển sang tìm manh mối trên các bản thảo của bà, và lúc bấy giờ bà đang viết “The Blue Train”.
[[File:Cresswell Place.jpg|thumb|upright|left|Cresswell Place, [[Chelsea, London|Chelsea]]|alt=Colour photograph of the front of a three-storey house]]


Thời gian đầu, Christie và Mallowan sống tại Cresswell Place, [[Chelsea, London|Chelsea]], sau đó chuyển đến Sheffield Terrace, [[Holland Park]], [[Kensington]]. Hiện cả hai ngôi nhà này đều được đánh dấu bằng một tấm biển màu xanh lam, thể hiện rằng đó là những địa điểm lịch sử. Năm 1934, hai vợ chồng mua căn nhà [[Winterbrook House]] ở [[Winterbrook]] (một ngôi làng nhỏ gần [[Wallingford, Oxfordshire|Wallingford]]).<ref>{{cite web |title=Dame Agatha Christie & Sir Max Mallowan |url=http://www.oxonblueplaques.org.uk/plaques/christie.html |access-date=20 May 2020 |website=[[Oxfordshire Blue Plaques Board|Oxfordshire Blue Plaques Scheme]] |archive-date=29 May 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20200529092532/http://www.oxonblueplaques.org.uk/plaques/christie.html |url-status=live }}</ref> Đây là nơi cư trú cuối cùng của họ suốt quãng đời còn lại và cũng là nơi mà Christie sáng tác phần lớn tác phẩm của mình.<ref name="thompson"/>{{Rp|365}} Căn nhà này về sau cũng trở thành một địa điểm lịch sử. Mặc dù nổi tiếng ở Wallingford, Christie vẫn chọn sống một đời bình lặng. Từ năm 1951 đến năm 1976, bà giữ chức chủ tịch của một tổ chức kịch nghệ nghiệp dư trong khu vực.<ref>{{cite web |url=http://www.sinodunplayers.org.uk/w2011/heritage |title=Sinodun Players |website=Sinodun Players |access-date=9 February 2018 |archive-date=10 February 2018 |archive-url=https://web.archive.org/web/20180210002936/http://www.sinodunplayers.org.uk/w2011/heritage |url-status=live }}</ref>
Ngày 13/12/1926


Năm 1938, vợ chồng Christie mua khu đất [[Greenway Estate]] ở Devon làm nơi nghỉ dưỡng vào mùa hè.<ref name="thompson"/>{{Rp|310}} Đến năm 2000, khu đất này được bàn giao lại cho tổ chức [[National Trust]].<ref>{{cite web |title=Agatha's Greenway |url=https://www.nationaltrust.org.uk/greenway/features/agathas-greenway |access-date=30 April 2020 |website=[[National Trust for Places of Historic Interest or Natural Beauty|National Trust]] |language=en |archive-date=16 April 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20200416121515/https://www.nationaltrust.org.uk/greenway/features/agathas-greenway |url-status=live }}</ref> Christie cũng thường xuyên đến ở tại [[Abney Hall]], [[Cheshire]], thuộc sở hữu của anh rể bà là James Watts. Bà đã lấy cảm hứng từ nơi này để xây dựng nên ít nhất hai tác phẩm, bao gồm một truyện ngắn "[[The Adventure of the Christmas Pudding]]", nằm trong tập truyện ngắn cùng tên và một tiểu thuyết mang tên ''[[Sau tang lễ]]''.<ref name="Auto1993"/>{{Rp|126}}<ref name="thompson"/>{{Rp|43}} Trong một bản tóm tắt viết về Christie, có đoạn: "Abney trở thành nguồn cảm hứng lớn nhất của Agatha về những ngày tháng sống ở căn nhà vùng quê, khi tất cả những [chi tiết về] người hầu và vẻ nguy nga của nó được đan cài vào trong các tình tiết của cốt truyện. Mô tả của bà về những căn nhà hư cấu Chimneys, Stonygates cùng những căn nhà khác trong tác phẩm hầu hết chỉ là hình ảnh của Abney Hall dưới nhiều mô thức khác nhau."<ref>{{Citation |last1=Wagstaff |first1=Vanessa |title=Agatha Christie: A Reader's Companion |url=https://archive.org/details/agathachristiere00wags/page/14 |page=[https://archive.org/details/agathachristiere00wags/page/14 14] |year=2004 |publisher=[[The Quarto Group|Aurum Press]] |isbn=1-84513-015-4 |last2=Poole |first2=Stephen}}</ref>
Có khoảng 10.000 - 15.000 người đã tham gia vào cuộc tìm kiếm “nữ hoàng truyện trinh thám”, cộng thêm sự hỗ trợ của 6 chú chó săn Airedale, nhiều chó săn và chó cảnh sát Alsatian. Thậm chí, những tên côn đồ thông thường cũng tham gia và vụ tìm kiếm này.


[[File:DAME AGATHA CHRISTIE 1890-1976 Detective novelist and playwright lived here 1934-1941.jpg|thumb|upright=0.8|Tấm bảng màu xanh lam đặt tại căn nhà số 58, Sheffield Terrace, [[Holland Park]], Luân Đôn|alt=Colour photograph of a wall plaque stating Christie "lived here 1934–1941"]]
Cùng ngày hôm đó, cảnh sát đoán rằng Christie có thể ở London. Có thể bà đã cải trang thành một người đàn ông. Và cũng có tin đồn rằng bà đã để lại những chiếc phong bì chỉ được mở ra khi người ta tìm thấy xác của bà. Các nhà tâm linh thậm chí đã làm lễ tại cái hố nơi phát hiện chiếc xe của bà.
[[File:Winterbrook House-geograph-1848557-by-Bill-Nicholls.jpg|thumb|upright=0.8|Căn nhà Winterbrook House, tọa lạc ở [[Winterbrook]], [[Oxfordshire]], căn nhà cuối cùng mà vợ chồng Christie sinh sống từ năm 1934 đến khi bà qua đời vào năm 1976.]]


Trong [[chiến tranh thế giới thứ hai]], Christie chuyển đến Luân Đôn và sống trong một căn hộ ở [[Isokon Flats|Isokon]], [[Hampstead]]. Bà làm việc tại khoa dược của [[Bệnh viện University College|bệnh viện University College Luân Đôn]]. Tại đây, bà có thêm nhiều hiểu biết hơn về các chất độc.<ref>Worsley, Lucy (2022) ''Agatha Christie'', Hodder & Stoughton</ref> Bà đã viết cuốn tiểu thuyết ''[[Tình yêu phù thủy]]'' dựa trên gợi ý của dược sĩ trưởng Harold Davis. Năm 1977, một nhóm các nhân viên y tế Anh đã xử lý thành công một vụ [[ngộ độc thali]] sau khi đọc tiểu thuyết của Christie và nhận ra những triệu chứng tương đồng mà bà mô tả.<ref>{{cite journal |title=Thallium poisoning in fact and in fiction |journal=[[The Pharmaceutical Journal]] |date=25 November 2006 |volume=277 |page=648 |url=https://www.pharmaceutical-journal.com/opinion/column/thallium-poisoning-in-fact-and-in-fiction-/-vexed-question-of-the-geographical-origins-of-the-meat-filled-pasty-/-how-illegal-ch/10002699.article |access-date=6 September 2019 |archive-date=6 September 2019 |archive-url=https://web.archive.org/web/20190906164450/https://www.pharmaceutical-journal.com/opinion/column/thallium-poisoning-in-fact-and-in-fiction-/-vexed-question-of-the-geographical-origins-of-the-meat-filled-pasty-/-how-illegal-ch/10002699.article |url-status=live }}</ref><ref>John Emsley, [https://www.independent.co.uk/news/science/the-poison-prescribed-by-agatha-christie-thanks-to-the-mystery-writer-the-deadly-properties-of-thallium-sulphate-have-become-common-knowledge-corrected-1534450.html "The poison prescribed by Agatha Christie"] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20150925153802/http://www.independent.co.uk/news/science/the-poison-prescribed-by-agatha-christie-thanks-to-the-mystery-writer-the-deadly-properties-of-thallium-sulphate-have-become-common-knowledge-corrected-1534450.html |date=25 September 2015 }}, ''[[The Independent]]'', 20 July 1992.</ref>
Ngày 14/12/1926


Cũng trong thời gian diễn ra cuộc chiến, cơ quan tình báo Anh [[MI5]] đã mở một cuộc điều tra nhằm vào Agatha Christie sau khi một nhân vật tên Thiếu tá Bletchley xuất hiện trong tiểu thuyết ''[[Người đàn bà hoang dã]]'' xuất bản năm 1941. Tác phẩm xoay quanh cuộc truy lùng bộ đôi điệp viên [[Đội quân thứ năm|phản cách mạng]] nguy hiểm ở nước Anh trong cuộc chiến.<ref name="Richard Norton-Taylor">{{cite news |author=Richard Norton-Taylor |date=4 February 2013 |title=Agatha Christie was investigated by MI5 over Bletchley Park mystery |newspaper=[[The Guardian]] |location=London |url=https://www.theguardian.com/books/2013/feb/04/agatha-christie-mi5-bletchley |access-date=29 March 2013 |archive-date=23 September 2017 |archive-url=https://web.archive.org/web/20170923050939/https://www.theguardian.com/books/2013/feb/04/agatha-christie-mi5-bletchley |url-status=live }}</ref> MI5 lo ngại rằng có ai đó thuộc [[Bletchley Park]], trung tâm giải mã tối mật của Anh Quốc đã tuồn tin tức ra cho bà. Tuy nhiên, nỗi lo lắng nhanh chóng lắng xuống khi Christie giải thích với bạn của mình, nhà giải mã [[Dilly Knox]] rằng: "Tôi bị kẹt ở nơi đó trên chuyến tàu từ Oxford đến London vì vậy tôi quyết định trả thù bằng cách dùng cái tên đó đặt cho một trong những nhân vật ít thiện cảm nhất của mình."<ref name="Richard Norton-Taylor"/>
Tờ The Times cho biết cảnh sát đã tìm thấy một số manh mối quan trọng gần đó, bao gồm cả một chai có nhãn chì và thuốc phiện, mảnh bưu thiếp bị xé rách, áo khoác lông thú của phụ nữ, một hộp phấn, đầu một ổ bánh mì, một hộp các-tông và hai cuốn sách thiếu nhi.


Năm 1950, Christie được bầu làm thành viên của [[Hội Văn học Hoàng gia Anh]].<ref name=":17"/>{{Rp|23}} Trong lễ vinh danh công dân nhân dịp đầu năm mới 1956, Christie vinh dự nhận tước hiệu [[Huân chương Đế quốc Anh|Chỉ huy Đế quốc Anh]] (CBE).<ref>{{cite news |date=30 December 1955 |title=Central Chancery of the Orders of Knighthood |page=11 |publisher=The London Gazette |issue=Supplement: 40669 |url=https://www.thegazette.co.uk/London/issue/40669/supplement/11 |access-date=18 April 2020 |archive-date=30 July 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20200730132159/https://www.thegazette.co.uk/London/issue/40669/supplement/11 |url-status=live }}</ref> Từ năm 1958 cho đến khi qua đời vào năm 1976, bà là đồng chủ tịch của [[Câu lạc bộ Truyện trinh thám Anh]].<ref name=":16"/>{{Rp|93}} Đến năm 1961, trường [[Đại học Exeter]] trao tặng cho bà bằng Tiến sĩ Văn học danh dự.<ref name=":17"/>{{Rp|23}} Nhân dịp vinh danh công dân đầu năm mới năm 1971, [[Elizabeth II|Nữ vương Elizabeth II]] đã trao tặng cho Christie tước [[Huân chương Đế quốc Anh|Quý bà Đế quốc Anh]] (DBE),<ref>{{cite news |date=31 December 1970 |title=D.B.E. |page=7 |publisher=The London Gazette |issue=Supplement: 45262 |url=https://www.thegazette.co.uk/London/issue/45262/supplement/7 |access-date=18 April 2020 |archive-date=19 September 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20200919115510/https://www.thegazette.co.uk/London/issue/45262/supplement/7 |url-status=live }}</ref><ref>{{cite book |last=Kastan |first=David Scott |title=The Oxford Encyclopedia of British Literature |publisher=[[Oxford University Press]] |year=2006 |isbn=978-0-19-516921-8 |volume=1 |page=467}}</ref><ref>{{Citation |last=Reitz |first=Caroline |title=Christie, Agatha |date=2006 |url=https://www.oxfordreference.com/view/10.1093/acref/9780195169218.001.0001/acref-9780195169218-e-0098 |encyclopedia=The Oxford Encyclopedia of British Literature |publisher=[[Oxford University Press]] |language=en |doi=10.1093/acref/9780195169218.001.0001 |isbn=978-0-19-516921-8 |access-date=24 October 2019 |archive-date=16 November 2019 |archive-url=https://web.archive.org/web/20191116150129/https://www.oxfordreference.com/view/10.1093/acref/9780195169218.001.0001/acref-9780195169218-e-0098 |url-status=live }}</ref> ba năm sau khi chồng bà được phong tước hiệp sĩ vì những đóng góp của ông trong lĩnh vực khảo cổ học.<ref>{{cite news |date=31 May 1968 |title=Knights Bachelor |page=6300 |work=[[The London Gazette]] |issue=Supplement: 44600 |url=https://www.thegazette.co.uk/London/issue/44600/supplement/6300 |access-date=18 April 2020 |archive-date=1 February 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20200201043648/https://www.thegazette.co.uk/London/issue/44600/supplement/6300 |url-status=live }}</ref> Sau khi chồng trở thành hiệp sĩ, Christie còn được xưng hô là Lady Mallowan (Quý bà Mallowan).<ref name=":16"/>{{Rp|343}}
Cảnh sát có những thông tin dẫn đến quan điểm rằng bà Christie không có ý định trở về sau khi rời khỏi nhà.


Từ năm 1971 đến năm 1974, sức khỏe của Christie bắt đầu sa sút, nhưng bà vẫn kiên trì sáng tác. Tiểu thuyết ''[[Cánh cửa định mệnh]]'' xuất bản năm 1973 cũng chính là cuốn tiểu thuyết cuối cùng của bà.<ref name="Morgan1984"/>{{Rp|368–72}}<ref name="thompson"/>{{Rp|477}} Các phân tích về nội dung văn bản mà bà sáng tác cho thấy Christie có thể đã bắt đầu mắc [[bệnh Alzheimer]] hoặc các dạng [[suy giảm trí nhớ]] khác trong khoảng thời gian này.<ref>{{cite news |last=Devlin |first=Kate |date=4 April 2009 |title=Agatha Christie 'had Alzheimer's disease when she wrote final novels' |work=[[The Daily Telegraph]] |location=London |url=https://www.telegraph.co.uk/health/healthnews/5101619/Agatha-Christie-had-Alzheimers-disease-when-she-wrote-final-novels.html |archive-url=https://web.archive.org/web/20090408043419/http://www.telegraph.co.uk/health/healthnews/5101619/Agatha-Christie-had-Alzheimers-disease-when-she-wrote-final-novels.html |url-status=dead |archive-date=8 April 2009 |access-date=28 August 2009}}</ref><ref>{{cite news |last=Flood |first=Alison |date=3 April 2009 |title=Study claims Agatha Christie had Alzheimer's |work=[[The Guardian]] |location=London |url=https://www.theguardian.com/books/2009/apr/03/agatha-christie-alzheimers-research |url-status=live |access-date=28 August 2009 |archive-url=https://web.archive.org/web/20090801003533/http://www.guardian.co.uk/books/2009/apr/03/agatha-christie-alzheimers-research |archive-date=1 August 2009}}</ref>
Ngày 15/12/1926


=== Tính cách cá nhân ===
Christie được tìm thấy ở một spa tại Yorkshire, sau khi mất tích 11 ngày.


[[File:Agatha Christie in Nederland (detectiveschrijfster), bij aankomst op Schiphol me, Bestanddeelnr 916-8898 (cropped).jpg|thumb|upright|Christie tại [[Sân bay Amsterdam Schiphol|Sân bay Schiphol]], ngày 17 tháng 9 năm 1964|alt=Black-and-white portrait photograph of Christie in later life]]
Điều đáng nói là khi được tìm thấy, bà ở trong tình trạng mất trí nhớ. Bà không thể nhớ được mình là ai. Khi nhân viên phục vụ nhận ra gương mặt bà trên báo, Christie vẫn khăng khăng rằng mình đến từ Nam Phi. Mọi thứ trở nên kỳ lạ hơn khi chồng bà đến khách sạn để đón bà nhưng Christie không nhận ra ông, kể cả bức ảnh đứa con nhỏ của bà.


Năm 1946, Christie từng mô tả về bản thân như sau: "Điều khiến tôi khó chịu nhất là đám đông, tiếng ồn ầm ĩ, [[Máy hát|máy hát đĩa]] và rạp chiếu phim. Tôi không thích mùi rượu và không hút thuốc. ''Trái lại'', tôi thích ánh nắng, đại dương, hoa cỏ, ẩm thực mới lạ, thể thao, hòa nhạc, rạp hát, piano và thêu thùa."<ref>{{cite news |date=30 April 1946 |title=The Real Agatha Christie |page=6 |work=[[The Sydney Morning Herald]] |url=https://trove.nla.gov.au/newspaper/article/17978243 |access-date=9 November 2019 |archive-date=8 March 2021 |archive-url=https://web.archive.org/web/20210308032612/https://trove.nla.gov.au/newspaper/article/17978243 |url-status=live }}</ref>
Sự biến mất bí ẩn của Agatha Christie đã dấy lên nhiều giả thuyết trên truyền thông đại chúng bấy giờ. Từ tai nạn, gài bẫy chồng, trò lừa quảng cáo... cho đến cuộc chạm trán với người ngoài hành tinh, nhưng lý do thực sự đến nay vẫn là điều bí ẩn. Không ai biết chính xác chuyện gì đã xảy ra, còn Christie thì coi đó là một sự kiện không bao giờ nên được nhắc lại.<ref name=":0" />

Christie là một thành viên "mộ đạo nhưng kín tiếng"<ref name="Morgan1984"/>{{rp|183}} của [[Giáo hội Anh]] trong suốt cuộc đời. Bà thường xuyên đến nhà thờ tham dự thánh lễ, đồng thời giữ khư khư bên mình cuốn sách ''[[The Imitation of Christ]]'' mà mẹ bà để lại.<ref name="thompson"/>{{rp|30, 290}} Sau khi ly hôn, bà không còn tham gia vào các buổi rước lễ thánh lễ nữa.<ref name="thompson"/>{{rp|263}}

Năm 1969, bà thành lập quỹ trẻ em mang tên The Agatha Christie Trust For Children.<ref>{{cite web |title=Data for financial year ending 05 April 2018 – The Agatha Christie Trust For Children |url=https://beta.charitycommission.gov.uk/charity-details/?subid=0&regid=260295 |access-date=7 November 2019 |website=[[Charity Commission for England and Wales|Registered Charities in England and Wales]] |archive-date=15 August 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20200815140412/https://beta.charitycommission.gov.uk/charity-details/?subid=0&regid=260295 |url-status=live }}</ref> Ngay sau khi Christie qua đời, một quỹ từ thiện tưởng nhớ bà cũng được thành lập với mục đích "hỗ trợ hai nhóm đối tượng mà bà yêu mến: người già và trẻ em".<ref>{{cite news |date=27 April 1976 |title=Agatha Christie memorial fund |page=16 |work=[[The Times]]}}</ref>

Lời cáo phó của Christie viết trên tờ ''[[The Times]]'' có đoạn: "Bà không mấy mặn mà với điện ảnh, đài không dây hay truyền hình." Ngoài ra,
{{blockquote|Quý bà Agatha có thú vui riêng là làm vườn{{snd}}bà từng giành nhiều giải thưởng địa phương về nghề làm vườn{{snd}}cũng như mua sắm nội thất cho vô số các căn nhà của mình. Bà là một người sống nội tâm, không thích xuất hiện trước công chúng, nhưng khi tiếp xúc với mọi người thì lại giữ thái độ thân thiện và sắc sảo. Bà có khuynh hướng sống như một người Anh thuộc tầng lớp thượng trung lưu và về bản chất thì bà cũng là một người thuộc tầng lớp thượng trung lưu. Các sáng tác của bà dành cho những người giống mình. Đó là một đặc điểm cốt yếu trong nét quyến rũ của bà.<ref name=":5"/>}}

== Qua đời và tài sản ==
=== Qua đời ===

[[File:Agatha christie's grave.jpg|thumb|upright|Phần mộ của Agatha Christie tại Nghĩa trang St Mary's, [[Cholsey]], Oxfordshire|alt=Colour photograph of a sandstone headstone]]

Christie qua đời một cách thanh thản vì tuổi già tại nhà riêng của bà ở Winterbrook House vào ngày 12 tháng 1 năm 1976, thọ 85 tuổi.<ref name=":0">{{cite news |date=12 January 1976 |title=1976: Crime writer Agatha Christie dies |work=[[BBC]] on this Day |url=http://news.bbc.co.uk/onthisday/hi/dates/stories/january/12/newsid_4440000/4440120.stm |access-date=30 October 2019 |archive-date=12 January 2021 |archive-url=https://web.archive.org/web/20210112131733/http://news.bbc.co.uk/onthisday/hi/dates/stories/january/12/newsid_4440000/4440120.stm |url-status=live }}</ref><ref>{{cite news |date=14 January 1976 |title=Deaths |page=26 |work=[[The Times]]}}</ref> Sau khi bà qua đời, hai nhà hát ở [[West End của Luân Đôn|West End]]{{snd}}gồm nhà hát [[St Martin's Theatre|St. Martin's]], nơi đang biểu diễn vở ''[[The Mousetrap]]'' và nhà hát [[Savoy Theatre|the Savoy]], nơi người ta đang diễn lại vở ''Murder at the Vicarage''{{snd}}đã tắt hết đèn bên ngoài như một sự tưởng nhớ đến bà.<ref name=":16"/>{{Rp|373}} Christie được chôn cất gần đó, tại nghĩa trang St Mary's, Cholsey, trên một khu đất mà bà đã chọn cùng chồng 10 năm trước. Lễ tang tổ chức đơn giản, với khoảng 20 phóng viên báo chí và phóng viên truyền hình đến tác nghiệp, một số phóng viên đến từ những nơi xa xôi như [[Nam Mỹ]]. Người ta đã đặt khoảng 30 vòng hoa lên mộ bà, trong số này bao gồm một vòng hoa từ dàn diễn viên của vở kịch ''The Mousetrap'' và một vòng hoa khác "thay mặt cho đông đảo những độc giả biết ơn" gửi đến từ nhà xuất bản Ulverscroft Large Print Book.<ref>{{cite book |last=Yurdan |first=Marilyn |title=Oxfordshire Graves and Gravestones |publisher=[[The History Press]] |year=2010 |isbn=978-0752452579 |location=Stroud}}</ref>

Sau khi Christie qua đời, chồng bà Mallowan tái hôn vào năm 1977 nhưng qua đời một năm sau đó. Ông được chôn cất bên cạnh người vợ cũ của mình.<ref>{{cite web |url=https://www.stmaryscholsey.org/history/agatha-christie/ |title=St. Marys Cholsey – Agatha Christie |website=St Marys Cholsey |access-date=18 April 2020 |archive-date=23 September 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20200923060702/https://www.stmaryscholsey.org/history/agatha-christie/ |url-status=live }}</ref>

=== {{anchor|Christie Estate}} Tài sản và quyền sở hữu các tác phẩm về sau ===

Christie không hài lòng về việc trở thành "một nô lệ hưởng lương",<ref name="thompson"/>{{Rp|428}} và vì lý do thuế mà bà đã thành lập một [[công ty tư nhân]] vào năm 1955, lấy tên là Agatha Christie Limited, nhằm mục đích giữ bản quyền các tác phẩm của mình. Vào khoảng năm 1959, bà chuyển quyền sở hữu ngôi nhà 278 mẫu Anh của mình, Greenway Estate, cho con gái là [[Rosalind Hicks]].<ref name="rosalind_obit_telegraph">[https://www.telegraph.co.uk/news/obituaries/1476488/Rosalind-Hicks.html "Obituary: Rosalind Hicks"] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20210308122431/https://www.telegraph.co.uk/news/obituaries/1476488/Rosalind-Hicks.html |date=8 March 2021 }}, ''[[The Daily Telegraph]]'', 13 November 2004. Retrieved 25 January 2015.</ref><ref name=":4">{{cite web |date=12 January 1976 |title=1976: Crime writer Agatha Christie dies |url=http://news.bbc.co.uk/onthisday/hi/dates/stories/january/12/newsid_4440000/4440120.stm |access-date=30 October 2019 |website=[[BBC]] on this Day |archive-date=12 January 2021 |archive-url=https://web.archive.org/web/20210112131733/http://news.bbc.co.uk/onthisday/hi/dates/stories/january/12/newsid_4440000/4440120.stm |url-status=live }}</ref> Năm 1968, khi Christie gần 80 tuổi, bà đã bán 51% cổ phần của công ty Agatha Christie Limited (kèm theo các tác phẩm thuộc sở hữu của nó) cho Booker Books (nổi tiếng hơn với tên gọi [[Booker Group#Booker Author's Division|Booker Author's Division]]). Đến năm 1977 thì số cổ phần mà họ sở hữu đã tăng lên 64%.<ref name="Morgan1984"/>{{Rp|355|quote=In the summer of 1968 a subsidiary [of Booker McConnel], Bookers Books, acquired a fifty-one percent holding in Agatha Christie Ltd (subsequently increased to sixty-four percent).}}<ref>{{cite news |date=16 September 1977 |title=Booker is ready for more |page=4 |work=[[The Journal (Newcastle upon Tyne newspaper)|The Newcastle Journal]]}}</ref> Agatha Christie Limited hiện vẫn là công ty sở hữu bản quyền trên phạm vi toàn cầu cho hơn 80 tiểu thuyết và truyện ngắn, 19 vở kịch cùng gần 40 phim truyền hình khác của Christie.<ref name="guardianchorion"/>

Trong những năm cuối thập niên 1950, người ta cho rằng Agatha Christie đã thu về khoảng 100.000 bảng Anh mỗi năm (tương đương với khoảng 2,5 triệu bảng Anh thời giá năm 2021). Ngoài ra, bà cũng bán được ước tính 300 triệu cuốn sách trong suốt cuộc đời mình.<ref>{{cite news |title=1976: Crime writer Agatha Christie dies |url=http://news.bbc.co.uk/onthisday/hi/dates/stories/january/12/newsid_4440000/4440120.stm |website=bbc |date=12 January 1976 |access-date=30 September 2020 |archive-date=12 January 2021 |archive-url=https://web.archive.org/web/20210112131733/http://news.bbc.co.uk/onthisday/hi/dates/stories/january/12/newsid_4440000/4440120.stm |url-status=live }}</ref> Tính đến thời điểm qua đời năm 1976, "bà là tiểu thuyết gia bán chạy nhất trong lịch sử."<ref>{{Cite book |url=https://books.google.com/books?id=gYL2DAAAQBAJ&pg=PA4 |title=Queering Agatha Christie: Revisiting the Golden Age of Detective Fiction |last=Bernthal |first=J. C. |date=2016 |publisher=Springer |isbn=978-3-319-33533-9 |pages=1–24 |language=en |access-date=31 December 2020 |archive-date=1 August 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20200801014811/https://books.google.com/books?id=gYL2DAAAQBAJ&pg=PA4 |url-status=live }}</ref> Ước tính, tổng thu nhập của bà trong hơn nửa thế kỷ viết lách là 20 triệu USD (tương đương với khoảng 1,029 tỉ USD thời giá năm 2022).<ref>{{cite magazine |title=Books:Agatha Christie: The Queen of the Maze |url=http://content.time.com/time/subscriber/article/0,33009,913961-1,00.html |magazine=Time |date=26 January 1976 |access-date=4 October 2020 |archive-date=22 October 2015 |archive-url=https://web.archive.org/web/20151022102218/http://content.time.com/time/subscriber/article/0,33009,913961-1,00.html |url-status=live }}</ref> Do kết quả từ việc lên kế hoạch về thuế, bản di chúc của bà chỉ để lại 106.683 bảng Anh tài sản ròng{{Refn|Theo nhiều nguồn khác nhau, tài sản của bà được định giá là 147.810 bảng Anh.<ref>[https://probatesearch.service.gov.uk/Calendar#calendar "Find a will"] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20190919054031/https://probatesearch.service.gov.uk/Calendar#calendar |date=19 September 2019 }}. Gov.uk. Retrieved 22 November 2020</ref>|group=lower-alpha}} (tương đương với khoảng 817.000 bảng Anh thời giá năm 2021). Phần lớn số tài sản này được bà dành cho chồng và con gái mình, ngoài ra bà còn dành một số khoản tiền nhỏ khác cho người làm vườn, thư ký và người quản lý khu vườn của bà.<ref name=":0"/><ref>{{cite news |date=1 May 1976 |title=£106,000 will of Dame Agatha Christie |page=2 |work=[[The Times]]}}</ref> Sau khi thừa hưởng 36% cổ phần còn lại của mẹ mình trong công ty Agatha Christie Limited, Rosalind Hicks đã dồn cả tâm huyết bảo tồn các tác phẩm, hình ảnh cùng với di sản của mẹ mình trong suốt 28 năm cho đến khi bà qua đời.<ref name="rosalind_obit_telegraph"/> Với số cổ phần nắm giữ, gia đình của Christie có quyền bổ nhiệm khoảng 50% thành viên hội đồng quản trị và tổng giám đốc, đồng thời giữ quyền phủ quyết đối với các ý kiến liên quan đến việc chuyển thể, cập nhật và tái bản các tác phẩm của bà.<ref name="rosalind_obit_telegraph"/><ref name="birminghampost">[http://www.thefreelibrary.com/Agatha+Christie+begins+new+chapter+after+pounds+10m+selff.-a060775079 Agatha Christie begins new chapter after £10m selloff] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20140517120417/http://www.thefreelibrary.com/Agatha+Christie+begins+new+chapter+after+pounds+10m+selff.-a060775079 |date=17 May 2014 }}, The Free Library, 4 June 1998.</ref>

[[File:Greenway - Agatha Christie's House (26192476850).jpg|thumb|right|Căn biệt thự [[Greenway Estate|Greenway]] ở Devon, nơi Christie dùng làm nơi nghỉ dưỡng vào mùa hè kể từ năm 1938. Căn biệt thự này cũng là bối cảnh của nhiều tác phẩm như ''[[Ngôi đền của người chết]]''. Đây cũng là phim trường quay tập cuối cùng của bộ phim ''[[Agatha Christie's Poirot]]'' vào năm 2013.<ref>{{cite web|url=http://www.nationaltrust.org.uk/greenway/visitor-information/article-1355807820842 |title=Poirot investigates his last mystery at Greenway |work=NationalTrust.org.uk |access-date=28 April 2014 |url-status=dead |archive-url=https://web.archive.org/web/20140629174354/http://www.nationaltrust.org.uk/greenway/visitor-information/article-1355807820842/ |archive-date=29 June 2014}}</ref>]]

Năm 2004, Rosalind Hicks qua đời. Cáo phó đăng trên tờ ''[[The Daily Telegraph|The Telegraph]]'' khẳng định rằng bà "kiên quyết trung thành với tầm nhìn của mẹ mình và bảo vệ tính toàn vẹn trong các sáng tác của mẹ bà", đồng thời không chấp thuận các hoạt động nhằm "[[thương mại hóa]]" các tác phẩm.<ref name="rosalind_obit_telegraph"/> Sau khi Hicks qua đời vào ngày 28 tháng 10 năm 2004, con trai bà là Mathew Prichard chính thức thừa kế căn biệt thự Greenway Estate. Sau khi cha dượng qua đời vào năm 2005, Prichard đã quyên tặng căn biệt thự này cùng các tài sản bên trong cho tổ chức phi lợi nhuận [[National Trust for Places of Historic Interest or Natural Beauty|National Trust]].<ref name="rosalind_obit_telegraph"/><ref>{{cite news |last=Taylor |first=Jerome |title=The Big Question: How big is the Agatha Christie industry, and what explains her enduring appeal? |work=[[The Independent]] |url=https://www.independent.co.uk/arts-entertainment/books/features/the-big-question-how-big-is-the-agatha-christie-industry-and-what-explains-her-enduring-appeal-1631296.html |access-date=6 March 2015 |archive-date=2 April 2015 |archive-url=https://web.archive.org/web/20150402122640/http://www.independent.co.uk/arts-entertainment/books/features/the-big-question-how-big-is-the-agatha-christie-industry-and-what-explains-her-enduring-appeal-1631296.html |url-status=live }}</ref>

Gia đình cùng với các quỹ tín thác của Christie, bao gồm người chắt là James Prichard vẫn nắm giữ 36% cổ phần của Agatha Christie Limited<ref name="guardianchorion">[https://www.theguardian.com/media/2012/feb/29/acorn-media-bys-stake-agatha-christie Acorn Media buys stake in Agatha Christie estate] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20170426063718/https://www.theguardian.com/media/2012/feb/29/acorn-media-bys-stake-agatha-christie |date=26 April 2017 }}, ''[[The Guardian]]'', 29 December 2012.</ref> và gắn bó với công ty. Đến năm 2020, James Prichard trở thành chủ tịch của công ty.<ref>{{cite web |url=https://www.agathachristie.com/about-agatha-christie-limited |title=About Agatha Christie Limited |website=The Home of Agatha Christie |access-date=18 April 2020 |archive-date=6 May 2021 |archive-url=https://web.archive.org/web/20210506184730/https://www.agathachristie.com/about-agatha-christie-limited |url-status=live }}</ref> Mathew Prichard cũng nắm giữ [[Quyền tác giả|bản quyền]] đối với một số tác phẩm văn học sau này của bà nội mình, bao gồm vở kịch ''The Mousetrap'' nổi tiếng.<ref name="thompson"/>{{Rp|427}}Các tác phẩm của Christie vẫn tiếp tục được chuyển thể thành nhiều thể loại khác nhau.<ref>{{cite web |date=14 September 2017 |title=Why do we still love the 'cosy crime' of Agatha Christie? |url=https://www.independent.co.uk/news/long_reads/agatha-christie-cosy-crime-novels-murder-mystery-writer-why-we-love-a7942901.html |access-date=16 November 2019 |website=[[The Independent]] |archive-date=16 November 2019 |archive-url=https://web.archive.org/web/20191116150547/https://www.independent.co.uk/news/long_reads/agatha-christie-cosy-crime-novels-murder-mystery-writer-why-we-love-a7942901.html |url-status=live }}</ref>

Vào năm 1998, công ty Booker Books bán cổ phần của Agatha Christie Limited với giá 10.000.000 bảng Anh (tương đương 18.700.000 bảng Anh năm 2021) cho công ty [[Chorion (công ty)|Chorion]]. Đây là công ty sở hữu nhiều tác phẩm của các nhà văn nổi tiếng như [[Enid Blyton]] và [[Dennis Wheatley]].<ref name="birminghampost"/> Đến tháng 2 năm 2012, sau đợt [[Mua thôn tính cổ phần của hội đồng quản trị|mua thôn tính cổ phần]], Chorion bắt đầu bán các tài sản văn học của mình.<ref name="guardianchorion"/> Điều này bao gồm việc bán 64% cổ phần của Agatha Christie Limited cho Acorn Media UK.<ref>{{cite news |last=Sweney |first=Mark |date=29 February 2012 |title=Acorn Media buys stake in Agatha Christie estate |newspaper=[[The Guardian]] |url=https://www.theguardian.com/media/2012/feb/29/acorn-media-bys-stake-agatha-christie |access-date=16 March 2012 |archive-date=14 May 2014 |archive-url=https://web.archive.org/web/20140514214701/http://www.theguardian.com/media/2012/feb/29/acorn-media-bys-stake-agatha-christie |url-status=live }}</ref> Vào năm 2014, [[RLJ Companies|RLJ Entertainment Inc.]] (RLJE) thâu tóm Acorn Media UK và đổi tên thành [[Acorn DVD|Acorn Media Enterprises]], đồng thời hợp nhất công ty này thành chi nhánh phát triển của RLJE tại Anh.<ref>{{cite web |date=2020 |title=RLJ Entertainment |url=http://www.rljentertainment.com/ |access-date=18 April 2020 |website=[[RLJE Films|RLJ Entertainment]] |archive-date=8 April 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20200408132819/https://www.rljentertainment.com/ |url-status=live }}</ref>

Vào cuối tháng 2 năm 2014, các phương tiện truyền thông loan tin đài [[BBC]] đã mua độc quyền phát sóng các tác phẩm của Agatha Christie trên truyền hình Anh (trước đó bản quyền thuộc về [[ITV (mạng truyền hình)|ITV]]), đồng thời hợp tác với Acorn lên kế hoạch sản xuất các chương trình truyền hình nhân dịp kỷ niệm 125 năm ngày sinh của Christie vào năm 2015.<ref>[http://www.radiotimes.com/news/2014-02-28/david-walliams-heralds-new-era-for-bbc-as-the-new-home-of-agatha-christie-adaptations "New era for BBC as the new home of Agatha Christie adaptations"] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20140323181201/http://www.radiotimes.com/news/2014-02-28/david-walliams-heralds-new-era-for-bbc-as-the-new-home-of-agatha-christie-adaptations|date=23 March 2014}}, ''[[Radio Times]]'', 28 February 2014. Retrieved 25 January 2015.</ref> Theo thỏa thuận đó, BBC đã phát sóng cả hai phim ''[[Partners in Crime (loạt phim truyền hình Anh)|Partners in Crime]]''<ref>{{cite web |title=Partners in Crime – Episode Guide |url=https://www.bbc.co.uk/programmes/p02vf6rn/episodes/guide |access-date=16 April 2016 |work=[[BBC]] One |archive-date=29 July 2015 |archive-url=https://web.archive.org/web/20150729020634/http://www.bbc.co.uk/programmes/p02vf6rn/episodes/guide |url-status=live }}</ref> và ''[[And Then There Were None (phim truyền hình)|And Then There Were None]]''<ref>{{cite web |date=28 December 2015 |title=And Then There Were None |url=https://www.bbc.co.uk/programmes/b06v2v52 |access-date=16 April 2016 |work=[[BBC]] One |archive-date=25 March 2016 |archive-url=https://web.archive.org/web/20160325074038/http://www.bbc.co.uk/programmes/b06v2v52 |url-status=live }}</ref> vào năm 2015.<ref>{{cite news |date=24 August 2016 |title=BBC One plans lots more Agatha Christie |language=en-GB |work=[[BBC News]] |url=https://www.bbc.com/news/entertainment-arts-37174913 |access-date=24 June 2020 |archive-date=23 January 2021 |archive-url=https://web.archive.org/web/20210123005213/https://www.bbc.com/news/entertainment-arts-37174913 |url-status=live }}</ref> Các phim tiếp theo bao gồm ''[[The Witness for the Prosecution (miniseries)|The Witness for the Prosecution]]''<ref>{{cite web |title=The Witness for the Prosecution |url=https://www.bbc.co.uk/programmes/b086z959 |access-date=18 April 2020 |website=[[BBC]] One |language=en-GB |archive-date=12 September 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20200912105735/https://www.bbc.co.uk/programmes/b086z959 |url-status=live }}</ref> và ''[[Ordeal by Innocence (TV series)|Ordeal by Innocence]]''. Tuy nhiên, ''Ordeal by Innocence'' vốn được lên kế hoạch phát sóng vào dịp Giáng Sinh 2017 nhưng kế hoạch buộc phải hoãn lại do những tranh cãi xoanh quanh một trong những diễn viên của đoàn làm phim.<ref>{{cite news |date=5 January 2018 |title=Ed Westwick removed from BBC Agatha Christie drama Ordeal By Innocence |work=[[BBC News]] |url=https://www.bbc.com/news/entertainment-arts-42577505 |access-date=23 January 2018 |archive-date=30 January 2018 |archive-url=https://web.archive.org/web/20180130090823/http://www.bbc.com/news/entertainment-arts-42577505 |url-status=live }}</ref> Đến tháng 4 năm 2018 thì bộ phim ba phần này chính thức lên sóng.<ref>{{cite web |title=Ordeal by Innocence |url=https://www.bbc.co.uk/programmes/b09ytrgg |access-date=11 January 2019 |work=[[BBC]] One |archive-date=2 December 2018 |archive-url=https://web.archive.org/web/20181202144005/https://www.bbc.co.uk/programmes/b09ytrgg |url-status=live }}</ref> Tháng 6 cùng năm, [[The ABC Murders|bộ phim chuyển thể dài ba phần]] của tác phẩm ''[[Chuỗi án mạng A.B.C]]'' do [[John Malkovich]] và [[Rupert Grint]] thủ vai chính thức bấm máy. Bộ phim này lên sóng khán giả vào tháng 12 cùng năm.<ref>{{cite web |date=24 May 2018 |title=All-star cast announced for new BBC One Agatha Christie thriller The ABC Murders |url=https://www.bbc.co.uk/mediacentre/latestnews/2018/abc-murders |access-date=11 January 2019 |work=[[BBC]] |archive-date=12 November 2018 |archive-url=https://web.archive.org/web/20181112123655/https://www.bbc.co.uk/mediacentre/latestnews/2018/abc-murders |url-status=live }}</ref><ref name="ABC">{{cite web |date=15 December 2018 |title=The ABC Murders Begins on BBC One on Boxing Day at 9pm |url=https://www.bbc.co.uk/mediacentre/mediapacks/the-abc-murders |access-date=20 December 2018 |publisher=[[BBC Media Centre]] |archive-date=19 December 2018 |archive-url=https://web.archive.org/web/20181219232938/https://www.bbc.co.uk/mediacentre/mediapacks/the-abc-murders |url-status=live }}</ref> Đến tháng 2 năm 2020, kênh BBC1 trình làng khán giả phiên bản chuyển thể của tiểu thuyết ''[[Tình yêu phù thủy]]''.<ref>[http://www.mammothscreen.com/company-news/bbc-one-announces-new-agatha-christie-thriller-the-pale-horse/ BBC One announces new Agatha Christie thriller The Pale Horse] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20200925042653/http://www.mammothscreen.com/company-news/bbc-one-announces-new-agatha-christie-thriller-the-pale-horse/ |date=25 September 2020 }}, 24 June 2019, Mammoth Screen</ref> Ngoài ra, tác phẩm ''[[Tận cùng là cái chết]]'' sẽ là cuốn tiểu thuyết tiếp theo được đài BBC chuyển thể thành phim.<ref>Paul Hirons, "[https://thekillingtimestv.wordpress.com/2018/12/29/death-comes-as-the-end-to-be-the-next-bbc-agatha-christie-adaptation/ Death Comes As The End to be the next BBC Agatha Christie adaptation] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20210122185018/https://thekillingtimestv.wordpress.com/2018/12/29/death-comes-as-the-end-to-be-the-next-bbc-agatha-christie-adaptation/ |date=22 January 2021 }}", ''The Killing Times''. 29 December 2018</ref>

Kể từ năm 2020, nhà xuất bản [[HarperCollins]] đã loại bỏ "những đoạn văn chứa mô tả, xúc phạm hoặc đề cập đến vấn đề sắc tộc" về [[bà Marple]] và [[Hercule Poirot]] khỏi các phiên bản tiểu thuyết tái bản của Agatha Christie.<ref>{{cite web | last=Simpson | first=Craig | title=Agatha Christie classics latest to be rewritten for modern sensitivities | website=The Telegraph | date=2023-03-25 | url=https://www.telegraph.co.uk/news/2023/03/25/agatha-christie-classics-latest-rewritten-modern-sensitivities/ | access-date=2023-03-26}}</ref>

== Tác phẩm ==

{{Main|Sự nghiệp sáng tác của Agatha Christie}}

=== Tác phẩm viễn tưởng ===
==== Hercule Poirot và Bà Marple ====

[[File:American-13-for-Dinner.jpg|thumb|upright|alt=Drawing of a gentleman in a dinner suit twirling his large moustache, illustrating the Christie story "13 for Dinner"|Phác họa đầu tiên về chân dung của thám tử Hercule Poirot, đăng trên tạp chí ''[[The American Magazine]]'', tháng 3 năm 1933]]

Tác phẩm đầu tiên được xuất bản của Christie là ''[[Vụ án bí ẩn ở Styles]]'', ra mắt năm 1920, giới thiệu đến công chúng nhân vật thám tử [[Hercule Poirot]]. Đây là nhân vật xuất hiện trong 33 tiểu thuyết và hơn 50 truyện ngắn của bà.

Qua nhiều năm, Agatha Christie cũng bắt đầu chán nản với Hercule Poirot, tương tự như Arthur Conan Doyle chán nản với Sherlock Holmes.<ref name="Morgan1984"/>{{Rp|230}} Cuối những năm 1930, Christie viết trong nhật ký rằng bà "không thể chịu nổi" Poirot và đến những năm 1960 thì bà cho rằng ông ta là một "kẻ kiêu căng đáng ghét".<ref name=":19">{{cite book |last=Gross |first=John |url=https://archive.org/details/newoxfordbooklit00gros_551 |title=The New Oxford Book of Literary Anecdotes |publisher=[[Oxford University Press]] |year=2006 |isbn=978-0199543410 |page=[https://archive.org/details/newoxfordbooklit00gros_551/page/n281 267] |url-access=limited}}</ref> Thompson tin rằng cảm giác không mấy thiện cảm của bà đối với nhân vật này chỉ là sự phóng đại quá mức, đồng thời chỉ ra rằng "sau này bà đã nỗ lực bảo vệ ông ta (Poirot) khỏi sự hiểu lầm theo cách mạnh mẽ đến mức như thể ông ta máu mủ ruột ruột rà của mình vậy".<ref name="thompson"/>{{Rp|282}} Khác với Doyle, Christie đã kiềm chế mong muốn để nhân vật Poirot chết trong lúc nhân vật này vẫn còn nổi tiếng với công chúng.<ref name="Morgan1984"/>{{Rp|222}} Thay vào đó, bà chọn cách để thuyền trưởng [[Arthur Hastings]] – cánh tay đắc lực của thám tử Hercule Poirot – kết hôn với mục đích giảm bớt số lượng nhân vật cần xây dựng.<ref name="Auto1993"/>{{Rp|268}}

Nhân vật [[bà Marple]] lần đầu tiên xuất hiện trong loạt truyện ngắn xuất bản vào tháng 12 năm 1927, sau đó được tổng hợp lại dưới tựa đề ''[[The Thirteen Problems]]''.<ref name="thompson"/>{{Rp|278}} Marple là một người phụ nữ lớn tuổi, độc thân, quý phái. Bà thường dùng phương pháp so sánh các tình tiết của vụ án với những vấn đề trong cuộc sống ở làng quê nước Anh làm phương tiện tìm ra chân tướng vụ án.<ref name=":16"/>{{Rp|47, 74–76}} Mặc dù Christie từng nói: "Bà Marple không có liên hệ gì với bà của tôi; so với bà tôi thì bà ấy độc thân và có lối sống cầu kỳ kiểu cách hơn nhiều so với bà của tôi". Tuy nhiên, tự truyện của bà lại cho thấy mối liên hệ vững chắc giữa nhân vật này với bà ngoại nuôi Margaret Miller ("Auntie-Grannie"){{Refn|Mối quan hệ của gia đình Christie với Margaret Miller (nhũ danh West) rất phức tạp. Ngoài việc là bà cô bên ngoại của Christie, Miller còn là mẹ kế của cha Christie và cũng vừa như mẹ nuôi, vừa là mẹ kế của mẹ Christie{{snd}}vì vậy mà bà mới gọi Miller bằng "Auntie-Grannie"|group=lower-alpha}} và những "người bạn chí thân ở Ealing" của bà.<ref name="Auto1993"/>{{Rp|422–23}}<ref name="BBCdustyClues">{{cite news |last=Mills |first=Selina |date=15 September 2008 |title=Dusty clues to Christie unearthed |work=[[BBC News]] |url=http://news.bbc.co.uk/today/hi/today/newsid_7612000/7612534.stm |access-date=29 April 2020 |archive-date=28 March 2012 |archive-url=https://web.archive.org/web/20120328000220/http://news.bbc.co.uk/today/hi/today/newsid_7612000/7612534.stm |url-status=live }}</ref> Ngoài ra, cả bà Marple và bà Miller "luôn mong chờ điều tồi tệ nhất từ mọi người và mọi việc, và bằng một cách thần kỳ nào đó, họ đều chính xác".<ref name="Auto1993"/>{{rp|422}} Bà Marple xuất hiện trong 12 tiểu thuyết và 20 truyện ngắn của Christie.

Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Christie đã sáng tác hai cuốn tiểu thuyết là [[Thám tử rời sân khấu|''Thám tử rời sân khấu'']], với nhân vật chính là Hercule Poirot và ''[[Giết người trong mộng]]'', với nhân vật chính là bà Marple. Christie đã niêm phong hai tác phẩm này trong két an toàn ở ngân hàng. Bà sau đó tặng bản quyền hai tác phẩm này lại cho con gái và chồng như một dạng bảo hiểm.<ref name="thompson"/>{{rp|344}}<ref name=":16"/>{{rp|190}} Năm 1974, Christie trải qua một cơn đau tim và một cú ngã nghiêm trọng, khiến bà không thể tiếp tục viết lách nữa.<ref name="Morgan1984"/>{{rp|372}} Vì vậy, con gái bà đã thay mẹ xuất bản cuốn ''Thám tử rời sân khấu'' vào năm 1975<ref name="Morgan1984"/>{{rp|375}} và cuốn ''Giết người trong mộng'' năm 1976 (sau khi Christie qua đời).<ref name=":16"/>{{rp|376}} Cả hai tác phẩm này đều được xuất bản sau thành công vang dội của bộ phim ''[[Murder on the Orient Express (phim 1974)|Murder on the Orient Express]]'', chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết [[Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông|''Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông'']].<ref name="Auto1993"/>{{Rp|497}}<ref>{{cite web |url=https://mainecrimewriters.com/2018/01/25/dame-agatha-and-her-orient-express/ |title=Dame Agatha and Her Orient Express |last=Vaughan |first=Susan |date=25 January 2018 |website=Maine Crime Writers |access-date=20 March 2019 |archive-date=13 June 2018 |archive-url=https://web.archive.org/web/20180613072515/https://mainecrimewriters.com/2018/01/25/dame-agatha-and-her-orient-express/ |url-status=live }}</ref>

Ngoài ra, ngay trước khi tác phẩm ''Thám tử rời sân khấu'' ra mắt, Hercule Poirot đã trở thành nhân vật hư cấu đầu tiên có cáo phó trên tờ ''[[The New York Times]]''. Cáo phó này xuất hiện trên trang nhất của tờ báo vào ngày 6 tháng 8 năm 1975.<ref>{{cite web |url=http://www.poirot.us/obituary.php |title=Poirot's Obituary |last=Hobbs |first=JD |date=6 August 1975 |publisher=Poirot |access-date=11 April 2020 |place=US |archive-date=1 May 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20200501223503/http://www.poirot.us/obituary.php |url-status=live }}</ref><ref>{{cite web |url=https://www.nytimes.com/1975/08/06/archives/hercule-poirot-is-dead-famed-belgian-detective-hercule-poirot-the.html |title=Hercule Poirot Is Dead; Famed Belgian Detective |last=Lask |first=Thomas |date=6 August 1975 |work=[[The New York Times]] |access-date=16 October 2020 |place=US |archive-date=7 November 2017 |archive-url=https://web.archive.org/web/20171107112341/http://www.nytimes.com/1975/08/06/archives/hercule-poirot-is-dead-famed-belgian-detective-hercule-poirot-the.html |url-status=live }}</ref>

Một điểm đáng lưu ý là các tiểu thuyết hay truyện ngắn của Agatha Christie chưa bao giờ có sự xuất hiện đồng thời của cả thám tử Poirot và bà Marple.<ref name=":16"/>{{Rp|375}} Trong một bản ghi âm công bố vào năm 2008, Christie lý giải điều này như sau: "Hercule Poirot, một kẻ tự cao tự đại, sẽ không thích một quý bà lớn tuổi chỉ dạy công việc hoặc đưa ra những gợi ý cho mình. Hercule Poirot – một thám tử chuyên nghiệp – không bao giờ có thể hòa nhập được với thế giới của bà Marple."<ref name="BBCdustyClues"/>

Năm 2013, gia đình Agatha Christie đồng ý cho ra mắt một tác phẩm mới về thám tử Poirot mang tên ''[[The Monogram Murders]]'' do nữ văn sĩ người Anh [[Sophie Hannah]] chấp bút.<ref>{{cite web |url=http://www.agathachristie.com/the-monogram-murders |title=The Monogram Murders |publisher=Agatha Christie.com |access-date=11 April 2015 |url-status=dead |archive-url=https://web.archive.org/web/20150403183934/http://www.agathachristie.com/the-monogram-murders/ |archive-date=3 April 2015}}</ref> Sau đó, Hannah tiếp tục sáng tác thêm ba tác phẩm bí ẩn khác với nhân vật chính là Poirot, bao gồm ''[[Closed Casket (novel)|Closed Casket]]'' vào năm 2016, ''[[The Mystery of Three Quarters]]'' vào năm 2018<ref name=":7">{{cite web |url=https://www.agathachristie.com/news/2016/an-interview-with-sophie-hannah |title=An interview with Sophie Hannah |website=The Home of Agatha Christie |date=22 August 2016 |language=en-US |access-date=29 April 2020 |archive-date=31 August 2019 |archive-url=https://web.archive.org/web/20190831125357/https://www.agathachristie.com/news/2016/an-interview-with-sophie-hannah |url-status=live }}</ref><ref>{{cite web |date=2020 |title=The Mystery of Three Quarters |url=https://www.harpercollins.com/9780062792341/the-mystery-of-three-quarters/ |access-date=29 April 2020 |website=[[HarperCollins]] Publishers |archive-date=13 August 2018 |archive-url=https://web.archive.org/web/20180813045824/http://www.harpercollins.com/9780062792341/the-mystery-of-three-quarters/ |url-status=live }}</ref> và ''The Killings at Kingfisher Hill'' vào năm 2020.

==== Mô típ và thủ pháp sáng tác ====

Agatha Christie được mệnh danh là "Nữ công tước tử thần", "Bà hoàng thần bí" hoặc "Nữ hoàng trinh thám".<ref name=":17"/>{{Rp|15}} Buổi đầu sự nghiệp, một phóng viên đã nhận xét rằng "cốt truyện của bà có tính khả thi, hợp lý và luôn luôn mới mẻ".<ref name=":6"/> Theo tiểu thuyết gia Sophie Hannah: "Mở đầu mỗi tác phẩm, bà đặt người đọc vào một tình huống hoàn toàn không thể xảy ra và khiến chúng ta phát điên với câu hỏi 'Làm cách nào mà điều này có thể xảy ra?'. Sau đó, bằng một cách chậm rãi, bà tiết lộ cách mà điều vốn không thể xảy ra lại là điều hoàn toàn khả thi và thậm chí đó còn là khả năng duy nhất có thể xảy ra."<ref name=":7"/>

{{Multiple image
| direction = vertical
| width = 215
| image1 = South face of Abney Hall, looking north (Cheadle, Manchester - 20 May 2007).jpg
| image2 = Hotel Old Cataract.jpg
| caption1 = [[Abney Hall]], Cheshire, nơi truyền cảm hứng cho một số bối cảnh trong tác phẩm của Christie như Chimneys hay Stonygates
| caption2 = [[Khách sạn Old Cataract]] bên bờ [[sông Nile]], [[Aswan]], Ai Cập, nguồn cảm hứng mà Christie đưa vào trong tác phẩm ''[[Án mạng trên sông Nile]]''.
| align =
| total_width =
}}

Christie phát triển kỹ thuật kể chuyện của mình trong "[[Thời kỳ hoàng kim của truyện trinh thám viễn tưởng|thời kỳ hoàng kim]]" của thể loại truyện trinh thám viễn tưởng.<ref name=":20"/> Tác giả Dilys Winn đánh giá Christie là "bà hoàng của thể loại trinh thám nhẹ nhàng", một nhánh nhỏ của thể loại trinh thám mà ở đó "lấy bối cảnh ở một vùng quê nhỏ, nhân vật chính có chút liên quan đến dòng dõi quý tộc, nhiều thủ thuật [[Cá trích đỏ|đánh lạc hướng]] và khuynh hướng giết người theo kiểu sử dụng dao mở thư bằng bạc nguyên chất và thuốc độc nhập từ Paraguay".<ref>{{cite book |last=Winn |first=Dilys |title=Murder Ink: The Mystery Reader's Companion |publisher=[[Workman Publishing Company|Workman Publishing]] |year=1977 |location=New York |page=3}}</ref> Một dấu ấn đặc trưng của Christie là ở phần kết, thám tử thường tập hợp những nghi phạm còn sống sót vào một căn phòng, giải thích những suy diễn và suy luận của họ rồi sau đó vạch trần thủ phạm thực sự. Tuy nhiên, cũng có một vài ngoại lệ. Ví dụ, trong tác phẩm ''[[Mười người da đen nhỏ]]'' và ''[[Đêm vô tận]]'', hung thủ tự thú nhận mọi tội lỗi của mình.<ref name="me">{{cite journal |last=Mezel |first=Kathy |s2cid=162411534 |date=2007 |title=Spinsters, Surveillance, and Speech: The Case of Miss Marple, Miss Mole, and Miss Jekyll |journal=[[Journal of Modern Literature|The Journal of Modern Literature]] |volume=30 |issue=2 |pages=103–20 |doi=10.2979/JML.2007.30.2.103 |jstor=4619330}}</ref><ref name="be">{{cite journal |last=Beehler |first=Sharon A. |date=1998 |title=Close vs. Closed Reading: Interpreting the Clues |journal=[[English Journal|The English Journal]] |volume=77 |issue=6 |pages=39–43 |doi=10.2307/818612 |jstor=818612}}</ref>

Agatha Christie không chỉ bó hẹp sáng tác của mình trong những ngôi làng cổ kính ở nước Anh, mà còn mở rộng bối cảnh truyện ra nhiều nơi khác: ngay trên hòn đảo nhỏ (''Mười người da đen nhỏ''), trên máy bay (''[[Cái chết giữa thinh không]]''), trên tàu hỏa (''Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông''), trên tàu hơi nước (''[[Án mạng trên sông Nile]]''), hay trong một căn hộ sang trọng ở nước Anh (''[[Những quân bài trên mặt bàn]]''), hoặc ở một khu nghỉ dưỡng ở Tây Ấn Độ (''[[Bí ẩn ở Ca-ri-bê]]''), hay thậm chí trong một cuộc khai quật khảo cổ (''[[Murder in Mesopotamia|Vụ án mạng ở vùng Mesopotamie]]'') đều có bóng dáng của án mạng. Tuy nhiên, khoanh vùng lại các nghi phạm tiềm năng thì thông thường chỉ có những người kín đáo và thân cận: thành viên gia đình, bạn bè, người hầu, đối tác kinh doanh, bạn đồng hành.<ref name=":8"/>{{Rp|37}} Ngoài ra, các kiểu nhân vật khuôn mẫu trong tác phẩm của bà thường là {{Lang|fr|[[femme fatale]]}}, viên cảnh sát nghiêm nghị, người hầu tận tụy, viên đại tá tẻ nhạt, nhưng những nguyên tắc này cũng có thể bị phá vỡ để đánh lừa người đọc. Một số chi tiết khác như giả mạo người khác hay những mối liên hệ bí mật cũng thường xuyên xuất hiện trong tác phẩm.<ref name=":8">{{cite book |last=Curran |first=John |title=Agatha Christie's Secret Notebooks: Fifty Years of Mysteries in the Making |publisher=[[HarperCollins]] |year=2009 |isbn=978-0-06-200652-3 |location=London}}</ref>{{Rp|58}} Luôn luôn có một động cơ cho các vụ án, nhưng thường xuyên nhất là tiền bạc: "Có rất ít kẻ sát nhân trong tác phẩm của Christie thích thú với việc giết chóc vì thỏa mãn cá nhân."<ref name="thompson"/>{{Rp|379, 396}}

Theo Giáo sư dược học Michael C. Gerald, "trong hơn một nửa số tiểu thuyết của bà, có ít nhất một hoặc nhiều nạn nhân trúng độc, dẫu cho điều này không phải lúc nào cũng khiến thủ phạm hài lòng."<ref name=":11">{{cite book |last=Gerald |first=Michael C. |title=The Poisonous Pen of Agatha Christie |publisher=[[University of Texas Press]] |year=1993 |isbn=0-292-76535-5 |location=Austin, Texas}}</ref>{{Rp|viii}} Theo [[Agatha Christie's Secret Notebooks|John Curran]], tác giả kiêm cố vấn văn học cho tổ chức quản lý và bảo tồn các tác phẩm của Christie<ref>{{cite web|url=https://www.harpercollins.com/author/cr-105484/john-curran/|title=John Curran author|date=2020|website=[[HarperCollins]]Publishers|archive-url=https://web.archive.org/web/20200411084002/https://www.harpercollins.com/author/cr-105484/john-curran/|archive-date=11 April 2020|url-status=live|access-date=11 April 2020}}</ref> thì súng, dao, dây thòng lọng, dây bẫy, công cụ thô sơ, thậm chí cả rìu cũng trở thành vật dụng gây án, nhưng "Christie không bao giờ dựa vào những phương pháp cơ học hoặc khoa học phức tạp để giải thích cho sự khéo léo của mình"<ref name=":12">{{cite book |last=Curran |first=John |title=Agatha Christie: Murder in the Making |publisher=[[HarperCollins]] |year=2011 |isbn=978-0062065445 |location=London}}</ref>{{Rp|57}} Nhiều manh mối trong các tác phẩm của bà vốn chỉ là những vật dụng bình thường trong cuộc sống hàng ngày như một quyển lịch, tách cà phê, hoa sáp, một chai bia hay chiếc lò sưởi dùng trong thời tiết nắng nóng.<ref name=":8"/>{{Rp|38}}

Theo nhà văn trinh thám [[P. D. James]], thủ phạm mà Agatha Christie thường chọn là nhân vật ít ai ngờ tới nhất. Vì vậy mà những độc giả tinh ý đôi khi có thể đoán ra hung thủ bằng cách xác định nghi phạm ít khả năng nghi ngờ nhất.<ref name=":9">{{cite book |last=James |first=P.D. |url=https://books.google.com/books?id=fcGke2wlt0UC&pg=PT26 |title=Talking About Detective Fiction |publisher=[[Random House]] |year=2009 |isbn=978-0-307-39882-6 |access-date=4 April 2016 |archive-date=19 November 2016 |archive-url=https://web.archive.org/web/20161119174118/https://books.google.com/books?id=fcGke2wlt0UC&pg=PT26 |url-status=live }}</ref> Ngay chính bản thân Christie cũng từng chế nhạo lối suy luận này trong lời đề tựa của tác phẩm ''Những quân bài trên mặt bàn'': "Khi bạn xác định người ít có khả năng nhất là kẻ gây án thì chín trên mười trường hợp bạn đã chính xác. Tuy nhiên, tôi không muốn những độc giả trung thành vứt bỏ cuốn sách này trong thất vọng, nên tôi muốn báo trước rằng ''đây không phải là kiểu sách như vậy''."<ref name=":10">{{cite book |last=Gillian |first=Gill |title=Agatha Christie: The Woman and Her Mysteries |publisher=[[Free Press (publisher)|The Free Press]] |year=1990 |isbn=002911702X |location=New York City}}</ref>{{Rp|135–36}}

Trong chương trình ''[[Desert Island Discs]]'' phát trên đài BBC Radio 4 vào năm 2007, [[Brian Aldiss]] tiết lộ Christie từng kể với ông rằng khi viết đến chương cuối cùng, bà mới quyết định ai là nghi phạm ít ngờ tới nhất. Tiếp theo, bà quay lại và thực hiện những thay đổi cần thiết nhằm "đổ tội" cho nhân vật đó.<ref name="Brian Aldiss claims Agatha tells method">{{cite web |last=Aldiss |first=Brian|author-link=Brian Aldiss |title=BBC Radio 4 – Factual – Desert Island Discs |url=https://www.bbc.co.uk/radio4/factual/desertislanddiscs_20070128.shtml |url-status=live |archive-url=https://web.archive.org/web/20090211235326/http://www.bbc.co.uk/radio4/factual/desertislanddiscs_20070128.shtml |archive-date=11 February 2009 |access-date=22 February 2009 |work=[[BBC]]}}</ref>

Bằng việc nghiên cứu sổ tay làm việc của Agatha Christie, John Curran cho biết rằng bà tạo dựng dàn nhân vật trước, rồi chọn bối cảnh, sau đó lập danh sách các cảnh trí nơi mà manh mối cụ thể sẽ được tiết lộ. Trong quá trình phát triển cốt truyện, bà sẽ sửa đổi thứ tự các cảnh trí sẽ xuất hiện. Vì vậy mà như một lẽ dĩ nhiên, Christie phải biết rõ ai là hung thủ trước khi hoàn thành trình tự các phân cảnh và trước khi bà bắt tay vào đánh máy và đọc bản thảo đầu tiên của tác phẩm.<ref name=":8" /> Vì vậy mà phần lớn quá trình sáng tác, đặc biệt là phần lời thoại đều được bà hình thành trong đầu trước khi viết ra giấy.<ref name="Auto1993" />{{Rp|241–45}}<ref name=":10" />{{Rp|33}}

Năm 2013, 600 thành viên của [[Hiệp hội Nhà văn tội phạm Anh]] đã chọn tác phẩm ''[[Vụ ám sát ông Roger Ackroyd]]'' là "tác phẩm trinh thám xuất sắc nhất thuộc thể loại [[whodunit]]{{nbsp}}... từng được viết".<ref name=":18">{{cite news |last=Brown |first=Jonathan |date=5 November 2013 |title=Agatha Christie's ''The Murder of Roger Ackroyd'' voted best crime novel ever |work=[[The Independent]] |url=https://www.independent.co.uk/arts-entertainment/books/news/agatha-christies-the-murder-of-roger-ackroyd-voted-best-crime-novel-ever-8923395.html |access-date=19 February 2014 |archive-date=4 November 2019 |archive-url=https://web.archive.org/web/20191104035244/https://www.independent.co.uk/arts-entertainment/books/news/agatha-christies-the-murder-of-roger-ackroyd-voted-best-crime-novel-ever-8923395.html |url-status=live }}</ref> Nhà văn [[Julian Symons]] cho rằng: "Về mặt hình thức, tác phẩm tuân theo các quy ước của thể loại trinh thám... Bối cảnh nằm ở một ngôi làng nằm sâu trong vùng nông thôn nước Anh, Roger Ackroyd chết trong phòng làm việc; có một người hầu hành xử đáng ngờ... Mọi tác phẩm trinh thám thành công trong thời kỳ này đều có yếu tố đánh lừa người đọc, và mánh khóe vô cùng độc đáo ở tác phẩm này là biến kẻ sát nhân thành bác sĩ trong vùng, vừa là người kể chuyện, vừa đóng vai trò như [trợ lý] Watson của thám tử Poirot."<ref name=":20">{{cite book |last=Symons |first=Julian|author-link=Julian Symons |title=Mortal Consequences: A History from the Detective Story to the Crime Novel |publisher=[[Harper (publisher)|Harper & Row, Publishers]] |year=1972 |location=New York City}}</ref>{{Rp|106–07}} Đồng quan điểm, nhà phê bình Sutherland Scott khẳng định: "Ngay cả khi Agatha Christie không có bất cứ đóng góp nào khác cho thể loại văn học trinh thám, thì bà vẫn xứng đáng với lòng biết ơn của chúng ta" vì đã viết nên tác phẩm này.<ref>{{cite book |last=Scott |first=Sutherland |title=Blood in Their Ink |publisher=[[Stanley Paul]] |year=1953 |location=London |quote=Cited in Fitzgibbon (1980). p. 19. }}</ref>

Vào tháng 9 năm 2015, nhân kỷ niệm sinh nhật lần thứ 125 của Agatha Christie, trong một cuộc bình chọn trên trang web đại diện cho Agatha Christie, tác phẩm ''Mười người da đen nhỏ'' được liệt vào danh sách "World's Favourite Christie" (danh sách những tác phẩm được yêu thích nhất của bà).<ref name=":15">{{cite web |last=Flood |first=Alison |date=2 September 2015 |title=And Then There Were None declared world's favourite Agatha Christie novel |url=https://www.theguardian.com/books/2015/sep/01/and-then-there-were-none-declared-worlds-favourite-agatha-christie-novel |website=[[The Guardian]] |access-date=16 May 2017 |archive-date=30 July 2017 |archive-url=https://web.archive.org/web/20170730203411/https://www.theguardian.com/books/2015/sep/01/and-then-there-were-none-declared-worlds-favourite-agatha-christie-novel |url-status=live }}</ref> Đây là tác phẩm thể hiện rõ nét công thức quen thuộc của Christie, nhưng cũng cho thấy tinh thần phá cách vượt lên trên những khuôn mẫu thông thường. Theo nhà văn Charles Osborne "''Mười người da đen nhỏ'' đã đưa thể loại trinh thám "xã hội kín" lên một tầm cao mới."<ref name=":16"/>{{Rp|170}} Câu chuyện bắt đầu với mô típ kinh điển: nạn nhân tiềm năng và kẻ giết người bị cô lập hoàn toàn khỏi thế giới bên ngoài. Tuy nhiên, tác phẩm lại phá vỡ nhiều quy ước khi không có thám tử tham gia phá án, không thẩm vấn nghi phạm, không tỉ mỉ tìm kiếm manh mối và thậm chí còn không có cảnh các nghi phạm tập hợp lại để làm sáng tỏ ai là kẻ thủ ác ở chương cuối. Chính Agatha Christie cũng đã thừa nhận : "Việc mười người phải chết hoàn toàn không quá ngớ ngẩn hoặc khiến cho hung thủ trở nên quá dễ đoán."<ref name="Auto1993"/>{{Rp|457}} Giới phê bình đồng ý rằng bà đã thành công: "Bà Christie kiêu ngạo lần này đã tự đặt ra một thử thách đáng sợ cho sự khéo léo của chính mình... và không có gì ngạc nhiên khi tất cả các bài đánh giá đều nhiệt liệt tán dương điều đó."<ref name=":16"/>{{Rp|170–71}}

==== Những định kiến rập khuôn và sự phân biệt đối xử với nhân vật ====

{{Xem thêm|Mười người da đen nhỏ}}

Các tác phẩm của Agatha Christie, phổ biến nhất là các tác phẩm ra đời trước năm 1945, thường chứa đựng các yếu tố định kiến rập khuôn khi mô tả về nhân vật. Đó là thời điểm mà những quan điểm kiểu vậy vẫn còn phổ biến trong xã hội. Các yếu tố định kiến này đối chủ yếu nhằm vào các nhân vật người Ý, người Do Thái và những người không phải gốc châu Âu.<ref name="Morgan1984"/>{{Rp|264–66}} Ví dụ, trong truyện ngắn "The Soul of the Croupier" trích từ tuyển tập truyện ngắn ''[[The Mysterious Mr Quin]]'', bà mô tả "những người đàn ông gốc [[Người Do Thái|Do Thái]] có làn da vàng bủng, mũi khoằm, đeo trang sức lòe loẹt". Năm 1947, [[Liên đoàn Chống Phỉ báng]] có trụ sở tại Hoa Kỳ đã gửi đơn khiếu nại đến nhà xuất bản Mỹ [[Dodd, Mead & Co.|Dodd, Mead and Company]], nơi phát hành các tác phẩm của Christie tại quốc gia này. Nội dung lá đơn lên án những nội dung được cho là [[Chủ nghĩa bài Do Thái|bài Do Thái]] trong các tác phẩm của bà. Đáp lại, cơ quan đại diện cho các tác phẩm văn học của Christie tại Anh đã ủy quyền cho phép các cơ quan đại diện tại Mỹ "xóa bỏ từ 'Do Thái' khi dùng để mô tả một nhân vật phản diện trong các tác phẩm sắp tới".<ref name="thompson"/>{{Rp|386}}

Trong tác phẩm ''[[Thung lũng bất hạnh]]'' xuất bản năm 1946, bằng cách mượn tiếng nói của một nhân vật trong tác phẩm, Christie mô tả về một nhân vật khác của mình là "dân Do Thái ở khu [[Whitechapel]], nhuộm tóc, giọng nói thì cứ khàn khàn như [[Crex crex|quạ]] ấy [...] một phụ nữ thấp bé có cái mũi bè, mái tóc nâu đỏ, đang tranh cãi với bà khách mập mạp". Đối lập với những mô tả mang tính định kiến ​​này, Christie đã khắc họa một số nhân vật "ngoại quốc" với tư cách là nạn nhân (hoặc nạn nhân tiềm năng) dưới bàn tay của những tội phạm người Anh, chẳng hạn như Olga Seminoff trong tiểu thuyết ''[[Ngày hội quả bí]]'' và Katrina Reiger trong truyện ngắn "How Does Your Garden Grow?". Thông thường những nhân vật Do Thái trong tác phẩm của bà đều không phải là người Anh (như Oliver Manders trong ''[[Bi kịch ba hồi]]''), nhưng những nhân vật này hiếm khi là thủ phạm.<ref>{{Citation |last=Pendergast |first=Bruce |title=Everyman's Guide to the Mysteries of Agatha Christie |page=399 |year=2004 |location=Victoria, BC, Canada |publisher=[[Trafford Publishing|Trafford]] |isbn=1-4120-2304-1}}</ref>

Năm 2023, tờ ''[[The Daily Telegraph|Telegraph]]'' cho biết rằng một số tiểu thuyết của Agatha Christie đã trải qua quá trình kiểm duyệt sửa đổi nhằm loại bỏ những ngôn từ có khả năng gây xúc phạm, gồm những từ ngữ lăng mạ và ám chỉ đến sắc tộc. Trong các ấn bản mới tái bản, nhà xuất bản HarperCollins cũng tiến hành kiểm duyệt, cắt bỏ các đoạn văn mô tả về hai nhân vật thám tử Poirot và bà Marple trong các sáng tác của Christie ra đời trong giai đoạn từ năm 1920 đến năm 1976. Mục đích là loại bỏ những từ ngữ và mô tả mà độc giả hiện đại cảm thấy xúc phạm, đặc biệt là những mô tả về những người mà nhân vật chính trong các tác phẩm của Christie gặp gỡ bên ngoài Vương quốc Anh. Theo đó, những sửa đổi do "độc giả nhạy cảm" tiến hành đã thể hiện rõ ràng trong các phiên bản kỹ thuật số của các ấn bản mới, bao gồm toàn bộ loạt truyện về bà Marple và các tiểu thuyết có sự xuất hiện của thám tử Poirot ra mắt kể từ năm 2020 trở về sau.<ref>{{cite news |last1=Simpson |first1=Craig |title=Agatha Christie classics latest to be rewritten for modern sensitivities |url=https://www.telegraph.co.uk/news/2023/03/25/agatha-christie-classics-latest-rewritten-modern-sensitivities/ |access-date=29 March 2023 |work=The Telegraph |date=25 March 2023}}</ref>

==== Những nhân vật thám tử khác ====

Bên cạnh hai cái tên quen thuộc là Hercule Poirot và bà Marple, Christie còn tạo ra cặp đôi thám tử nghiệp dư Thomas Beresford (Tommy) và vợ, Prudence "Tuppence" (''nhũ danh'' Cowley). Họ góp mặt trong 4 tiểu thuyết và 1 tập truyện ngắn xuất bản trong giai đoạn từ năm 1922 đến năm 1974. Không giống như các nhân vật thám tử khác, vợ chồng Beresford mới chỉ độ 20 tuổi khi xuất hiện lần đầu trong tác phẩm ''Địch thủ bí mật'', cho phép hai nhân vật này già đi cùng với bà trong suốt quá trình sáng tác.<ref name=":16"/>{{Rp|19–20}} Những tác phẩm có mặt họ thường mang không khí nhẹ nhàng hơn, pha chút "xông xáo và nhiệt tình" nhưng không phải lúc nào giới phê bình cũng đón nhận theo cách tích cực.<ref name=":17"/>{{Rp|63}} Tác phẩm ''Cánh cửa định mệnh'', tác phẩm cuối cùng của Christie cũng là lần cuối cùng hai nhân vật này xuất hiện.<ref name="thompson"/>{{Rp|477}}

Harley Quin là nhân vật thám tử hư cấu "dị biệt nhất" của Christie.<ref name=":17"/>{{Rp|70}} Đây là nhân vật hình thành từ sự mến mộ của bà đối với thể loại [[Vở tuồng hề|kịch tuồng hề]]. Quin mang trong mình sức mạnh siêu nhiên đồng bóng, đi cùng ông là người cộng sự lớn tuổi, theo chủ nghĩa cổ điển tên là Satterthwaite. Bộ đôi này xuất hiện trong 14 truyện ngắn. Đến năm 1930 thì 12 truyện ngắn trong số này đã trở thành bộ sưu tập truyện ngắn mang tên ''The Mysterious Mr. Quin''.<ref name=":16"/>{{Rp|78, 80}}<ref>{{cite journal |last1=Vervel |first1=Marc |title='Mystery' Beyond Reason: Mr. Quin, a Revealer of the Powers of Fiction According to Agatha Christie? |journal=Clues: A Journal of Detection |date=2022 |volume=40 |issue=2 |page=39-48 |url=https://mcfarlandbooks.com/wp-content/uploads/5-Vervel-Clu402.pdf |access-date=18 April 2023}}</ref> Chồng bà, Mallowan, mô tả những tác phẩm này là "tác phẩm trinh thám theo khuynh hướng kỳ khôi, mang dáng dấp của truyện cổ tích, một sản phẩm tự nhiên xuất phát từ trí tưởng tượng riêng biệt của Agatha".<ref name=":16"/>{{Rp|80}} Nhân vật Satterthwaite cũng xuất hiện trong tiểu thuyết ''Bi kịch ba hồi'' cùng truyện ngắn "[[Murder in the Mews|Dead Man's Mirror]]". Cả hai tác phẩm cũng có sự tham gia góp mặt của thám tử Poirot.<ref name=":16"/>{{Rp|81}}

Một nhân vật ít người biết đến khác của Christie là Parker Pyne. Vốn là một công chức đã về hưu, ông thường sử dụng những phương pháp trái với nguyên tắc thông thường nhằm giúp đỡ những người bất hạnh.<ref name=":16"/>{{Rp|118–19}} Pyne xuất hiện lần đầu trong bộ 12 truyện ngắn mang tên ''[[Parker Pyne Investigates]]'' xuất bản năm 1934, tuy nhiên, mãi đến năm 1967, khi tác phẩm "The Case of the Discontented Soldier" ra mắt thì nhân vật này mới trở nên đáng chú ý. Nhân vật chính trong tác phẩm này là Ariadne Oliver, "một bức tự họa đầy châm biếm và hài hước về chính Agatha Christie". Trong nhiều thập niên tiếp theo, Oliver còn góp mặt trong bảy tác phẩm khác, phần lớn trong số này dưới vai trò nhân vật hỗ trợ thám tử Poirot trong các vụ án.<ref name=":16"/>{{Rp|120}}

==== Kịch ====
{{Multiple image
<!-- Essential parameters -->| align = right
| direction = vertical
| header =
| width = 230
<!-- Image 1 -->| image1 = 59th Year^ The 'West End', London. - panoramio.jpg
| width1 =
| alt1 =
| caption1 = ''[[The Mousetrap]]'', vở kịch có thời gian công diễn dài nhất thế giới, đang được biểu diễn tại [[Nhà hát kịch St Martin's]] ở [[Nhà hát kịch ở West End|West End]] vào năm 2011. Biển hiệu ở phía trước nhà hát kịch biểu thị năm thứ 59 mà vở kịch công diễn.
<!-- Image 2 -->| image2 = Mousetrap 22461.JPG
| width2 =
| alt2 =
| caption2 = Ảnh chụp vào tháng 11 năm 2006 cho thấy tấm bảng gỗ ở tiền sảnh của Nhà hát kịch St Martin's mô tả 22.461 lần vở ''The Mousetrap'' công diễn. Nhiều khán giả thường thích chụp ảnh lưu niệm bên cạnh tấm bảng này.<ref name="Mousetrap record"/>
}}

Năm 1928, [[Michael Morton]] đã chuyển thể tiểu thuyết [[Vụ ám sát ông Roger Ackroyd|''Vụ ám sát ông Roger Ackroyd'']] lên sân khấu với tựa đề ''[[Alibi (kịch)|Alibi]]''.<ref name="Morgan1984"/>{{Rp|177}} Vở kịch này gặt hái nhiều thành công đáng kể, nhưng Christie lại không hài lòng với những thay đổi trong tác phẩm. Vì vậy, về sau, bà quyết định tự tay viết kịch bản cho các tác phẩm của mình. Tác phẩm đầu tiên của bà trên sân khấu kịch là ''[[Black Coffee (kịch)|Black Coffee]]'', ra mắt ở [[Nhà hát kịch ở West End|West End]] vào cuối năm 1930 và nhận được những đánh giá tích cực.<ref>Thompson, Laura (2008), ''Agatha Christie: An English Mystery'', London: Headline Review, p. 277, 301. ISBN 978-0-7553-1488-1</ref> Tiếp nối thành công của ''Black Coffee'', Christie tiếp tục chuyển thể các tiểu thuyết trinh thám khác của mình lên sân khấu, bao gồm ''[[And Then There Were None (kịch)|And Then There Were None]]'' vào năm 1943, ''[[Appointment with Death (kịch)|Appointment with Death]]'' vào năm 1945 và ''[[The Hollow (kịch)|The Hollow]]'' vào năm 1951.<ref name="Morgan1984"/>{{Rp|242, 251, 288}}

Vào thập niên 1950, sân khấu kịch trở thành đề tài "chiếm phần lớn sự quan tâm của Agatha."<ref>Thompson, Laura (2008), ''Agatha Christie: An English Mystery'', London: Headline Review, p. 360. ISBN 978-0-7553-1488-1</ref> Bà đã chuyển thể vở kịch ngắn trên sóng radio của mình thành vở ''[[The Mousetrap]]''. Vở kịch có lần công diễn đầu tiên tại West End vào năm 1952, do [[Peter Saunders (impresario)|Peter Saunders]] chịu trách nhiệm sản xuất. Vai diễn Trung sĩ điều tra Trotter ban đầu do tài tử [[Richard Attenborough]] đảm nhiệm.<ref name="Mousetrap record"/> Kỳ vọng của Christie về vở kịch không cao, bà tin rằng vở diễn sẽ chỉ kéo dài khoảng tám tháng.<ref name="Auto1993"/>{{Rp|500}} Tuy nhiên, ''The Mousetrap'' đã tạo nên lịch sử cho ngành sân khấu kịch khi trở thành vở diễn có thời gian công diễn lâu nhất thế giới. Tính đến tháng 9 năm 2018 thì vở diễn này đã đạt cột mốc 27.500 lần công diễn.<ref name="Mousetrap record">{{cite news |last=Moss |first=Stephen |date=21 November 2012 |title=The Mousetrap at 60: Why is this the world's longest-running play? |work=[[The Guardian]] |url=https://www.theguardian.com/stage/2012/nov/20/mousetrap-60-years-agatha-christie |access-date=8 April 2020 |archive-date=10 August 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20200810022443/https://www.theguardian.com/stage/2012/nov/20/mousetrap-60-years-agatha-christie |url-status=live }}</ref><ref>{{cite news |last=Brantley |first=Ben |date=26 January 2012 |title=London Theater Journal: Comfortably Mousetrapped |work=[[The New York Times]] |url=http://artsbeat.blogs.nytimes.com/2012/01/26/london-theater-journal-comfortably-mousetrapped/ |access-date=26 January 2012 |archive-date=30 September 2019 |archive-url=https://web.archive.org/web/20190930221446/https://artsbeat.blogs.nytimes.com/2012/01/26/london-theater-journal-comfortably-mousetrapped/ |url-status=live }}</ref><ref>[https://www.the-mousetrap.co.uk/Online ''The Mousetrap'' website] {{Webarchive |url=https://web.archive.org/web/20150623162102/https://www.the-mousetrap.co.uk/Online/|date=23 June 2015}}, the-mousetrap.co.uk. Retrieved 2 June 2015.</ref><ref>{{cite web |url=https://uk.the-mousetrap.co.uk/the-history/ |title=The History |website=The Mousetrap |language=en-GB |access-date=25 April 2020 |archive-date=19 January 2019 |archive-url=https://web.archive.org/web/20190119121315/https://uk.the-mousetrap.co.uk/the-history/ |url-status=live }}</ref> Việc công diễn tạm thời ngừng lại vào tháng 3 năm 2020, khi nước Anh đối mặt với làn sóng [[đại dịch COVID-19]]<ref>{{cite web |date=17 March 2020 |title=The West End and UK Theatre venues shut down until further notice due to coronavirus |url=https://www.londontheatredirect.com/news/the-west-end-and-uk-theatre-venues-shut-down-until-further-notice-due-to-coronavirus |access-date=5 May 2020 |website=[[London Theatre Direct]] |language=en |archive-date=8 May 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20200508232524/https://www.londontheatredirect.com/news/the-west-end-and-uk-theatre-venues-shut-down-until-further-notice-due-to-coronavirus |url-status=live }}</ref><ref>{{cite web |date=22 April 2020 |title=The London theatres that are closed due to coronavirus |url=https://www.standard.co.uk/go/london/theatre/london-theatres-west-end-closed-coronavirus-a4388676.html |access-date=5 May 2020 |website=[[Evening Standard]] |language=en |archive-date=19 April 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20200419211926/https://www.standard.co.uk/go/london/theatre/london-theatres-west-end-closed-coronavirus-a4388676.html |url-status=live }}</ref> và kéo dài cho đến ngày 17 tháng 5 năm 2021.<ref>{{cite web |last1=Lawson |first1=Mark |title=The case of the Covid-compliant murder: how The Mousetrap is snapping back to life |url=https://www.theguardian.com/stage/2021/may/05/case-covid-compliant-mousetrap-snapping-back-agatha-christie-whodunnit |newspaper=The Guardian |location=London |access-date=20 July 2022 |language=en |date=5 May 2021}}</ref>

Tiếp nối thành công của ''The Mousetrap'', năm 1953, Christie tiếp tục cho ra đời vở ''[[Witness for the Prosecution (kịch)|Witness for the Prosecution]]'', Phiên bản trình diễn trên sân khấu ở [[Nhà hát Broadway|Broadway]] của vở kịch này đã xuất sắc giành giải "vở kịch nước ngoài xuất sắc nhất năm 1954" do [[Hiệp hội Phê bình Sân khấu]] trao tặng, đồng thời giúp Christie đoạt [[giải Edgar]] của [[Hiệp hội Nhà văn trinh thám Hoa Kỳ]].<ref name="Morgan1984"/>{{Rp|300}}<ref name=":12"/>{{Rp|262}} Cũng trong năm này, vở ''[[Spider's Web (play)|Spider's Web]]'', một tác phẩm gốc được viết riêng cho nữ minh tinh [[Margaret Lockwoodan]], ra mắt tại West End và cũng nhanh chóng trở thành một vở kịch ăn khách.<ref name="Morgan1984"/>{{Rp|297, 300}} Christie cũng là nhà viết kịch nữ đầu tiên có ba vở diễn công diễn đồng thời tại Luân Đôn, bao gồm ''The Mousetrap'', ''Witness for the Prosecution'' và ''Spider's Web''.<ref>{{cite news |title=Everyone loves an old-fashioned murder mystery |url=https://www.thehindu.com/entertainment/theatre/everyone-loves-an-old-fashioned-murder-mystery/article25664054.ece |newspaper=The Hindu |date=4 December 2018 |access-date=29 August 2020 |last1=Phukan |first1=Vikram |archive-date=20 May 2021 |archive-url=https://web.archive.org/web/20210520060606/https://www.thehindu.com/entertainment/theatre/everyone-loves-an-old-fashioned-murder-mystery/article25664054.ece |url-status=live }}</ref> Theo bà, "soạn kịch dễ hơn nhiều so với việc sáng tác tiểu thuyết, bởi vì bạn có thể hình dung chúng ngay trong tâm trí, không bị cản trở bởi những mô tả vốn khiến cho bạn trở nên bế tắc trong tiểu thuyết để rồi không thể tiếp tục với diễn biến câu chuyện."<ref name="Auto1993"/>{{Rp|459}} Trong một bức thư gửi con gái, Christie thừa nhận rằng việc trở thành nhà soạn kịch là một trải nghiệm "vô cùng thú vị!"<ref name="thompson"/>{{Rp|474}}

==== Sáng tác dưới bút danh Mary Westmacott ====

Dưới bút danh Mary Westmacott, Agatha Christie đã cho ra đời sáu tác phẩm thuộc dòng văn học chính thống. Bút danh này cho phép bà tự do khám phá "khu vườn riêng tư và quý giá nhất trong trí tưởng tượng của mình".<ref name="thompson"/>{{Rp|366–67}}<ref name=":16"/>{{Rp|87–88}} So với các tác phẩm trinh thám và giật gân thì những cuốn sách này thường nhận về những đánh giá tích cực hơn.<ref name="thompson"/>{{Rp|366}} Đánh giá về ''[[Giant's Bread]]'', tác phẩm văn học chính thống đầu tiên xuất bản năm 1930, một nhà phê bình của tờ ''[[The New York Times]]'' khen ngợi: "...{{nbsp}}tác phẩm của bà vượt trội hơn so với mức trung bình của các tiểu thuyết viễn tưởng đương thời, trên thực tế là nó còn vượt trội hơn so với tiêu chí phân loại 'sách hay'. Và chỉ có một tiểu thuyết khiến người đọc hài lòng mới có thể xứng đáng với danh xưng đó."<ref>{{cite news |date=17 August 1930 |title=Book Review |page=7 |work=[[The New York Times]]}}</ref> Ngay từ đầu, người ta đã công bố rằng "Mary Westmacott" là bút danh của một tác giả nổi tiếng. Tuy nhiên, danh tính đằng sau bút danh này vẫn được giữ kín. Bìa ngoài của cuốn sách ''Giant's Bread'' cũng từng tiết lộ rằng tác giả của tác phẩm này, "dưới danh tính thực của mình...có phân nửa tác phẩm có số lượng bán ra hơn 30 nghìn bản."{{Refn|Mặc dù dữ kiện này căn bản là đúng, nhưng nó đã góp phần che giấu danh tích của Christie thông qua việc nói giảm nói tránh. Bởi lẽ, vào thời điểm phát hành ''Giant's Bread'', Christie đã xuất bản 10 tiểu thuyết và 2 tập truyện ngắn, tất cả đều bán được nhiều hơn 30.000 bản.|group=lower-alpha}} Sau khi danh tính của Christie là tác giả của bốn tiểu thuyết đầu tiên dưới bút danh Westmacott bị một nhà báo tiết lộ vào năm 1949, bà đã viết thêm hai tác phẩm nữa dưới bút danh này, trong đó tác phẩm cuối cùng ra mắt bạn đọc vào năm 1956.<ref name="thompson"/>{{Rp|366}}

Bên cạnh ''Giant's Bread'', các tác phẩm văn học chính thống khác của Christie dưới bút danh Westmacott là: ''[[Unfinished Portrait (tiểu thuyết)|Unfinished Portrait]]'' (1934), ''Absent in the Spring'' (1944), ''The Rose and the Yew Tree'' (1948), ''[[A Daughter's a Daughter]]'' (1952) và ''The Burden'' (1956).

=== Tác phẩm phi hư cấu ===

Bên cạnh các tiểu thuyết hư cấu, Agatha Christie cũng xuất bản một số tác phẩm phi hư cấu. Trong đó, ''Come, Tell Me How You Live'', kể về những trải nghiệm khai quật khảo cổ, lấy cảm hứng từ cuộc sống của bà với Max Mallowan. Bên cạnh đó, ''The Grand Tour: Around the World with the Queen of Mystery'' là tập hợp những bức thư ghi lại chuyến hành trình của bà xuyên qua những vùng đất thuộc [[Đế quốc Anh]] bao gồm Nam Phi, Australia, New Zealand và Canada vào năm 1922. Ngoài ra, Christie còn sáng tác một cuốn tự truyện mang tên ''[[Agatha Christie: An Autobiography]]''. Tác phẩm phát hành vào năm 1977, sau khi bà qua đời. Một năm sau đó, tác phẩm vinh dự đoạt giải "Tác phẩm phê bình/tiểu sử hay nhất" tại [[giải Edgar]].<ref name=":14">{{cite web |url=http://theedgars.com/awards/ |title=Edgars Database – Search the Edgars Database |website=The Edgars |access-date=29 April 2020 |archive-date=28 March 2019 |archive-url=https://web.archive.org/web/20190328055509/http://theedgars.com/awards/ |url-status=live }}</ref>

=== Nhan đề ===

Kể từ năm 1940 trở đi, nhiều tác phẩm của Christie có nhan đề đề lấy cảm hứng từ các tác phẩm văn học khác. Thông thường, ngữ cảnh ban đầu của nhan đề sẽ xuất hiện ở phần mở đầu cuốn sách dưới dạng một đoạn "[[đề từ]]".<ref>{{cite book |last=Hopkins |first=Lisa |title=Shakespearean Allusion in Crime Fiction |publisher=[[Springer Publishing|Springer]] |year=2016 |isbn=978-1137538741|editor-last=Hopkins|editor-first=L. |location=Cham, Switzerland |pages=63–103 |chapter=Who Owns the Wood? Appropriating A Midsummer Night's Dream}}</ref>

Dưới đây là một số tác phẩm của Agatha Christie sử dụng nhan đề lấy ngữ liệu từ văn chương:
* Lấy cảm hứng từ các tác phẩm của [[William Shakespeare]] gồm có: ''[[Cây bách buồn|Sad Cypress]]'',{{Refn|Bản dịch tiếng Việt là ''Cây bách buồn''.|group=lower-alpha}} ''[[By the Pricking of My Thumbs]]'', ''[[Đón ngọn triều dâng|There is a Tide{{nbsp}}...]]'',{{Refn|Bản dịch tiếng Việt là ''Đón ngọn triều dâng''.|group=lower-alpha}} ''[[Absent in the Spring]]'' và vở kịch ''The Mousetrap''. Theo tác giả Charles Osborne, "Shakespeare là nhà văn được trích dẫn nhiều nhất trong các tác phẩm của Agatha Christie".<ref name=":16"/>{{Rp|164}}
* Lấy cảm hứng từ [[Kinh Thánh]] gồm có: ''[[Tội ác dưới ánh mặt trời|Evil Under the Sun]]'',{{Refn|Bản dịch tiếng Việt là ''Tội ác dưới ánh mặt trời''.|group=lower-alpha}} ''[[The Burden]]'' và ''[[Tình yêu phù thủy|The Pale Horse]]''.{{Refn|Bản dịch tiếng Việt là ''Tình yêu phù thủy''.|group=lower-alpha}}
* Lấy cảm hứng từ các tác phẩm văn học khác: ''[[Gương vỡ|The Mirror Crack'd from Side to Side]]''{{Refn|Bản dịch tiếng Việt là ''Gương vỡ''.|group=lower-alpha}} (từ bài hát "[[The Lady of Shalott]]" của [[Tennyson]]'s ), ''[[Ngòi bút tẩm độc|The Moving Finger]]''{{Refn|Bản dịch tiếng Việt là ''Ngòi bút tẩm độc''.|group=lower-alpha}} (từ tác phẩm dịch ''[[Rubáiyát of Omar Khayyám]]'' của [[Edward FitzGerald (poet)|Edward FitzGerald]]), ''[[The Rose and the Yew Tree]]'' (từ tập thơ ''[[Four Quartets]]'' của [[T. S. Eliot]]'s ), ''Postern of Fate''{{Refn|Bản dịch tiếng Việt là ''Cánh cửa định mệnh''.|group=lower-alpha}} (từ tác phẩm "Gates of Damascus" của [[James Elroy Flecker]]), ''Endless Night''{{Refn|Bản dịch tiếng Việt là ''Đêm vô tận''.|group=lower-alpha}} (từ bài thơ "[[Auguries of Innocence]]" của [[William Blake]]), ''N or M?''{{Refn|Bản dịch tiếng Việt là ''Người đàn bà hoang dã''.|group=lower-alpha}} (từ tác phẩm ''[[Book of Common Prayer]]'') và ''[[Come, Tell Me How You Live]]'' (từ tiểu thuyết ''[[Through the Looking-Glass]]'' của [[Lewis Carroll]]).

[[Gillian Gill]], nhà nghiên cứu về tiểu sử của Agatha Christie từng nhận xét: "Sáng tác của Christie sở hữu tính cô đọng, không vòng vo, nhịp kể chuyện nhanh và có sức hấp dẫn phổ quát của thể loại truyện cổ tích, và có lẽ chính vì mang tinh thần truyện cổ tích hiện đại dành cho độc giả trưởng thành mà tiểu thuyết của Christie đã thành công vang dội."<ref name=":10"/>{{Rp|208}} Ngoài ra, tác phẩm của Christie còn là sự đan xen giữa tính ngây thơ và kinh dị, thể hiện thông qua việc nhiều tựa sách của bà lấy cảm hứng từ những [[Đồng dao|bài hát nổi tiếng dành cho thiếu nhi]] như ''And Then There Were None''{{Refn|Bản dịch tiếng Việt là ''Mười người da đen nhỏ''.|group=lower-alpha}} (từ "Ten Little Niggers"{{Refn|Một bài vè từng được xuất bản với tên "[[Ten Little Indians]]", cả hai đều là tiêu đề sách trong một số bản in.|group=lower-alpha}}),<ref>{{Cite book |last=McAllister |first=Pam |title=The Bedside, Bathtub & Armchair Companion to Agatha Christie |publisher=[[Continuum International Publishing Group|Continuum]] |year=2001 |isbn=0-8264-1375-7 |editor-last=Riley |editor-first=Dick |edition=2nd |location=New York City; London |pages=144–45 |chapter=Ten Little Who? |editor2-last=McAllister |editor2-first=Pam |editor3-last=Cassiday |editor3-first=Bruce |chapter-url=https://books.google.com/books?id=zd3yIaoBjrMC&pg=PA144 |access-date=21 August 2020 |archive-date=2 September 2021 |archive-url=https://web.archive.org/web/20210902084912/https://books.google.com/books?id=zd3yIaoBjrMC&pg=PA144 |url-status=live }}</ref> ''[[Một, hai, ba những cái chết bí ẩn|One, Two, Buckle My Shoe]]''{{Refn|Bản dịch tiếng Việt là ''Một, hai, ba những cái chết bí ẩn''.|group=lower-alpha}} (từ "[[One, Two, Buckle My Shoe]]"), ''[[Năm chú heo con|Five Little Pigs]]''{{Refn|Bản dịch tiếng Việt là ''Năm chú heo con''.|group=lower-alpha}} (từ "[[This Little Piggy]]"), ''[[Ngôi nhà cổ quái|Crooked House]]''{{Refn|Bản dịch tiếng Việt là ''Ngôi nhà cổ quái''.|group=lower-alpha}} (từ "[[There Was a Crooked Man]]"), ''[[Một nắm lúa mạch|A Pocket Full of Rye]]''{{Refn|Bản dịch tiếng Việt là ''Một nắm lúa mạch''.|group=lower-alpha}} (từ "[[Sing a Song of Sixpence]]"), ''[[Hickory Dickory Dock (tiểu thuyết)|Hickory Dickory Dock]]'' (từ "[[Hickory Dickory Dock]]") và ''[[Three Blind Mice and Other Stories|Three Blind Mice]]'' (từ "[[Three Blind Mice]]").<ref name=":10"/>{{Rp|207–08}}

== Đánh giá chuyên môn ==

[[File:Agatha Christie Memorial (cropped).jpg|thumb|upright|Bia tưởng niệm Agatha Christie ở trung tâm thủ đô Luân Đôn|alt=Colour photograph of a large, book-shaped bronze memorial|left]]
Agatha Christie nổi tiếng với biệt danh "Nữ hoàng trinh thám" (gia đình Christie hiện đã đăng ký thương hiệu cho biệt danh này) hay "Bà hoàng thần bí". Ngoài ra, bà còn là bậc thầy về khả năng tạo ra sự hồi hộp, kịch tích, cùng với khả năng xây dựng cốt truyện cũng như khắc họa nhân vật.<ref>{{cite news |title=QUEEN OF CRIME Trademark of Agatha Christie Limited |url=https://trademarks.justia.com/792/71/queen-of-79271301.html |access-date=7 October 2022 |website=[[Justia]]}}</ref><ref>{{cite book |last=Wagoner |first=Mary S. |title=Agatha Christie |publisher=[[Gale (publisher)|Twayne Publishers]] |year=1986 |isbn=0-8057-6936-6 |location=Boston}}</ref><ref>{{Citation |title=The Bedside, Bathtub & Armchair Companion to Agatha Christie |url=https://books.google.com/books?id=zd3yIaoBjrMC |page=240 |year=2001 |editor-last=Riley |editor-first=Dick |edition=2nd |location=New York City; London |publisher=[[Continuum International Publishing Group|Continuum]] |isbn=978-0826413758 |editor2-last=McAllister |editor2-first=Pam |editor3-last=Cassiday |editor3-first=Bruce |access-date=21 August 2020 |archive-date=1 May 2021 |archive-url=https://web.archive.org/web/20210501105414/https://books.google.com/books?id=zd3yIaoBjrMC |url-status=live }}</ref><ref>{{cite book |last=Engelhardt |first=Sandra |title=The Investigators of Crime in Literature |url=https://books.google.com/books?id=0olaAAAAMAAJ |page=83 |year=2003 |location=Marburg |publisher=Tectum Verlag |isbn=978-0805769364 |access-date=4 July 2020 |archive-date=16 July 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20200716005148/https://books.google.com/books?id=0olaAAAAMAAJ |url-status=live }}</ref> Năm 1955, Christie trở thành người đầu tiên nhận giải Grand Master của [[Hội nhà văn trinh thám Hoa Kỳ]].<ref name=":14"/> Tại Hội nghị Truyện trinh thám Thế giới [[Bouchercon]] năm 2000, bà được tôn vinh là "Nhà văn hay nhất thế kỷ" và loạt truyện về thám tử Hercule Poirot cũng được vinh danh là "Sê ri tác phẩm hay nhất thế kỷ".<ref>{{Cite web |date=22 September 2015 |title=Winners and Nominees 2000s |url=http://www.bouchercon.com/anthony-awards/winners-and-nominees/2000s/ |access-date=1 July 2020 |website=[[Bouchercon]] |language=en |archive-date=9 June 2018 |archive-url=https://web.archive.org/web/20180609172627/http://www.bouchercon.com/anthony-awards/winners-and-nominees/2000s/ |url-status=live }}</ref> Năm 2013, 600 nhà văn chuyên nghiệp thuộc Hiệp hội Nhà văn Tội phạm Anh đã bầu chọn Christie là "nhà văn tội phạm xuất sắc nhất".<ref name=":18"/> Tuy nhiên, nhà văn [[Raymond Chandler]] và nhà văn [[Julian Symons]] lại dành những sự chỉ trích về tính thiếu tự nhiên trong tác phẩm của bà.<ref>{{cite book |last=Chandler |first=Raymond |author-link=Raymond Chandler |url=https://www.fadedpage.com/showbook.php?pid=20140930 |title=The Simple Art of Murder |publisher=[[Houghton Mifflin Harcourt|Houghton Mifflin Company]] |year=1950 |chapter=The Simple Art of Murder: An Essay |access-date=4 May 2020 |archive-date=21 October 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20201021050156/https://www.fadedpage.com/showbook.php?pid=20140930 |url-status=live }}</ref><ref name=":20"/>{{Rp|100–30}} Còn nhà phê bình văn học [[Edmund Wilson]] thì cho rằng văn phong của bà vô vị trong khi cách xây dựng nhân vật thì hời hợt.<ref>{{cite magazine |last=Wilson |first=Edmund |author-link=Edmund Wilson |date=14 October 1944 |title=Why Do People Read Detective Stories? |magazine=[[The New Yorker]] |url=https://www.newyorker.com/magazine/1944/10/14/why-do-people-read-detective-stories |access-date=4 May 2020 |archive-date=10 August 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20200810154925/https://www.newyorker.com/magazine/1944/10/14/why-do-people-read-detective-stories |url-status=live }}</ref>{{Refn|Năm 1945, Wilson cho ra mắt bài tiểu luận với tựa đề, "Who Cares Who Killed Roger Ackroyd?", tỏ thái độ chê bai, phê phán với thể loại truyện trinh thám nói chung, nhưng không đề cập trực tiếp đến Christie.<ref>{{cite magazine |last=Wilson |first=Edmund |author-link=Edmund Wilson |title=Who Cares Who Killed Roger Ackroyd? |url=http://archives.newyorker.com/?iid=18408&startpage=page0000061#folio=058 |url-access=subscription |magazine=[[The New Yorker]] |date=20 January 1945 |access-date=25 November 2017 |archive-date=1 December 2017 |archive-url=https://web.archive.org/web/20171201033959/http://archives.newyorker.com/?iid=18408&startpage=page0000061#folio=058 |url-status=live }}</ref><ref>{{cite web |title=Edmund Wilson on Crime Fiction |url=http://www.crazyoik.co.uk/workshop/edmund_wilson_on_crime_fiction.htm |access-date=23 June 2020 |website=The Crazy Oik |archive-date=23 December 2017 |archive-url=https://web.archive.org/web/20171223115044/http://www.crazyoik.co.uk/workshop/edmund_wilson_on_crime_fiction.htm |url-status=live }}</ref>|group=lower-alpha}}

{{quote box | width = 25%
| quote = "Thông qua Christie&nbsp;... chúng ta không chỉ đơn thuần đang tiếp xúc với một nhân vật văn học mà còn với một hiện tượng văn hóa rộng lớn, giống như Barbie hay The Beatles."

...
| source = —[[Joan Acocella]] từ tạp chí ''The New Yorker''<ref>{{cite magazine |last=Acocella |first=Joan |title=Queen of Crime |url=https://www.newyorker.com/magazine/2010/08/16/queen-of-crime |access-date=29 April 2020 |magazine=[[The New Yorker]] |language=en |archive-date=23 September 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20200923235430/https://www.newyorker.com/magazine/2010/08/16/queen-of-crime |url-status=live }}</ref>
| style = padding:1.5em
| fontsize=85%
}}
Năm 2011, kênh truyền hình chuyên về phim trinh thám tội phạm [[Alibi (kênh truyền hình)|Alibi]] đã vinh danh Christie là nhà văn tội phạm thành công về mặt tài chính thứ nhì tại Vương quốc Anh, sau [[Ian Fleming]], tác giả của [[James Bond]], với tổng thu nhập khoảng 100 triệu bảng Anh.<ref>{{cite news |date=2011 |title=Crime Writer Rich List |work=[[Alibi (TV channel)|Alibi]] |url=https://alibi.uktv.co.uk/articles/article/crime-writer-rich-list/ |access-date=22 September 2020 |archive-date=19 September 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20200919160514/https://alibi.uktv.co.uk/articles/article/crime-writer-rich-list/ |url-status=live }}</ref> Năm 2012, Christie là một trong những nhân vật mà họa sĩ [[Peter Blake (artist)|Peter Blake]] chọn lựa xuất hiện trong phiên bản mới nhất của bìa album ''[[Sgt. Pepper's Lonely Hearts Club Band]]'', tác phẩm mà ông yêu thích nhất, nhằm "tôn vinh những nhân vật có ảnh hưởng đến văn hóa nước Anh mà ông ngưỡng mộ nhất".<ref>{{cite news |date=13 November 2016 |title=New faces on Sgt Pepper album cover for artist Peter Blake's 80th birthday |work=[[The Guardian]] |url=https://www.theguardian.com/artanddesign/2012/apr/02/peter-blake-sgt-pepper-cover-revisited |access-date=13 November 2016 |archive-date=5 November 2016 |archive-url=https://web.archive.org/web/20161105095109/https://www.theguardian.com/artanddesign/2012/apr/02/peter-blake-sgt-pepper-cover-revisited |url-status=live }}</ref><ref>{{cite news |date=13 November 2016 |title=Sir Peter Blake's new Beatles' Sgt Pepper's album cover |work=[[BBC]] |url=https://www.bbc.co.uk/news/entertainment-arts-17583026 |access-date=21 July 2018 |archive-date=3 January 2017 |archive-url=https://web.archive.org/web/20170103234105/http://www.bbc.co.uk/news/entertainment-arts-17583026 |url-status=live }}</ref> Bình luận về sự trường tồn vượt kỷ lục của vở kịch ''The Mousetrap'' nhân dịp kỷ niệm 60 năm công diễn vào năm 2012, [[Stephen Moss]] từ tờ ''[[The Guardian]]'' khẳng định: "vở kịch này và tác giả của nó chính là những vì sao".<ref name="Mousetrap record"/>

Vào năm 2015, nhân dịp kỷ niệm 125 năm ngày sinh của Agatha Christie, 25 nhà văn trinh thám đương đại cùng một nhà xuất bản đã bày tỏ quan điểm về các tác phẩm của bà. Theo đó, vài người trong số này chia sẻ rằng họ đã đọc tiểu thuyết của Christie (bằng tiếng Anh và cả tiếng mẹ đẻ) trước khi đọc tác phẩm của các nhà văn viết về đề tài bí ẩn khác. Chính điều này đã tạo nên một sự ảnh hưởng đến phong cách sáng tác của họ. Vì vậy, gần như mọi người đều đồng tình rằng Christie là "Nữ hoàng trinh thám" và những cú [[plot twist]] của bà đều là nguồn tư liệu mà nhiều nhà văn áp dụng một cách rộng rãi. Hầu hết những người này đều có ít nhất một hoặc nhiều tác phẩm trinh thám của Christie trên giá sách yêu thích, đồng thời cho biết các sáng tác của bà vẫn đáng đọc sau gần 100 năm kể từ khi tiểu thuyết đầu tiên ra mắt. Trong số 25 tác giả thì chỉ có một người đồng ý với quan điểm của Edmund Wilson.<ref>{{cite news |author=Doyle, Martin |date=15 September 2015 |title=Agatha Christie: genius or hack? Crime writers pass judgment and pick favourites |newspaper=[[The Irish Times]] |url=http://www.irishtimes.com/culture/books/agatha-christie-genius-or-hack-crime-writers-pass-judgment-and-pick-favourites-1.2351699 |access-date=7 December 2015 |archive-date=27 January 2016 |archive-url=https://web.archive.org/web/20160127070034/http://www.irishtimes.com/culture/books/agatha-christie-genius-or-hack-crime-writers-pass-judgment-and-pick-favourites-1.2351699 |url-status=live }}</ref>

=== Doanh số bán sách ===

Ở thời kỳ đỉnh cao sự nghiệp, cái tên Agatha Christie hiếm khi vắng bóng khỏi danh sách tác phẩm bán chạy nhất.<ref>{{cite web |title=and then there were 75 facts about the queen of crime agatha christie |url=https://www.gamesindustry.biz/articles/and-then-there-were-75-facts-about-the-queen-of-crime-agatha-christie |website=gamesindustry |date=24 October 2005 |access-date=1 October 2020 |archive-date=1 May 2021 |archive-url=https://web.archive.org/web/20210501105411/https://www.gamesindustry.biz/articles/and-then-there-were-75-facts-about-the-queen-of-crime-agatha-christie |url-status=live }}</ref> Năm 1948, bà là nhà văn trinh thám đầu tiên có 100.000 bản in cho 10 đầu sách được nhà xuất bản [[Penguin Books|Penguin]] phát hành trong cùng một ngày.<ref>{{cite web |title=Special Stamps to commemorate Agatha Christie – the biggest-selling novelist of all time |url=https://rmspecialstamps.com/collections/agatha-christie/#:~:text=Since%20her%20debut%20in%201920,in%201948%20%2D%20A%20Penguin%20Million. |website=rmspecialstamps |access-date=1 October 2020 |archive-date=1 March 2021 |archive-url=https://web.archive.org/web/20210301135136/https://rmspecialstamps.com/collections/agatha-christie/#:~:text=Since%20her%20debut%20in%201920,in%201948%20%2D%20A%20Penguin%20Million. |url-status=dead}}</ref><ref>{{cite web |title=Where Are They Now? |url=https://www.penguin.com/penguin80/original-10/ |website=Penguin |access-date=1 October 2020 |archive-date=19 September 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20200919165531/https://www.penguin.com/penguin80/original-10/ |url-status=live }}</ref> {{As of|2018|}}, ''[[Sách Kỷ lục Guinness]]'' đã liệt Agatha Christie vào danh sách tiểu thuyết gia bán chạy nhất mọi thời đại.<ref name="Guinness"/> {{As of|2020|}}, tiểu thuyết của bà đã bán được hơn 2 tỷ bản và có mặt ở 44 ngôn ngữ khác nhau.<ref name="Guinness">{{cite news |title=Five record-breaking book facts for National Bookshop Day |url=https://www.guinnessworldrecords.com/news/2018/10/5-page-turning-book-facts |access-date=12 November 2020 |agency=Guinness World Records |archive-date=27 October 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20201027042029/https://www.guinnessworldrecords.com/news/2018/10/5-page-turning-book-facts |url-status=live }}</ref> Trong đó, một nửa doanh số đến từ bản gốc tiếng Anh và một nửa còn lại đến từ các bản dịch.<ref>{{cite web |date=4 October 2018 |title=Five record-breaking book facts for National Bookshop Day |url=https://www.guinnessworldrecords.com/news/2018/10/5-page-turning-book-facts |access-date=28 April 2020 |website=[[Guinness World Records]] |language=en-GB |quote=78 crime novels have sold an estimated 2{{nbsp}}billion copies in 44 languages |archive-date=9 May 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20200509115438/https://www.guinnessworldrecords.com/news/2018/10/5-page-turning-book-facts/ |url-status=live }}</ref><ref>{{cite web |title=About Agatha Christie |url=http://www.agathachristie.com/about-christie |date=2020 |publisher=Agatha Christie Ltd |access-date=29 April 2020 |quote=Her books have sold over a billion copies in the English language and a billion in translation. |archive-date=7 December 2015 |archive-url=https://web.archive.org/web/20151207094654/http://www.agathachristie.com/about-christie/ |url-status=live }}</ref> Dựa theo chỉ số [[Index Translationum]], {{As of|2020|lc=y}}, Christie hiện là nhà văn cá nhân có số lượng tác phẩm dịch ở ngôn ngữ khác nhiều nhất.<ref name="UNESCO">{{cite web |author=UNESCO Statistics |title=Index Translationum – "Top 50" Author |url=http://www.unesco.org/xtrans/bsstatexp.aspx?crit1L=5&nTyp=min&topN=50 |access-date=29 April 2020 |work=Official website of UNESCO |publisher=[[United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization]] (UNESCO) |archive-date=12 June 2014 |archive-url=https://web.archive.org/web/20140612072938/http://www.unesco.org/xtrans/bsstatexp.aspx?crit1L=5&nTyp=min&topN=50 |url-status=live }}</ref><ref>{{cite web |title=Who is the world's most translated author? |url=https://thewordpoint.com/blog/worlds-most-translated-author |access-date=10 June 2020 |website=thewordpoint.com |date=23 May 2015 |language=en |archive-date=10 June 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20200610072031/https://thewordpoint.com/blog/worlds-most-translated-author |url-status=live }}</ref>

Không chỉ là một tác gia ăn khách, Agatha Christie còn là gương mặt nổi bật tại các thư viện ở nước Anh với số lượng sách mượn nhiều nhất.<ref>{{cite web |title=List:The most borrowed library books and authors in UK 2011–2012 Children's library borrowing continues to increase |url=https://www.infodocket.com/2013/02/08/list-the-most-borrowed-library-books-in-uk-2011-2012-childrens-library-borrowing-continues-to-increase/ |website=infodocket |date=8 February 2013 |access-date=2 October 2020 |archive-date=5 December 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20201205022150/https://www.infodocket.com/2013/02/08/list-the-most-borrowed-library-books-in-uk-2011-2012-childrens-library-borrowing-continues-to-increase/ |url-status=live }}</ref><ref>{{cite web |title=crime fiction steals top slot in UK library loans |url=https://www.theguardian.com/books/2016/feb/05/fiction-runs-away-with-uk-library-loans-lee-child |website=thegurdian |date=5 February 2016 |access-date=2 October 2020 |archive-date=29 June 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20200629105931/https://www.theguardian.com/books/2016/feb/05/fiction-runs-away-with-uk-library-loans-lee-child |url-status=live }}</ref><ref>{{cite news |title=Jacqueline Wilson most loaned author |url=http://news.bbc.co.uk/2/hi/entertainment/arts_and_culture/8512613.stm |website=bbc |date=12 February 2010 |access-date=3 October 2020 |archive-date=25 January 2021 |archive-url=https://web.archive.org/web/20210125140822/http://news.bbc.co.uk/2/hi/entertainment/arts_and_culture/8512613.stm |url-status=live }}</ref><ref>{{cite web |title=Sorry, Harry Potter – it is Danielle Steel who casts the greatest spell over UK library readers |url=https://inews.co.uk/news/harry-potter-danielle-steel-most-borrowed-uk-library-books-225966 |website=inews |date=23 November 2018 |access-date=3 October 2020 |archive-date=1 March 2021 |archive-url=https://web.archive.org/web/20210301015524/https://inews.co.uk/news/harry-potter-danielle-steel-most-borrowed-uk-library-books-225966 |url-status=live }}</ref> Chưa kể, bà còn dẫn đầu trong danh sách tác giả sách nói bán chạy nhất nước này. Năm 2002, số lượng sách nói mà Christie bán ra đạt 117.696 bản, bỏ xa [[J. K. Rowling]] với 97,755 bản, [[Roald Dahl]] với 78,770 bản và [[J. R. R. Tolkien]] với 75,841 bản.<ref>{{cite web |title=Agatha Christie Inspires Video Game |url=https://www.writerswrite.com/agatha-christie-inspires-video-game-102605177 |website=writerswrite |access-date=1 October 2020 |archive-date=28 October 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20201028122645/https://www.writerswrite.com/agatha-christie-inspires-video-game-102605177 |url-status=live }}</ref><ref>{{cite book |title=Best Sellers of All Time: Fiction |url=https://www.audible.com/ep/article-best-sellers-all-time-fiction?ipRedirectOverride=true&overrideBaseCountry=true&pf_rd_p=bac5e436-7dfa-47d0-b492-98f01c3a5af3&pf_rd_r=X3BWC4GT5652MSR17V3F |via=audible |access-date=1 October 2020 |archive-date=1 May 2021 |archive-url=https://web.archive.org/web/20210501105414/https://www.audible.com/ep/article-best-sellers-all-time-fiction?ipRedirectOverride=true&overrideBaseCountry=true&pf_rd_p=bac5e436-7dfa-47d0-b492-98f01c3a5af3&pf_rd_r=X3BWC4GT5652MSR17V3F |url-status=live }}</ref> Năm 2015, tổ chức đại diện của Christie tuyên bố ''Mười người da đen nhỏ'' là "tiểu thuyết trinh thám bán chạy nhất mọi thời đại"<ref>{{cite web |title=125 Years of Agatha Christie |url=https://www.agathachristie.com/about-christie/125-years-of-agatha-christie |website=The Home of Agatha Christie |language=en-US |access-date=3 May 2020 |archive-date=27 January 2021 |archive-url=https://web.archive.org/web/20210127200520/https://www.agathachristie.com/about-christie/125-years-of-agatha-christie |url-status=live }}</ref> với khoảng 100 triệu bản, đồng thời cũng án ngữ trong danh sách [[Danh sách sách bán chạy nhất|sách bán chạy nhất]].<ref name=":15"/><ref>{{cite news |last=McClurg |first=Jocelyn |date=18 May 2016 |title=Agatha Christie hits USA Today's list |work=[[USA Today]] |url=https://www.usatoday.com/story/life/books/2016/05/18/agatha-christie-and-then-there-were-none-fall-books-usa-today-best-selling-books/84500896/ |access-date=4 May 2020 |archive-date=4 July 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20200704022630/https://www.usatoday.com/story/life/books/2016/05/18/agatha-christie-and-then-there-were-none-fall-books-usa-today-best-selling-books/84500896/ |url-status=live }}</ref> Chỉ riêng năm 2020, sách của bà đã bán được hơn 2 triệu bản ở ngôn ngữ tiếng Anh.<ref>{{cite web |title=Agatha Christie mysteries are still raking in the cash a century on |url=https://www.marketplace.org/2020/09/28/agatha-christie-mysteries-still-raking-the-cash-100-years-later/ |website=marketplace.org |date=28 September 2020 |access-date=12 March 2021 |archive-date=24 January 2021 |archive-url=https://web.archive.org/web/20210124192602/https://www.marketplace.org/2020/09/28/agatha-christie-mysteries-still-raking-the-cash-100-years-later/ |url-status=live }}</ref>

== Di sản ==
[[File:St Martin's Theatre, Covent Garden, London -plaque-16March2010.jpg|thumb|Tấm biển kỉ niệm đặt tại West End nhằm vinh danh ''The Mousetrap'', vở kịch có thời gian công diễn dài nhất thế giới.]]
Vào năm 2016, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ra mắt tác phẩm trinh thám đầu tiên của Agatha Christie, [[Bưu điện Hoàng gia Anh]] (Royal Mail) đã cho phát hành bộ tem bưu chính hạng nhất mang hình ảnh 6 tác phẩm nổi tiếng của bà: ''Vụ án bí ẩn ở Styles'', ''Vụ ám sát ông Roger Ackroyd'', ''Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông'', ''Mười người da đen nhỏ'', ''The Body in the Library'' và ''Cái chết được báo trước''. Ấn phẩm ''[[The Guardian]]'' bình luận rằng: "Mỗi mẫu thiết kế tem đều chứa các [[chữ in siêu nhỏ]], [[Mực vô hình|mực UV]] và [[mực thermochromic]]. Những manh mối ẩn giấu này có thể được phát hiện thông qua kính lúp, [[Tử ngoại|đèn UV]] hoặc bằng nhiệt độ cơ thể, qua đó gợi ý những phương pháp giải quyết các bí ẩn trong tác phẩm."<ref>{{cite news |last=Flood |first=Alison |date=15 September 2016 |title=New Agatha Christie stamps deliver hidden clues |work=[[The Guardian]] |location=London |url=https://www.theguardian.com/books/2016/sep/15/new-agatha-christie-stamps-deliver-hidden-clues |access-date=10 April 2020 |archive-date=6 August 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20200806191428/https://www.theguardian.com/books/2016/sep/15/new-agatha-christie-stamps-deliver-hidden-clues |url-status=live }}</ref><ref>{{cite web |title=Royal Mail issues Special Stamps to celebrate Agatha Christie |url=https://www.agathachristie.com/news/2016/royal-mail-issues-special-stamps-to-celebrate-agatha-christie |access-date=4 May 2020 |website=The Home of Agatha Christie |date=15 September 2016 |language=en-US |archive-date=8 March 2021 |archive-url=https://web.archive.org/web/20210308134551/https://www.agathachristie.com/news/2016/royal-mail-issues-special-stamps-to-celebrate-agatha-christie |url-status=live }}</ref>

Ngoài ra, hình ảnh của Agatha Christie và các nhân vật của bà cũng xuất hiện trên tem bưu chính của nhiều quốc gia như [[Dominica]] hay [[Cộng hòa Somalia]].<ref>{{cite web |date=7 October 2017 |title=Agatha Christie Postage Stamps, 1996–2016 |url=https://www.literaryladiesguide.com/gallery/agatha-christie-postage-stamps-1996-2016/ |access-date=5 September 2020 |website=literaryladiesguide |archive-date=13 August 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20200813001109/https://www.literaryladiesguide.com/gallery/agatha-christie-postage-stamps-1996-2016/ |url-status=live }}</ref> Năm 2020, để kỷ niệm 100 năm ra đời tiểu thuyết đầu tiên của bà, ''Vụ án bí ẩn ở Styles'', [[Xưởng đúc tiền Hoàng gia Anh]] lần đầu tiên đã cho phát hành đồng 2 bảng có hình ảnh của Christie.<ref>{{cite web |date=January 2020 |title=New coins 2020 celebrate Agatha Christie Tokyo Olympians George III VE day |url=https://www.theguardian.com/money/2020/jan/01/new-coins-2020-celebrate-agatha-christie-tokyo-olympians-george-iii-ve-day |access-date=5 September 2020 |website=thegurdian |archive-date=14 August 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20200814000052/https://www.theguardian.com/money/2020/jan/01/new-coins-2020-celebrate-agatha-christie-tokyo-olympians-george-iii-ve-day |url-status=live }}</ref>

Vào năm 2023, tại Wallingford, người ta đã cho đúc một bức tượng đồng có kích thước thật, mô tả hình ảnh Agatha Christie đang ngồi trên ghế đá công viên, trên tay cầm một cuốn sách.<ref>Ella Creamer. "[https://www.theguardian.com/books/2023/sep/11/agatha-christie-statue-takes-seat-on-bench-in-oxfordshire-town Agatha Christie statue takes seat on bench in Oxfordshire town]". ''The Guardian'', 11 September 2023.</ref>

=== Tác phẩm chuyển thể ===

{{Main|Tác phẩm chuyển thể của Agatha Christie}}

Các tác phẩm của Agatha Christie đã được chuyển thể thành nhiều phim điện ảnh và phim truyền hình khác nhau. Trong đó, tác phẩm chuyển thể đầu tiên là ''[[The Passing of Mr. Quin]]'' ra mắt năm 1928. Tác phẩm đầu tiên có sự xuất hiện của thám tử Poirot là bộ phim ''[[Alibi (phim 1931)|Alibi]]'', với sự tham gia diễn xuất của [[Austin Trevor]].<ref name=":13">{{cite book |last=Palmer |first=Scott |title=The Films of Agatha Christie |publisher=[[Pavilion Books|B.T. Batsford Ltd]] |year=1993 |isbn=0-7134-7205-7 |location=London}}</ref>{{Rp|14–18}} Trong những năm 1960, [[Margaret Rutherford]] đảm nhiệm vai diễn bà Marple trong một loạt phim điện ảnh. Dù đánh giá cao diễn xuất của Rutherford, song Christie cho rằng bộ phim đầu tiên trong số này "quá tệ", trong khi những bộ phim kế tiếp lại chẳng khá khẩm hơn là bao.<ref name="thompson" />{{Rp|430–31}} Tuy nhiên, ấn tượng của bà thay đổi hoàn toàn khi bộ phim ''[[Murder on the Orient Express (phim 1974)|Murder on the Orient Express]]'', do [[Sidney Lumet]] làm đạo diễn ra mắt năm 1974. Bộ phim quy tụ dàn diễn viên đình đám, với sự đầu tư chỉn chu và hoành tráng. Sự xuất hiện của Christie tại buổi công chiếu bộ phim ở Luân Đôn cũng là một trong những lần xuất hiện cuối cùng trước công chúng cuối cùng của bà.<ref name="thompson" />{{Rp|476, 482}}<ref name=":13" />{{Rp|57}} Năm 2017, một [[Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông (phim 2017)|bộ phim điện ảnh mới của tác phẩm này]] ra mắt, do [[Kenneth Branagh]] đạo diễn kiêm diễn viên chính, với "bộ ria mép ấn tượng nhất mà khán giả từng thấy trên màn ảnh".<ref>{{cite web |last=Debruge |first=Peter |date=2 November 2017 |title=Film Review: 'Murder on the Orient Express' |url=https://variety.com/2017/film/reviews/murder-on-the-orient-express-review-1202605173/ |access-date=10 April 2020 |website=[[Variety (magazine)|Variety]] |archive-date=24 April 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20200424095929/https://variety.com/2017/film/reviews/murder-on-the-orient-express-review-1202605173/ |url-status=live }}</ref> Sau tác phẩm này, Branagh tiếp tục bắt tay vào thực hiện hai bộ phim chuyển thể khác. Bộ phim đầu tiên là ''[[Án mạng trên sông Nile (phim 2022)|Án mạng trên sông Nile]]'' (2022), lấy cảm hứng từ tiểu thuyết nổi tiếng cùng tên và phần kế tiếp ''[[Án mạng ở Venice]]'' (2023), dựa trên tiểu thuyết ''[[Ngày hội quả bí]]'' xuất bản năm 1969.<ref>{{Cite web |last=Wiseman |first=Andreas |date=October 1, 2019 |title=Fox & Kenneth Branagh's All-Star Agatha Christie Movie 'Death On The Nile' Begins Production In UK |url=https://deadline.com/2019/10/death-nile-movie-agatha-christie-begins-production-uk-1202749028/ |url-status=live |archive-url=https://web.archive.org/web/20191002133821/https://deadline.com/2019/10/death-nile-movie-agatha-christie-begins-production-uk-1202749028/ |archive-date=October 2, 2019 |access-date=1 November 2023 |website=[[Deadline Hollywood]]}}</ref><ref>{{Cite magazine |last=Vlessing |first=Etan |date=2023-07-19 |title=Kenneth Branagh Battles Supernatural Forces in 'Haunting in Venice' Trailer |url=https://www.hollywoodreporter.com/movies/movie-news/kenneth-branagh-haunting-in-venice-trailer-1235539800/ |access-date=1 November 2023 |magazine=[[The Hollywood Reporter]]}}</ref>

Bộ phim truyền hình ''[[Agatha Christie's Poirot]]'' (1989–2013), với sự tham gia đóng chính của [[David Suchet]] đã trải qua 13 mùa với 70 tập phim. Tác phẩm nhận được chín đề cử giải [[Viện Hàn lâm Nghệ thuật Điện ảnh và Truyền hình Anh Quốc|BAFTA]] và giành chiến thắng bốn trong số chín đề cử trong giai đoạn 1990–1992.<ref>{{cite web |url=http://awards.bafta.org/keyword-search?keywords=poirot |title=BAFTA Awards Database |work=BAFTA.org |url-status=live |archive-url=http://archive.wikiwix.com/cache/20130529070546/http://awards.bafta.org/keyword-search?keywords=poirot |archive-date=29 May 2013 |access-date=10 April 2020}}</ref> Ngoài ra, trọn bộ 12 tác phẩm về bà Marple cũng được chuyển thể thành loạt phim truyền hình ''[[Miss Marple (phim truyền hình)|Miss Marple]]'' (1984–1992) do [[Joan Hickson]] thủ vai chính, với lời nhận định là "bà Marple hoàn hảo của BBC".<ref name="thompson"/>{{Rp|500}} Bên cạnh đó, 36 tác phẩm của Christie cũng trở thành nguồn cảm hứng cho loạt phim truyền hình Pháp {{Lang|fr|[[Les Petits Meurtres d'Agatha Christie]]}} (2009–2012, 2013–2020).<ref>{{cite web |title=Les Petits Meurtres d'Agatha Christie |url=https://www.agathachristie.com/film-and-tv/les-petits-meurtres-dagatha-christie |website=The Home of Agatha Christie |language=en-US |access-date=3 May 2020 |archive-date=10 April 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20200410201059/https://www.agathachristie.com/film-and-tv/les-petits-meurtres-dagatha-christie |url-status=live }}</ref><ref>{{cite web |title=Les petits meurtres d'Agatha Christie |url=https://www.france.tv/france-2/les-petits-meurtres-d-agatha-christie/ |access-date=3 May 2020 |website=[[France Télévisions|France TV]] |language=fr |archive-date=22 December 2019 |archive-url=https://web.archive.org/web/20191222055412/https://www.france.tv/france-2/les-petits-meurtres-d-agatha-christie/ |url-status=live }}</ref>

Ngoài ra, sáng tác của Christie còn là đề tài cho các ấn phẩm truyền thanh trên [[BBC Radio]], [[Agatha Christie (video game series)|trò chơi điện tử]] và cả những tiểu thuyết đồ họa khác.<ref>{{cite web |title=BBC Radio 4 Extra – Hercule Poirot – Episode guide |url=https://www.bbc.co.uk/programmes/b03js5pl/episodes/guide |access-date=5 May 2020 |website=[[BBC]] |language=en-GB |archive-date=8 March 2021 |archive-url=https://web.archive.org/web/20210308150251/https://www.bbc.co.uk/programmes/b03js5pl/episodes/guide |url-status=live }}</ref><ref>{{cite web |title=BBC Radio 4 Extra – Miss Marple – Episode guide |url=https://www.bbc.co.uk/programmes/b03p87br/episodes/guide |access-date=5 May 2020 |website=BBC |language=en-GB |archive-date=9 March 2021 |archive-url=https://web.archive.org/web/20210309054615/https://www.bbc.co.uk/programmes/b03p87br/episodes/guide |url-status=live }}</ref><ref>{{cite web |title=Games |url=https://www.agathachristie.com/games |website=The Home of Agatha Christie |language=en-US |access-date=5 May 2020 |archive-date=26 April 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20200426051701/https://www.agathachristie.com/games |url-status=live }}</ref><ref>{{cite web |title=Agatha Christie Graphic Novels Series |url=https://www.goodreads.com/series/61511-agatha-christie-graphic-novels |website=goodreads |access-date=5 May 2020 |archive-date=8 March 2021 |archive-url=https://web.archive.org/web/20210308125311/https://www.goodreads.com/series/61511-agatha-christie-graphic-novels |url-status=live }}</ref>


== Tác phẩm ==
== Tác phẩm ==
Dòng 387: Dòng 616:
* 1977, "Agatha Christie: An Autobiography"
* 1977, "Agatha Christie: An Autobiography"


== Tham khảo ==
== Chú thích ==
=== Ghi chú ===
{{Notelist}}
=== Tham khảo ===
{{Tham khảo}}
{{Tham khảo}}

== Thư mục ==
{{div col}}
* {{Citation |author-link = Amanda Adams |last=Adams |first=Amanda |year=2010 |title = Ladies of the Field: Early Women Archaeologists and Their Search for Adventure |url = https://books.google.com/books?id=eFe9BwAAQBAJ |place=Vancouver |publisher=[[Douglas & McIntyre]] |isbn=978-1-55365-433-9 }}.
* {{cite web |title = Agatha Christie – the explorer & archaeologist |url = http://agathachristie.com/cms-media/assets/PR_-_Agatha_Christie_-_the_Explorer.pdf |publisher = Agatha Christie Limited |access-date=1 March 2012 |url-status=dead |archive-url = https://web.archive.org/web/20091007221242/http://www.agathachristie.com/cms-media/assets/PR_-_Agatha_Christie_-_the_Explorer.pdf |archive-date=7 October 2009 }}
* Bernthal, J.C. (2022). ''Agatha Christie: A Companion to the Mystery Fiction.'' Jefferson, NC: [[McFarland & Company|McFarland]]. {{ISBN|9781476676203|}}.
* Curran, John (2009). ''Agatha Christie's Secret Notebooks: Fifty Years of Mysteries in the Making''. London: [[HarperCollins]]. {{ISBN|978-0-06-200652-3|}}.
* Curran, John (2011). [https://books.google.com/books?id=5MTS-U9F9qsC ''Agatha Christie: Murder in the Making'']. London: [[HarperCollins]]. {{ISBN|978-0062065445|}}.
* Curran, John. [https://www.agathachristie.com/about-christie/christie-experts/john-curran-75-facts-about-christie "75 facts about Christie"]. ''The Home of Agatha Christie''. Agatha Christie Limited. Retrieved 21 July 2017.
* Gerald, Michael C. (1993). ''The Poisonous Pen of Agatha Christie''. Austin, Texas: [[University of Texas Press]]. {{ISBN|978-0292728646}}.
* {{Citation |last=Holtorf |first=Cornelius |year=2007 |title = Archaeology is a Brand! The meaning of archaeology in contemporary popular culture |url = https://books.google.com/books?id=9YKjaVzqfP8C |location = Oxford, England |publisher=[[Archaeopress]] |isbn=978-1598741797 }}.
* {{cite magazine |last=Lubelski |first=Amy |title = Museums: In the Field with Agatha Christie |magazine=[[Archaeology (magazine)|Archaeology]] |date=March–April 2002 |volume=55 |issue=2 |url = http://www.archaeology.org/0203/reviews/christie.html |access-date = 28 April 2020 }}
* {{Citation |title = Agatha Christie: An Autobiography |url = https://books.google.com/books?id=Kk-LAEHExtkC |last=Mallowan |first=Agatha Christie |year=1977 |publisher=[[Dodd, Mead & Company|Dodd, Mead & Co]] |location=New York City |isbn=0-396-07516-9}}.
* {{Citation |isbn=0-553-35049-8 |title=Come, Tell Me How You Live |first=Agatha Christie |last=Mallowan |place=Toronto, New York City |publisher=[[Bantam Books]] |year=1985 |url=https://archive.org/details/cometellmehowyou0000mall}}.
* Morgan, Janet P. (1984). [https://books.google.com/books?id=kl2HDgAAQBAJ ''Agatha Christie: A Biography'']. London: [[HarperCollins]]. {{ISBN|978-0-00-216330-9}}. Retrieved 8 March 2015.
* Prichard, Mathew (2012). ''The Grand Tour: Around The World With The Queen Of Mystery''. New York, NY: [[HarperCollins]]. {{ISBN|978-0-06-219122-9}}.
* {{Citation |title=The New Bedside, Bathtub & Armchair Companion to Agatha Christie |year=1993 |orig-date=1979 |publisher=Ungar Pub Co |isbn=9780804467254 |editor-last=Riley |editor-first=Dick |editor2-last=McAllister |editor2-first=Pam}}
* {{cite journal |author1-link = Michael Roaf |last1=Roaf |first1=Michael |first2=Robert |last2=Killick |year=1987 |title = A Mysterious Affair of Styles: The Ninevite 5 Pottery of Northern Mesopotamia |journal=[[British Institute for the Study of Iraq|Iraq]] |volume=49 |pages=199–230 |doi=10.2307/4200273 |jstor=4200273 |s2cid=193083936 }}
* {{Citation |last=Thomas |first = W. G. |title = Murder in Mesopotamia: Agatha Christie and Archaeology |url = http://www.gwthomas.org/murderinmeso.htm |url-status=dead |archive-url = https://archive.today/20130414235457/http://www.gwthomas.org/murderinmeso.htm |archive-date = 14 April 2013 |df=dmy-all }}.
* Thompson, Laura (2008), [https://books.google.com/books?id=pyWqDwAAQBAJ ''Agatha Christie: An English Mystery''], London: [[Headline Publishing Group|Headline Review]], {{ISBN|978-0-7553-1488-1}}.
* {{cite web |title = Travel and Archaeology |url = http://agathachristie.com/about-christie/travel-and-archeology/ |publisher=Agatha Christie Limited |access-date=29 February 2012 |url-status=dead |archive-url = https://web.archive.org/web/20081009185216/http://www.agathachristie.com/about-christie/travel-and-archeology/ |archive-date=9 October 2008}}
{{div col end}}


== Liên kết ngoài ==
== Liên kết ngoài ==
{{Sister project links | wikt = no | c = :Category:Agatha Christie | n = no | q = Agatha Christie | s = Author:Agatha Mary Clarissa Christie | author = no | b = no | v = no}}
* [http://www.agathachristie.com/ Trang web chính thức của Agatha Christie]
{{Library resources box
* [http://www.gutenberg.org/author/Agatha+Christie Agatha Christie trên Project Gutenberg]
| onlinebooksby = yes
| by = yes
| viaf = 71388952
| label = Agatha Christie}}
* {{Official website}}
* [https://storage.googleapis.com/agatha-christie-assets/archive/pdfs/christie-reading-list.pdf A Christie reading list] (on official website)
* {{IMDb name}}
* {{StandardEbooks|Standard Ebooks URL=https://standardebooks.org/ebooks/agatha-christie}}
* {{Gutenberg author}}
* {{Internet Archive author}}
* {{OL author}}
* [http://oxonblueplaques.org.uk/plaques/christie.html Agatha Christie/Sir Max Mallowan's] [[blue plaque]] at Cholsey
* [https://web.archive.org/web/20070115120530/https://www.pbs.org/wgbh/mystery/marple/christie.html Agatha Christie profile on PBS.org]
* [http://www.famousauthors.org/agatha-christie Agatha Christie profile on FamousAuthors.org]
* [http://www.iwm.org.uk/collections/item/object/80000490 Agatha Christie recording, oral history] at the [[Imperial War Museum]]
* [http://lib-archives.ex.ac.uk/Record.aspx?&id=EUL+MS+99 Agatha Christie business papers] at the [[University of Exeter]]
* [https://www.vowelor.com/book/shocking-real-murders-agatha-christie-review/ "Shocking Real Murders"] (book released to mark the 125th anniversary of Christie's birth)
* [http://www.poirot.us/disappear.php Hercule Poirot Central]
*{{Curlie|Arts/Literature/Genres/Mystery/Authors/C/Christie%2C_Agatha}}



{{Agatha Christie}}
{{Agatha Christie}}

Phiên bản lúc 14:06, ngày 14 tháng 2 năm 2024

Dame

Agatha Christie

Chân dung Christie ở độ tuổi trung niên
Christie vào năm 1958
SinhAgatha Mary Clarissa Miller
(1890-09-15)15 tháng 9 năm 1890
Torquay, Devon, Anh
Mất12 tháng 1 năm 1976(1976-01-12) (85 tuổi)
Winterbrook House, Wallingford, Oxfordshire, Anh
Nơi an tángNghĩa trang St Mary, Cholsey, Oxfordshire
Bút danhMary Westmacott
Nghề nghiệp
  • Tiểu thuyết gia
  • nhà văn viết truyện ngắn
  • nhà viết kịch
  • nhà thơ
  • người viết hồi ký
Thể loại
  • Bí ẩn giết người
  • trinh thám
  • điều tra tội phạm
  • giật gân
Trào lưuThời đại hoàng kim của truyện trinh thám viễn tưởng
Tác phẩm nổi bật
Con cáiRosalind Hicks
Thân nhânJames Watts (cháu trai)

Chữ ký
Trang web
agathachristie.com

Dame Agatha Mary Clarissa Christie, Lady Mallowan, DBE (nhũ danh Miller; 15 tháng 9 năm 1890 – 12 tháng 1 năm 1976) là một nữ văn sĩ người Anh nổi tiếng với 66 tiểu thuyết trinh thám cùng 14 bộ sưu tập truyện ngắn, xoay quanh các nhân vật thám tử là Hercule PoirotBà Marple. Bà cũng là người biên soạn vở kịch The Mousetrap, vở kịch có thời lượng dài nhất thế giới tính đến thời điểm hiện tại, kể từ khi nó bắt đầu được công diễn tại West End năm 1952. Là một nhà văn của "thời kỳ hoàng kim của truyện trinh thám viễn tưởng", Agatha Christie được coi là "nữ hoàng trinh thám". Ngoài ra, bà cũng sáng tác tiểu thuyết dưới bút danh Mary Westmacott. Vào năm 1971, Agatha Christie được Nữ vương Elizabeth II phong tước Quý bà (DBE) vì những cống hiến của bà trong lĩnh vực văn chương. Sách kỷ lục Guinness cũng xếp Agatha Christie vào danh sách nhà văn có tác phẩm bán chạy nhất mọi thời đại, với hơn 2 tỉ bản các tác phẩm được bán ra trên toàn cầu.

Agatha Christie sinh ra trong một gia đình giàu có thuộc tầng lớp thượng trung lưuTorquay, Devon. Phần lớn thời gian thời niên thiếu bà được giáo dục tại nhà. Thời gian đầu, việc sáng tác của bà không mấy tốt đẹp khi có đến 6 lần liên tiếp bà bị các nhà xuất bản từ chối, nhưng mọi chuyện đã thay đổi vào năm 1920 khi bà xuất bản cuốn tiểu thuyết Vụ án bí ẩn ở Styles, với nhân vật chính là Hercule Poirot. Người chồng đầu tiên của Agatha Christine là Archibald Christie. Họ kết hôn vào năm 1914, có với nhau một đứa con chung trước khi cả hai ly dị vào năm 1928. Năm 1926, Agatha Christine trở thành chủ đề gây sốt trên trang nhất các phương tiện truyền thông quốc tế khi mất tích 11 ngày, sau một khoảng thời gian vật lộn với cuộc hôn nhân tan vỡ và phải đối mặt với cái chết của mẹ mình. Trong hai cuộc chiến tranh thế giới, bà phục vụ trong các phòng phát thuốc ở bệnh viện. Tại đó, Agatha Christine tích lũy được kiến thức sâu rộng về các độc chất. Những kiến thức đó sau này đã đi vào trong các trang sách của nhiều cuốn tiểu thuyết, truyện ngắn và nhiều vở kịch khác nhau của bà. Sau khi kết hôn với nhà khảo cổ học Max Mallowan vào năm 1930, Agatha Christine đã dành vài tháng mỗi năm tham gia các hoạt động nghiên cứu, khai quật khảo cổ ở vùng Trung Đông và dùng những kiến thức đã tích lũy được vào quá trình sáng tác tác phẩm của mình.

Dựa theo chỉ số Index Translationum của tổ chức UNESCO, Agatha Christine hiện vẫn là nhà văn cá nhân có số lượng tác phẩm được dịch sang ngôn ngữ khác nhiều nhất.[1] Trong đó, tác phẩm Mười người da đen nhỏ của bà nằm trong danh sách những tác phẩm bán chạy nhất mọi thời đại, với xấp xỉ 100 triệu bản được bán ra. Vở kịch The Mousetrap do bà biên soạn cũng giữ kỷ lục thế giới cho vở kịch có thời gian công diễn lâu nhất trong lịch sử, ra mắt lần đầu tại rạp Ambassadors Theatre tại West End ngày 25 tháng 11 năm 1952 và vẫn tiếp tục được công diễn cho đến ngày nay. Tính đến năm 2018, vở kịch này đã có hơn 27.500 buổi diễn. Năm 2020, dưới tác động của lệnh phong tỏa do đại dịch COVID-19, việc công diễn tại Luân Đôn tạm thời phải hoãn lại cho đến năm 2021.

Vào năm 1955, Agatha Christie trở thành người đầu tiên nhận giải Grand Master của Hội nhà văn trinh thám Hoa Kỳ. Cuối năm đó, tác phẩm Witness for the Prosecution cũng đã nhận giải Edgar cho tác phẩm kịch xuất sắc nhất. Năm 2013, 600 nhà văn chuyên nghiệp thuộc Hiệp hội Nhà văn Tội phạm Anh đã bầu chọn Agatha Christie là nhà văn tội phạm xuất sắc nhất và cuốn tiểu thuyết Vụ ám sát ông Roger Ackroyd của bà cũng được xướng danh là tác phẩm viết về đề tài tội phạm xuất sắc nhất. Đến năm 2015, trong một cuộc bình chọn trên trang web đại diện cho Agatha Christie, tác phẩm Mười người da đen nhỏ được liệt vào danh sách "World's Favourite Christie" (danh sách những tác phẩm được yêu thích nhất của bà).[2] Phần lớn các tiểu thuyết và truyện ngắn của bà đều đã được chuyển thể thành phim truyền hình, truyền tranh trên radio, chuyển thể thành trò chơi điện tử và cả truyện tranh. Ngoài ra, hơn 30 tác phẩm của bà cũng được chuyển thể thành phim điện ảnh.

Cuộc đời và sự nghiệp

1890–1907: Thời thơ ấu và niên thiếu

Bức tranh với tiêu đề Lost in Reverie, do Douglas John Connah vẽ vào năm 1894, mô tả chân dung của Agatha Christie.

Agatha Mary Clarissa Miller sinh ngày 15 tháng 9 năm 1890 trong một gia đình thượng trung lưu giàu có ở Torquay, Devon. Bà là con út trong gia đình có ba anh chị em. Cha của bà là Frederick Alvah Miller, "một quý ông giàu có",[3] còn mẹ bà là Clarissa Margaret "Clara" Miller (nhũ danh Boehmer).[4]:1–4[5][6][7]

Clara, mẹ của Agatha Christie sinh năm 1854 tại Dublin,[a] là con gái của sĩ quan quân đội Anh Frederick Boehmer [10] và vợ là Mary Ann Boehmer (nhũ danh West). Frederick Boehmer qua đời ở Jersey vào năm 1863,[b] để lại người vợ phải một mình gồng gánh nuôi các con bằng nguồn thu nhập eo hẹp.[11][14]:10 Hai tuần sau cái chết của Boehmer, em gái Mary là Margaret West kết hôn với Nathaniel Frary Miller, một thương gia góa vợ người Mỹ chuyên buôn bán hàng may mặc.[15] Để hỗ trợ tài chính cho Mary, vợ chồng Nathaniel đồng ý nhận nuôi Clara, lúc bấy giờ mới 9 tuổi. Cả gia đình quyết định đến sống ở Timperley, Cheshire.[16] Hai người không có con chung, nhưng Nathaniel có một cậu con trai 17 tuổi tên Fred Miller, là kết quả từ cuộc hôn nhân trước đó của ông. Fred sinh ra tại New York, từng học tại một trường trung học nội trú ở Thụy Sĩ và du lịch ở nhiều nơi.[14]:12 Năm 1878, Fred và Clara kết hôn ở Luân Đôn.[4]:2–5[5] Năm 1879, đứa con đầu lòng của họ là Margaret Frary ("Madge") chào đời ở Torquay.[4]:6[17] Một năm sau, đứa con thứ hai là Louis Montant ("Monty") cũng chào đời ở Morristown, New Jersey[18] trong thời gian mà cả gia đình đang có một chuyến du lịch dài ở Mỹ.[12]:7

Khi bố của Fred qua đời vào năm 1869,[19] ông để lại cho vợ chồng Clara 2.000 bảng Anh (tương đương 200 nghìn bảng Anh thời giá năm 2021). Năm 1881, họ sử dụng số tiền này để thuê một căn biệt thự tại Torquay có tên là Ashfield.[20][21] Tại nơi này, đứa con thứ ba và đứa con út của họ (Agatha) lần lượt chào đời.[4]:6–7[7] Theo Christie, những năm tháng tuổi thơ của bà "vô cùng hạnh phúc".[12]:3 Gia đình Miller dành phần lớn thời gian sống tại Devon, nhưng Christie và gia đình cũng thường đến thăm bà ngại nuôi Margaret Miller tại Ealing và bà ngoại ruột Mary Boehmer tại Bayswater.[12]:26–31 Christie cũng dành một năm sống ở nước ngoài cùng gia đình tại các vùng Pyrénées, Paris, DinardGuernsey.[4]:15, 24–25 Vì nhỏ tuổi hơn nhiều so với những người anh chị em trong gia đình, cũng như xung quanh nơi bà sống không có nhiều trẻ con nên Christie dành hầu hết thời gian chơi một mình với thú cưng và những người bạn tưởng tượng của mình.[12]:9–10, 86–88 Cuối cùng thì bà cũng kết bạn với những cô gái khác ở Torquay, tham gia cùng họ trong một buổi biểu diễn dành cho thanh thiếu niên, nơi bà vào vai Đại tá anh hùng Fairfax trong vở The Yeomen of the Guard của Gilbert và Sullivan. Đó là trải nghiệm mà đối với Christie là "một trong những điểm đáng nhớ nhất trong suốt cuộc đời" của bà.[4]:23–27

Black-and-white portrait photograph of Christie as a girl
Agatha Christie những năm 1900, khi còn là một cô gái.

Theo lời Christie, mẹ bà tin rằng bà không nên học đọc trước năm 8 tuổi, nhưng vì sự tò mò của mình, bà đã biết đọc khi chỉ mới 4 tuổi.[12]:13 Bất chấp việc gửi người chị gái đến học tại một trường nội trú, mẹ Christie lại buộc bà phải học tại nhà. Dưới sự giám sát của bố mẹ và chị của mình, bà đã học đọc, viết và làm các phép toán cơ bản, một môn học mà bà yêu thích. Họ cũng dạy Christie học nhạc, vì vậy mà bà đã học chơi đàn piano và đàn mandolin.[4]:8, 20–21

Ngay từ khi còn nhỏ, Agatha Christie đã bộc lộ sở thích ham đọc sách. Những quyển sách đầu tiên mà bà đọc là những quyển sách thiếu nhi của Mrs MolesworthEdith Nesbit. Khi lớn hơn chút nữa, bà chuyển sang đọc các trang thơ siêu thực của Edward LearLewis Carroll.[4]:18–19 Đến tuổi thiếu niên, bà trở nên yêu thích các tác phẩm của Anthony Hope, Walter Scott, Charles DickensAlexandre Dumas.[12]:111, 136–37 Vào tháng 4 năm 1901, Christie viết bài thơ đầu tiên của mình là "The Cow Slip". Khi ấy bà chỉ mới 10 tuổi.[22]

Năm 1901, sức khỏe của cha Agatha Christie suy yếu vì ông tin rằng mình mắc một số vấn đề về tim mạch.[14]:33 Fred qua đời vào tháng 11 cùng năm vì bệnh viêm phổibệnh thận.[23] Sau này, Christie cho biết rằng cái chết của cha khi bà mới 11 tuổi đã đặt dấu chấm hết do những năm tháng tuổi thơ của bà.[4]:32–33

Vào thời điểm này, tình hình tài chính của gia đình bà bắt đầu trở nên tồi tệ hơn. Một năm sau cái chết của cha, người chị gái Madge kết hôn và chuyển đến sống cùng chồng ở Cheadle, Cheshire. Anh trai Monty thì vẫn đang ở nước ngoài, phục vụ trong một trung đoàn của quân đội Anh.[14]:43, 49 Christie phải sống một mình với mẹ tại Ashfield. Năm 1902, bà đến học tại trường dành cho nữ sinh của cô Guyer ở Torquay. Tuy nhiên, bà cảm thấy khó khăn trong việc thích nghi với bầu không khí nghiêm khắc và kỉ luật ở đó.[12]:139 Năm 1905, Clara gửi con gái mình đến Paris, theo học một loạt các pensionnat (trường nội trú) khác nhau ở Pháp, tập trung vào việc rèn luyện giọng hát và chơi đàn piano. Sau khi nhận thấy bản thân không có tố chất và tài năng để trở thành một nghệ sĩ piano hoặc một ca sĩ opera, Christie quyết định từ bỏ con đường đó.[14]:59–61

1907–1926: Những nỗ lực ban đầu, kết hôn và thành công trong lĩnh vực văn học

Sau khi hoàn thành việc học, Agatha Christie quay về Anh. Bà phát hiện mẹ mình đang gặp vấn đề về sức khỏe. Vì vậy, mùa đông 1907–1908, bà và mẹ quyết định đến sống tại vùng khí hậu ấm áp tại Ai Cập. Lúc bấy giờ, đây là điểm đến ưa thích của những người Anh giàu có.[12]:155–57 Mẹ con Christie dành ba tháng sống tại khách sạn Gezirah PalaceCairo. Tại đây, Christie tham gia vào nhiều buổi nhảy múa và các hoạt động xã hội khác. Bà đặc biệt ưa thích đến xem các trận đấu polo của các vận động viên nghiệp dư. Mặc dù Christie đã đến thăm một số di tích cổ đại của Ai Cập như Đại Kim tự tháp Giza, nhưng mãi đến nhiều năm sau, bà mới thể hiện sự quan tâm lớn đến lĩnh vực khảo cổ họcAi Cập học.[4]:40–41 Sau khi trở về Anh, bà tiếp tục tham gia các hoạt động xã hội, sáng tác và tham gia biểu diễn trong một vài vở kịch không chuyên. Cùng với những người bạn nữ của mình, bà cũng tham gia tổ chức vở kịch có tên là The Blue Beard of Unhappiness.[4]:45–47

Năm Christie tròn 18, bà sáng tác truyện ngắn đầu tay mang tên "The House of Beauty". Bà viết tác phẩm này trong quá trình điều trị hồi phục sau một căn bệnh. Nội dung tác phẩm chứa đựng khoảng 6.000 từ về "sự rồ dại và những giấc mơ", những đề tài mà Christie vốn rất say mê. Nhận xét về tác phẩm, nhà tiểu sử học Janet Morgan cho rằng bất chấp những "khuyết thiếu trong phong cách [sáng tác]", đây vẫn là một tác phẩm "hấp dẫn".[4]:48–49 Tác phẩm này sau này đã trở thành một phần của một tác phẩm đầy đủ hơn với tên "The House of Dreams".[24] Christie tiếp tục sáng tác một số tác phẩm khác. Hầu hết các tác phẩm này đều thể hiện sự quan tâm của bà đối với thế giới tâm linh và những điều dị thường. Trong số này có thể kể đến "The Call of Wings" và "The Little Lonely God". Christie đã gửi các bản thảo ban đầu của mình đến nhiều tạp chí khác nhau, dưới một vài bút danh như Mac Miller, Nathaniel Miller hay Sydney West, nhưng tất cả đều bị từ chối. Mặc dù vậy, sau này, nhiều bản thảo của bà đã được tái xét duyệt và phát hành bằng nhiều tiêu đề mới dưới tên thật của bà.[4]:49–50

Christie những năm 1910, khi còn là một cô gái trẻ.

Cũng trong thời gian này, dưới bút danh Monosyllaba, Agatha Christie bắt tay vào sáng tác cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Snow Upon the Desert. Tác phẩm lấy bối cảnh ở Cairo, chủ yếu dựa trên những trải nghiệm của bà trong thời gian sống ở đó. Tuy nhiên, bà đã trở nên thất vọng sau khi tác phẩm của mình bị sáu nhà xuất bản từ chối.[4]:50–51[25] Nhận thấy điều đó, Clara đã đề nghị con gái mình nên tham khảo ý kiến từ Eden Phillpotts, một nhà văn thành công và cũng vừa là bạn, vừa là hàng xóm của gia đình. Đáp lại yêu cầu đó, Phillpotts đã khuyến khích Christie viết lách, đồng thời giới thiệu cô đến với đại lý văn học của mình là Hughes Massie. Mặc dù từng từ chối tác phẩm Snow Upon the Desert, nhưng đại lý này đã đề xuất cho bà viết cuốn tiểu thuyết thứ hai.[4]:51–52

Trong lúc đó, Christie tích cực tham gia nhiều hơn vào các hoạt động xã hội. Bà tham gia vào các buổi tiệc tùng tại các ngôi nhà ở vùng quê, cưỡi ngựa, săn bắn, khiêu vũ và trượt patanh.[12]:165–66 Bà có mối quan hệ chóng vánh với bốn người đàn ông khác nhau và từng hứa hôn với một người đàn ông khác..[14]:64–67 Tháng 10 năm 1912, bà gặp gỡ Archibald "Archie" Christie tại một buổi khiêu vũ do vợ chồng Nam tước Clifford tổ chức ở Ugbrooke, cách Torquay khoảng 12 dặm (19 km). Archie là con trai của một luật sư phục vụ trong Cơ quan Dân sự Ấn Độ. Ngoài ra, ông cũng là một sĩ quan pháo binh của Hoàng gia Anh và từng được cắt cử đến Quân đoàn Không lực Hoàng gia Anh vào tháng 4 năm 1913.[26] Cả hai người nhanh chóng yêu nhau. Sau ba tháng kể từ cuộc gặp gỡ đầu tiên, Archie ngỏ lời cầu hôn và nhận được cái gật đầu đồng ý từ Agatha.[4]:54–63

Ảnh chụp Christie vào năm 1915, tại căn nhà thời thơ ấu của bà ở Ashfield, thời điểm bà đang là một y tá của Đội Cứu trợ tình nguyện Hội Chữ thập đỏ Anh Quốc.

Sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, tháng 8 năm 1914, Archie đến chiến đấu ở Pháp. Dịp Giáng sinh năm đó, Archie được phép về nhà. Cả hai cử hành hôn lễ tại Nhà nguyện Thánh Emmanuel, Clifton, Bristol, gần nhà bố mẹ Archie, vào đúng đêm vọng Lễ Giáng sinh.[27][28] Trong thời gian chiến tranh, Archie nhiều lần được thăng quân hàm và trở về Anh vào tháng 9 năm 1918 với tư cách là Đại tá Bộ Không quân Anh. Trong khi đó, Agatha tham gia vào chiến trường với vai trò thành viên của Đội Cứu trợ tình nguyện của Hội Chữ thập đỏ Anh Quốc. Từ tháng 10 năm 1914 đến tháng 5 năm 1915, rồi sau đó là từ tháng 6 năm 1916 đến tháng 9 năm 1918, bà đã dành tổng cộng 3.000 giờ làm việc tại Bệnh viện Chữ thập đỏ Torquay. Ban đầu, bà làm việc như một y tá không lương. Đến năm 1917, sau khi đủ tiêu chuẩn trở thành trợ lý cấp phát thuốc, bà trở thành nhân viên phát thuốc tại bệnh viện với mức lương 16 bảng Anh/năm.[4]:69[29] Tháng 9 năm 1918, bà dừng phục vụ trong cuộc chiến sau khi Archie quay trở lại Luân Đôn. Họ thuê một căn hộ ở St. John's Wood và sống ở đó.[4]:73–74

Từ lâu, Agatha Christie đã là một fan hâm mộ của thể loại tiểu thuyết trinh thám. Bà thích đọc The Woman in WhiteThe Moonstone của Wilkie Collins cũng như các tác phẩm đầu tiên trong bộ truyện Sherlock Holmes của văn hào Arthur Conan Doyle. Năm 1916, Christie sáng tác cuốn tiểu thuyết trinh thám đầu tay mang tên Vụ án bí ẩn ở Styles, kể về nhân vật Hercule Poirot, một cựu sĩ quan cảnh sát người Bỉ với "bộ ria mép rất cừ" và một cái đầu "giống hệt như hình quả trứng",[30]:13 sống lưu vong ở Anh sau khi Đức xâm lược Bỉ. Đây là nhân vật mà Christie lấy cảm hứng từ chính những người tị nạn Bỉ sống tại Torquay và các binh sĩ Bỉ mà bà giúp đỡ trong thời gian làm y tá tình nguyện trong chiến tranh thế giới thứ nhất.[4]:75–79[31]:17–18 Không may, hai nhà xuất bản là Hodder & StoughtonMethuen đã từ chối bản thảo của bà. Sau khi giữ bản thảo trong vài tháng, John Lane từ nhà xuất bản The Bodley Head hứa hẹn sẽ chấp nhận xuất bản, với điều kiện Christie phải thay đổi cách mà những bí ẩn trong cuốn tiểu thuyết được làm sáng tỏ. Bà chấp thuận với đề nghị này, đồng thời ký một bản hợp đồng với điều khoản cho phép nhà xuất bản này chịu trách nhiệm phát hành năm quyển tiểu thuyết tiếp theo. Tuy nhiên sau này, Christie cảm thấy dường như bà đã bị lợi dụng.[4]:79, 81–82 Tác phẩm Vụ án bí ẩn ở Styles ra mắt độc giả năm 1920.[22]

Black-and-white photograph of three men in suits and one woman seated in a room and looking at an open newspaper
Từ trái sang phải: Archie Christie, Ernest Belcher (người dẫn đoàn), thư ký Bates và Agatha Christie trong tour du lịch thám hiểm Đế quốc Anh năm 1922

Tháng 8 năm 1919, tại Ashfield, Christie hạ sinh đứa con đầu lòng và cũng là đứa con duy nhất của bà, Rosalind Margaret Clarissa (sau khi kết hôn đổi họ thành Hicks).[4]:79[14]:340, 349, 422 Khi chiến tranh kết thúc, Archie rời lực lượng không quân và chuyển sang làm việc trong lĩnh vực tài chính tại Thành phố Luân Đôn với đồng lương ít ỏi. Bên cạnh đó, họ cũng thuê một người giúp việc cho gia đình.[4]:80–81 Năm 1922, The Bodley Head cho phát hành cuốn tiểu thuyết thứ hai của Christie mang tên Địch thủ bí mật. Nhân vật chính lần này là bộ đôi thám tử Tommy và Tuppence. Bà đã nhận được 50 bảng Anh tiền nhuận bút cho tác phẩm này. Sau cuốn tiểu thuyết thứ hai, cuốn tiểu thuyết thứ ba Vụ giết người trên sân gôn ra đời, tiếp tục theo chân nhân vật thám tử Poirot. Ngoài tiểu thuyết Vụ giết người trên sân gôn, kể từ năm 1923, bà cũng viết nhiều truyện ngắn khác có sự xuất hiện của nhân vật thám tử Poirot cho tạp chí The Sketch, dưới sự yêu cầu từ biên tập viên Bruce Ingram.[4]:83 Kể từ thời điểm đó, việc Christie bán các tác phẩm của mình đã trở nên thuận lợi hơn.[30]:33

Năm 1922, gia đình Christie tham gia vào một chuyến du lịch vòng quanh thế giới, với mục đích quảng bá cho Triển lãm Đế quốc Anh. Chuyến du lịch do Thiếu tá Ernest Belcher dẫn đầu. Sau khi để lại đứa con gái cho mẹ và chị gái chăm sóc, Agatha cùng chồng chu du trong 10 tháng qua nhiều vùng đất khác nhau như Nam Phi, Úc, New Zealand, HawaiiCanada.[4]:86–103[32] Ở Nam Phi, họ học lướt sóng bằng cách nằm sấp, nhưng khi đến Waikiki, họ đã có thể vừa đứng vừa lướt sóng, qua đó trở thành những người Anh đầu tiên có thể làm được điều này. Vì vậy họ quyết định dành thêm ba tháng tiếp theo ở đó để học lướt sóng.[33][34] Bảo tàng Lướt sóng Anh Quốc đã ghi lại cảm nhận của bà khi nhắc đến bộ môn này như sau: "Ôi đúng là thiên đường! Không có gì tuyệt vời hơn việc lao vút qua dòng nước như thể [bạn đang di chuyển] với vận tốc hai trăm dặm một giờ. Đó là một trong những thú vui thể chất tuyệt vời nhất mà tôi từng biết."[35]

Khi quay trở về Anh, Archie tiếp tục công việc của mình trong thành phố, còn Christie chăm chỉ sáng tác. Sau một thời gian sống trong nhiều căn hộ khác nhau ở Luân Đôn, cuối cùng đôi vợ chồng cũng có thể mua một căn nhà ở Sunningdale, Berkshire. Họ quyết định đổi tên căn nhà thành "Styles", theo tên của căn biệt thự trong tiểu thuyết đầu tiên của Christie.[4]:124–25[14]:154–55

Tháng 4 năm 1926, mẹ của Christie, Clarissa Miller qua đời. Nỗi mất mát quá lớn khiến Christie rơi vào trầm cảm nặng, vì cả hai từng vô cùng thân thiết.[14]:168–72 Đến tháng 8 cùng năm, báo chí loan tin Christie đã chuyển đến một ngôi làng gần Biarritz để phục hồi sau "cơn suy sụp" gây ra bởi "làm việc quá sức".[36]

1926: Mất tích

Newspaper article with portraits of Agatha and Archie Christie
Ảnh chụp một trang của tờ báo Daily Herald phát hành ngày 15 tháng 12 năm 1926, đưa tin về việc Christie đã được tìm thấy. Sau khi mất tích 11 ngày, người ta đã tìm thấy bà ở khách sạn Swan Hydropathic, Harrogate, Yorkshire.

Tháng 8 năm 1926, Archie đòi ly hôn với Agatha sau khi có tình cảm với Nancy Neele, một người bạn của Đại tá Belcher.[14]:173–74 Vào ngày 3 tháng 12 năm 1926, cặp đôi cãi nhau sau khi Archie thông báo sẽ dành cuối tuần cùng bạn bè mà không đưa vợ đi cùng. Tối muộn ngày hôm đó, Christie biến mất khỏi ngôi nhà ở Sunningdale. Sáng hôm sau, người ta phát hiện chiếc xe hơi hiệu Morris Cowley của bà đậu trên một mỏ đá vôi ở Newlands Corner, Surrey, bên trong là giấy phép lái xe hết hạn và một vài bộ quần áo.[37][38] Người ta lo sợ rằng bà có thể đã trầm mình xuống hồ Silent Pool, một địa điểm tham quan gần đó.[39]

Vụ mất tích nhanh chóng trở thành câu chuyện nổi bật trên khắp các mặt báo. Báo chí như vớ được vàng, nhanh chóng tìm cách làm hài lòng những độc giả vốn đang "thèm khát những tin giật gân, tin về thảm họa và các vụ bê bối".[14]:224 Bộ trưởng Bộ Nội vụ Anh William Joynson-Hicks gây áp lực lên cảnh sát, trong khi một tòa soạn báo đã treo thưởng lên đến 100 bảng Anh (tương đương 6.400 bảng thời giá 2021) cho ai tìm được Christie. Hơn 1.000 cảnh sát, 15.000 tình nguyện viên cùng một vài máy bay đã tham gia lùng sục khắp một vùng nông thôn rộng lớn. Nhà văn Arthur Conan Doyle đã đưa một trong những chiếc găng tay của Christie cho một thầy đồng nhờ người này tìm kiếm bà.[c] Sự mất tích của Christie cũng trở thành tiêu điểm trên các phương tiện truyền thông quốc tế, bao gồm việc xuất hiện trên trang nhất của tờ The New York Times.[41][42] Phải đến 10 ngày sau đó thì Christie mới được tìm thấy, mặc cho nhiều nỗ lực tìm kiếm quy mô lớn.[40][43][44] Sau này, người ta mới biết, vào ngày 4 tháng 12, một ngày sau khi Christie mất tích, bà đã đến Luân Đôn uống trà và ghé thăm cửa hàng bách hóa Harrods, để rồi ngạc nhiên trước cảnh trang trí Giáng Sinh ở đó.[45] Ngày 14 tháng 12 năm 1926, người ta phát hiện Christie đang đăng ký nhận phòng ở khách sạn Swan Hydropathic, Harrogate, Yorkshire, cách Sunningdale 184 dặm (296 km) về phía bắc. Bà đăng ký với tên "Mrs Tressa[d] Neele", quê quán ở "Capetown [sic] S.A." (Nam Phi). Trong đó, Tressa là họ của người phụ nữ mà chồng bà đang ngoại tình.[47] Ngày hôm sau, Christie rời khách sạn và đến tá túc tại nhà chị gái ở Abney Hall, Cheadle, nơi bà sống cô lập "trong một căn phòng được bảo vệ nghiêm ngặt, cổng đóng kín, mọi liên lạc bị cắt đứt và bất cứ bất cứ ai đến thăm đều bị từ chối".[46][48][49][50]

Trong cuốn tự truyện của mình, Christie không hề đề cập gì đến vụ mất tích bí ẩn đó.[12] Hai bác sĩ khám bệnh cho Christie đã chẩn đoán bà "thực sự mất trí nhớ hoàn toàn",[50][51] thế nhưng nguyên nhân đằng sau sự biến mất này vẫn còn là chủ đề gây tranh cãi. Một vài ý kiến, bao gồm nhà viết tiểu sử Morgan thì tin rằng bà mất tích trong trạng thái quên phân ly.[4]:154–59[40][52] Trong khi đó, tác giả Jared Cade thì lại có quan điểm rằng Christie đã cố tình lên kế hoạch này nhằm mục đích khiến chồng xấu hổ nhưng không lường trước được phản ứng quá cường điệu từ công chúng.[53]:121 Còn nhà viết tiểu sử Laura Thompson thì có cái nhìn khác hơn, cho rằng Christie biến mất trong tình trạng suy nhược thần kinh, nên tuy bà nhận thức được hành động của mình nhưng lại không thể kiềm chế được cảm xúc.[14]:220–21 Phản ứng của công chúng lúc bấy giờ phần lớn là tiêu cực. Họ nghi ngờ rằng đây chỉ là chiêu trò quảng bá bản thân của bà hoặc nhằm mục đích sâu xa hơn là gán ghép cho chồng tội mưu sát.[54][e]

1927–1976: Tái hôn và những năm tháng cuối đời

Colour photograph of a hotel room with Christie memorabilia on the walls
Căn phòng Christie từng ở tại khách sạn Pera Palace, Istanbul, nơi mà nhân viên khách sạn một mực khẳng định rằng bà đã sáng tác cuốn tiểu thuyết Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông

Tháng 1 năm 1927, Christie trong bộ dạng "vô cùng tiều tụy", đã lên thuyền cùng con gái và thư ký riêng của mình đến Las Palmas, Quần đảo Canaria để "hoàn thành quá trình dưỡng bệnh"[55] và quay trở về sau ba tháng.[56][f] Christie đệ đơn li hôn và nhận được sự chấp thuận tạm thời từ tòa án vào tháng 4 năm 1928. Quyết định ly hôn chính thức có hiệu lực vào tháng 10 cùng năm. Một tuần sau, Archie chính thức kết hôn với nhân tình Nancy Neele.[57] Christie duy trì quyền nuôi con gái và giữ lại họ chồng cũ là Christie cho mục đích sáng tác sau này.[31]:21[58] Trong cuốn hồi ký của mình, khi nhớ về giai đoạn đó, Christie tâm sự: "Vậy là, sau cơn đau ốm, thứ còn lại chỉ là nỗi buồn, tuyệt vọng và cảm giác đổ vỡ. Không cần phải nhắc thêm gì về nó nữa."[12]:340

Năm 1928, Christie rời nước Anh, rong ruổi trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông qua Istanbul rồi sau đó đến Baghdad.[4]:169–70 Tại mảnh đất Iraq, bà làm bạn với vợ chồng nhà khảo cổ học Leonard Woolley. Đến tháng 2 năm 1930, họ mời Christie quay trở lại địa điểm nơi mà họ thực hiện khai quật.[12]:376–77 Trong chuyến đi thứ hai này, bà gặp gỡ nhà khảo cổ học Max Mallowan, người kém bà 13 tuổi.[14]:284 Trong một cuộc phỏng vấn vào năm 1977, Mallowan có dịp thuật lại chi tiết về lần gặp gỡ đầu tiên của mình với Christie, khi ông dẫn bà cùng một nhóm khách du lịch khác tham quan địa điểm khai quật của mình ở Iraq.[59] Christie tái hôn với Mallowan tại Edinburgh vào tháng 9 năm 1930[14]:295–96[60] và ông trở thành người bạn đời cuối cùng của Christie cho đến khi bà qua đời vào năm 1976.[14]:413–14 Việc thường xuyên tham gia cùng Mallowan trong các cuộc thám hiểm khảo cổ đã góp phần giúp Christie có được nguồn cảm hứng, khơi mào cho một số tác phẩm lấy bối cảnh ở vùng Trung Đông,[59] mặc dù một số tiểu thuyết khác (chẳng hạn như Hiểm họa ở Nhà Kết) lại lấy bối cảnh xung quanh vùng Torquay nơi bà lớn lên.[30]:95 Ngoài ra, nhờ những trải nghiệm có được trên chuyến tàu xuyên quốc tế, Christie đã có thêm tư liệu để tạo ra tác phẩm Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông.[4]:201 Tại khách sạn Pera Palace ở Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay, điểm cuối của chuyến tàu tốc hành Phương Đông, một căn phòng được cho là nơi Christie từng ở trong thời gian sáng tác cuốn tiểu thuyết đã trở thành một nơi tưởng niệm dành cho nữ tác giả.[61][g]

Colour photograph of the front of a three-storey house
Cresswell Place, Chelsea

Thời gian đầu, Christie và Mallowan sống tại Cresswell Place, Chelsea, sau đó chuyển đến Sheffield Terrace, Holland Park, Kensington. Hiện cả hai ngôi nhà này đều được đánh dấu bằng một tấm biển màu xanh lam, thể hiện rằng đó là những địa điểm lịch sử. Năm 1934, hai vợ chồng mua căn nhà Winterbrook HouseWinterbrook (một ngôi làng nhỏ gần Wallingford).[62] Đây là nơi cư trú cuối cùng của họ suốt quãng đời còn lại và cũng là nơi mà Christie sáng tác phần lớn tác phẩm của mình.[14]:365 Căn nhà này về sau cũng trở thành một địa điểm lịch sử. Mặc dù nổi tiếng ở Wallingford, Christie vẫn chọn sống một đời bình lặng. Từ năm 1951 đến năm 1976, bà giữ chức chủ tịch của một tổ chức kịch nghệ nghiệp dư trong khu vực.[63]

Năm 1938, vợ chồng Christie mua khu đất Greenway Estate ở Devon làm nơi nghỉ dưỡng vào mùa hè.[14]:310 Đến năm 2000, khu đất này được bàn giao lại cho tổ chức National Trust.[64] Christie cũng thường xuyên đến ở tại Abney Hall, Cheshire, thuộc sở hữu của anh rể bà là James Watts. Bà đã lấy cảm hứng từ nơi này để xây dựng nên ít nhất hai tác phẩm, bao gồm một truyện ngắn "The Adventure of the Christmas Pudding", nằm trong tập truyện ngắn cùng tên và một tiểu thuyết mang tên Sau tang lễ.[12]:126[14]:43 Trong một bản tóm tắt viết về Christie, có đoạn: "Abney trở thành nguồn cảm hứng lớn nhất của Agatha về những ngày tháng sống ở căn nhà vùng quê, khi tất cả những [chi tiết về] người hầu và vẻ nguy nga của nó được đan cài vào trong các tình tiết của cốt truyện. Mô tả của bà về những căn nhà hư cấu Chimneys, Stonygates cùng những căn nhà khác trong tác phẩm hầu hết chỉ là hình ảnh của Abney Hall dưới nhiều mô thức khác nhau."[65]

Colour photograph of a wall plaque stating Christie "lived here 1934–1941"
Tấm bảng màu xanh lam đặt tại căn nhà số 58, Sheffield Terrace, Holland Park, Luân Đôn
Căn nhà Winterbrook House, tọa lạc ở Winterbrook, Oxfordshire, căn nhà cuối cùng mà vợ chồng Christie sinh sống từ năm 1934 đến khi bà qua đời vào năm 1976.

Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Christie chuyển đến Luân Đôn và sống trong một căn hộ ở Isokon, Hampstead. Bà làm việc tại khoa dược của bệnh viện University College Luân Đôn. Tại đây, bà có thêm nhiều hiểu biết hơn về các chất độc.[66] Bà đã viết cuốn tiểu thuyết Tình yêu phù thủy dựa trên gợi ý của dược sĩ trưởng Harold Davis. Năm 1977, một nhóm các nhân viên y tế Anh đã xử lý thành công một vụ ngộ độc thali sau khi đọc tiểu thuyết của Christie và nhận ra những triệu chứng tương đồng mà bà mô tả.[67][68]

Cũng trong thời gian diễn ra cuộc chiến, cơ quan tình báo Anh MI5 đã mở một cuộc điều tra nhằm vào Agatha Christie sau khi một nhân vật tên Thiếu tá Bletchley xuất hiện trong tiểu thuyết Người đàn bà hoang dã xuất bản năm 1941. Tác phẩm xoay quanh cuộc truy lùng bộ đôi điệp viên phản cách mạng nguy hiểm ở nước Anh trong cuộc chiến.[69] MI5 lo ngại rằng có ai đó thuộc Bletchley Park, trung tâm giải mã tối mật của Anh Quốc đã tuồn tin tức ra cho bà. Tuy nhiên, nỗi lo lắng nhanh chóng lắng xuống khi Christie giải thích với bạn của mình, nhà giải mã Dilly Knox rằng: "Tôi bị kẹt ở nơi đó trên chuyến tàu từ Oxford đến London vì vậy tôi quyết định trả thù bằng cách dùng cái tên đó đặt cho một trong những nhân vật ít thiện cảm nhất của mình."[69]

Năm 1950, Christie được bầu làm thành viên của Hội Văn học Hoàng gia Anh.[31]:23 Trong lễ vinh danh công dân nhân dịp đầu năm mới 1956, Christie vinh dự nhận tước hiệu Chỉ huy Đế quốc Anh (CBE).[70] Từ năm 1958 cho đến khi qua đời vào năm 1976, bà là đồng chủ tịch của Câu lạc bộ Truyện trinh thám Anh.[30]:93 Đến năm 1961, trường Đại học Exeter trao tặng cho bà bằng Tiến sĩ Văn học danh dự.[31]:23 Nhân dịp vinh danh công dân đầu năm mới năm 1971, Nữ vương Elizabeth II đã trao tặng cho Christie tước Quý bà Đế quốc Anh (DBE),[71][72][73] ba năm sau khi chồng bà được phong tước hiệp sĩ vì những đóng góp của ông trong lĩnh vực khảo cổ học.[74] Sau khi chồng trở thành hiệp sĩ, Christie còn được xưng hô là Lady Mallowan (Quý bà Mallowan).[30]:343

Từ năm 1971 đến năm 1974, sức khỏe của Christie bắt đầu sa sút, nhưng bà vẫn kiên trì sáng tác. Tiểu thuyết Cánh cửa định mệnh xuất bản năm 1973 cũng chính là cuốn tiểu thuyết cuối cùng của bà.[4]:368–72[14]:477 Các phân tích về nội dung văn bản mà bà sáng tác cho thấy Christie có thể đã bắt đầu mắc bệnh Alzheimer hoặc các dạng suy giảm trí nhớ khác trong khoảng thời gian này.[75][76]

Tính cách cá nhân

Black-and-white portrait photograph of Christie in later life
Christie tại Sân bay Schiphol, ngày 17 tháng 9 năm 1964

Năm 1946, Christie từng mô tả về bản thân như sau: "Điều khiến tôi khó chịu nhất là đám đông, tiếng ồn ầm ĩ, máy hát đĩa và rạp chiếu phim. Tôi không thích mùi rượu và không hút thuốc. Trái lại, tôi thích ánh nắng, đại dương, hoa cỏ, ẩm thực mới lạ, thể thao, hòa nhạc, rạp hát, piano và thêu thùa."[77]

Christie là một thành viên "mộ đạo nhưng kín tiếng"[4]:183 của Giáo hội Anh trong suốt cuộc đời. Bà thường xuyên đến nhà thờ tham dự thánh lễ, đồng thời giữ khư khư bên mình cuốn sách The Imitation of Christ mà mẹ bà để lại.[14]:30, 290 Sau khi ly hôn, bà không còn tham gia vào các buổi rước lễ thánh lễ nữa.[14]:263

Năm 1969, bà thành lập quỹ trẻ em mang tên The Agatha Christie Trust For Children.[78] Ngay sau khi Christie qua đời, một quỹ từ thiện tưởng nhớ bà cũng được thành lập với mục đích "hỗ trợ hai nhóm đối tượng mà bà yêu mến: người già và trẻ em".[79]

Lời cáo phó của Christie viết trên tờ The Times có đoạn: "Bà không mấy mặn mà với điện ảnh, đài không dây hay truyền hình." Ngoài ra,

Quý bà Agatha có thú vui riêng là làm vườn – bà từng giành nhiều giải thưởng địa phương về nghề làm vườn – cũng như mua sắm nội thất cho vô số các căn nhà của mình. Bà là một người sống nội tâm, không thích xuất hiện trước công chúng, nhưng khi tiếp xúc với mọi người thì lại giữ thái độ thân thiện và sắc sảo. Bà có khuynh hướng sống như một người Anh thuộc tầng lớp thượng trung lưu và về bản chất thì bà cũng là một người thuộc tầng lớp thượng trung lưu. Các sáng tác của bà dành cho những người giống mình. Đó là một đặc điểm cốt yếu trong nét quyến rũ của bà.[3]

Qua đời và tài sản

Qua đời

Colour photograph of a sandstone headstone
Phần mộ của Agatha Christie tại Nghĩa trang St Mary's, Cholsey, Oxfordshire

Christie qua đời một cách thanh thản vì tuổi già tại nhà riêng của bà ở Winterbrook House vào ngày 12 tháng 1 năm 1976, thọ 85 tuổi.[80][81] Sau khi bà qua đời, hai nhà hát ở West End – gồm nhà hát St. Martin's, nơi đang biểu diễn vở The Mousetrap và nhà hát the Savoy, nơi người ta đang diễn lại vở Murder at the Vicarage – đã tắt hết đèn bên ngoài như một sự tưởng nhớ đến bà.[30]:373 Christie được chôn cất gần đó, tại nghĩa trang St Mary's, Cholsey, trên một khu đất mà bà đã chọn cùng chồng 10 năm trước. Lễ tang tổ chức đơn giản, với khoảng 20 phóng viên báo chí và phóng viên truyền hình đến tác nghiệp, một số phóng viên đến từ những nơi xa xôi như Nam Mỹ. Người ta đã đặt khoảng 30 vòng hoa lên mộ bà, trong số này bao gồm một vòng hoa từ dàn diễn viên của vở kịch The Mousetrap và một vòng hoa khác "thay mặt cho đông đảo những độc giả biết ơn" gửi đến từ nhà xuất bản Ulverscroft Large Print Book.[82]

Sau khi Christie qua đời, chồng bà Mallowan tái hôn vào năm 1977 nhưng qua đời một năm sau đó. Ông được chôn cất bên cạnh người vợ cũ của mình.[83]

Tài sản và quyền sở hữu các tác phẩm về sau

Christie không hài lòng về việc trở thành "một nô lệ hưởng lương",[14]:428 và vì lý do thuế mà bà đã thành lập một công ty tư nhân vào năm 1955, lấy tên là Agatha Christie Limited, nhằm mục đích giữ bản quyền các tác phẩm của mình. Vào khoảng năm 1959, bà chuyển quyền sở hữu ngôi nhà 278 mẫu Anh của mình, Greenway Estate, cho con gái là Rosalind Hicks.[84][85] Năm 1968, khi Christie gần 80 tuổi, bà đã bán 51% cổ phần của công ty Agatha Christie Limited (kèm theo các tác phẩm thuộc sở hữu của nó) cho Booker Books (nổi tiếng hơn với tên gọi Booker Author's Division). Đến năm 1977 thì số cổ phần mà họ sở hữu đã tăng lên 64%.[4]:355[86] Agatha Christie Limited hiện vẫn là công ty sở hữu bản quyền trên phạm vi toàn cầu cho hơn 80 tiểu thuyết và truyện ngắn, 19 vở kịch cùng gần 40 phim truyền hình khác của Christie.[87]

Trong những năm cuối thập niên 1950, người ta cho rằng Agatha Christie đã thu về khoảng 100.000 bảng Anh mỗi năm (tương đương với khoảng 2,5 triệu bảng Anh thời giá năm 2021). Ngoài ra, bà cũng bán được ước tính 300 triệu cuốn sách trong suốt cuộc đời mình.[88] Tính đến thời điểm qua đời năm 1976, "bà là tiểu thuyết gia bán chạy nhất trong lịch sử."[89] Ước tính, tổng thu nhập của bà trong hơn nửa thế kỷ viết lách là 20 triệu USD (tương đương với khoảng 1,029 tỉ USD thời giá năm 2022).[90] Do kết quả từ việc lên kế hoạch về thuế, bản di chúc của bà chỉ để lại 106.683 bảng Anh tài sản ròng[h] (tương đương với khoảng 817.000 bảng Anh thời giá năm 2021). Phần lớn số tài sản này được bà dành cho chồng và con gái mình, ngoài ra bà còn dành một số khoản tiền nhỏ khác cho người làm vườn, thư ký và người quản lý khu vườn của bà.[80][92] Sau khi thừa hưởng 36% cổ phần còn lại của mẹ mình trong công ty Agatha Christie Limited, Rosalind Hicks đã dồn cả tâm huyết bảo tồn các tác phẩm, hình ảnh cùng với di sản của mẹ mình trong suốt 28 năm cho đến khi bà qua đời.[84] Với số cổ phần nắm giữ, gia đình của Christie có quyền bổ nhiệm khoảng 50% thành viên hội đồng quản trị và tổng giám đốc, đồng thời giữ quyền phủ quyết đối với các ý kiến liên quan đến việc chuyển thể, cập nhật và tái bản các tác phẩm của bà.[84][93]

Căn biệt thự Greenway ở Devon, nơi Christie dùng làm nơi nghỉ dưỡng vào mùa hè kể từ năm 1938. Căn biệt thự này cũng là bối cảnh của nhiều tác phẩm như Ngôi đền của người chết. Đây cũng là phim trường quay tập cuối cùng của bộ phim Agatha Christie's Poirot vào năm 2013.[94]

Năm 2004, Rosalind Hicks qua đời. Cáo phó đăng trên tờ The Telegraph khẳng định rằng bà "kiên quyết trung thành với tầm nhìn của mẹ mình và bảo vệ tính toàn vẹn trong các sáng tác của mẹ bà", đồng thời không chấp thuận các hoạt động nhằm "thương mại hóa" các tác phẩm.[84] Sau khi Hicks qua đời vào ngày 28 tháng 10 năm 2004, con trai bà là Mathew Prichard chính thức thừa kế căn biệt thự Greenway Estate. Sau khi cha dượng qua đời vào năm 2005, Prichard đã quyên tặng căn biệt thự này cùng các tài sản bên trong cho tổ chức phi lợi nhuận National Trust.[84][95]

Gia đình cùng với các quỹ tín thác của Christie, bao gồm người chắt là James Prichard vẫn nắm giữ 36% cổ phần của Agatha Christie Limited[87] và gắn bó với công ty. Đến năm 2020, James Prichard trở thành chủ tịch của công ty.[96] Mathew Prichard cũng nắm giữ bản quyền đối với một số tác phẩm văn học sau này của bà nội mình, bao gồm vở kịch The Mousetrap nổi tiếng.[14]:427Các tác phẩm của Christie vẫn tiếp tục được chuyển thể thành nhiều thể loại khác nhau.[97]

Vào năm 1998, công ty Booker Books bán cổ phần của Agatha Christie Limited với giá 10.000.000 bảng Anh (tương đương 18.700.000 bảng Anh năm 2021) cho công ty Chorion. Đây là công ty sở hữu nhiều tác phẩm của các nhà văn nổi tiếng như Enid BlytonDennis Wheatley.[93] Đến tháng 2 năm 2012, sau đợt mua thôn tính cổ phần, Chorion bắt đầu bán các tài sản văn học của mình.[87] Điều này bao gồm việc bán 64% cổ phần của Agatha Christie Limited cho Acorn Media UK.[98] Vào năm 2014, RLJ Entertainment Inc. (RLJE) thâu tóm Acorn Media UK và đổi tên thành Acorn Media Enterprises, đồng thời hợp nhất công ty này thành chi nhánh phát triển của RLJE tại Anh.[99]

Vào cuối tháng 2 năm 2014, các phương tiện truyền thông loan tin đài BBC đã mua độc quyền phát sóng các tác phẩm của Agatha Christie trên truyền hình Anh (trước đó bản quyền thuộc về ITV), đồng thời hợp tác với Acorn lên kế hoạch sản xuất các chương trình truyền hình nhân dịp kỷ niệm 125 năm ngày sinh của Christie vào năm 2015.[100] Theo thỏa thuận đó, BBC đã phát sóng cả hai phim Partners in Crime[101]And Then There Were None[102] vào năm 2015.[103] Các phim tiếp theo bao gồm The Witness for the Prosecution[104]Ordeal by Innocence. Tuy nhiên, Ordeal by Innocence vốn được lên kế hoạch phát sóng vào dịp Giáng Sinh 2017 nhưng kế hoạch buộc phải hoãn lại do những tranh cãi xoanh quanh một trong những diễn viên của đoàn làm phim.[105] Đến tháng 4 năm 2018 thì bộ phim ba phần này chính thức lên sóng.[106] Tháng 6 cùng năm, bộ phim chuyển thể dài ba phần của tác phẩm Chuỗi án mạng A.B.C do John MalkovichRupert Grint thủ vai chính thức bấm máy. Bộ phim này lên sóng khán giả vào tháng 12 cùng năm.[107][108] Đến tháng 2 năm 2020, kênh BBC1 trình làng khán giả phiên bản chuyển thể của tiểu thuyết Tình yêu phù thủy.[109] Ngoài ra, tác phẩm Tận cùng là cái chết sẽ là cuốn tiểu thuyết tiếp theo được đài BBC chuyển thể thành phim.[110]

Kể từ năm 2020, nhà xuất bản HarperCollins đã loại bỏ "những đoạn văn chứa mô tả, xúc phạm hoặc đề cập đến vấn đề sắc tộc" về bà MarpleHercule Poirot khỏi các phiên bản tiểu thuyết tái bản của Agatha Christie.[111]

Tác phẩm

Tác phẩm viễn tưởng

Hercule Poirot và Bà Marple

Drawing of a gentleman in a dinner suit twirling his large moustache, illustrating the Christie story "13 for Dinner"
Phác họa đầu tiên về chân dung của thám tử Hercule Poirot, đăng trên tạp chí The American Magazine, tháng 3 năm 1933

Tác phẩm đầu tiên được xuất bản của Christie là Vụ án bí ẩn ở Styles, ra mắt năm 1920, giới thiệu đến công chúng nhân vật thám tử Hercule Poirot. Đây là nhân vật xuất hiện trong 33 tiểu thuyết và hơn 50 truyện ngắn của bà.

Qua nhiều năm, Agatha Christie cũng bắt đầu chán nản với Hercule Poirot, tương tự như Arthur Conan Doyle chán nản với Sherlock Holmes.[4]:230 Cuối những năm 1930, Christie viết trong nhật ký rằng bà "không thể chịu nổi" Poirot và đến những năm 1960 thì bà cho rằng ông ta là một "kẻ kiêu căng đáng ghét".[112] Thompson tin rằng cảm giác không mấy thiện cảm của bà đối với nhân vật này chỉ là sự phóng đại quá mức, đồng thời chỉ ra rằng "sau này bà đã nỗ lực bảo vệ ông ta (Poirot) khỏi sự hiểu lầm theo cách mạnh mẽ đến mức như thể ông ta máu mủ ruột ruột rà của mình vậy".[14]:282 Khác với Doyle, Christie đã kiềm chế mong muốn để nhân vật Poirot chết trong lúc nhân vật này vẫn còn nổi tiếng với công chúng.[4]:222 Thay vào đó, bà chọn cách để thuyền trưởng Arthur Hastings – cánh tay đắc lực của thám tử Hercule Poirot – kết hôn với mục đích giảm bớt số lượng nhân vật cần xây dựng.[12]:268

Nhân vật bà Marple lần đầu tiên xuất hiện trong loạt truyện ngắn xuất bản vào tháng 12 năm 1927, sau đó được tổng hợp lại dưới tựa đề The Thirteen Problems.[14]:278 Marple là một người phụ nữ lớn tuổi, độc thân, quý phái. Bà thường dùng phương pháp so sánh các tình tiết của vụ án với những vấn đề trong cuộc sống ở làng quê nước Anh làm phương tiện tìm ra chân tướng vụ án.[30]:47, 74–76 Mặc dù Christie từng nói: "Bà Marple không có liên hệ gì với bà của tôi; so với bà tôi thì bà ấy độc thân và có lối sống cầu kỳ kiểu cách hơn nhiều so với bà của tôi". Tuy nhiên, tự truyện của bà lại cho thấy mối liên hệ vững chắc giữa nhân vật này với bà ngoại nuôi Margaret Miller ("Auntie-Grannie")[i] và những "người bạn chí thân ở Ealing" của bà.[12]:422–23[113] Ngoài ra, cả bà Marple và bà Miller "luôn mong chờ điều tồi tệ nhất từ mọi người và mọi việc, và bằng một cách thần kỳ nào đó, họ đều chính xác".[12]:422 Bà Marple xuất hiện trong 12 tiểu thuyết và 20 truyện ngắn của Christie.

Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Christie đã sáng tác hai cuốn tiểu thuyết là Thám tử rời sân khấu, với nhân vật chính là Hercule Poirot và Giết người trong mộng, với nhân vật chính là bà Marple. Christie đã niêm phong hai tác phẩm này trong két an toàn ở ngân hàng. Bà sau đó tặng bản quyền hai tác phẩm này lại cho con gái và chồng như một dạng bảo hiểm.[14]:344[30]:190 Năm 1974, Christie trải qua một cơn đau tim và một cú ngã nghiêm trọng, khiến bà không thể tiếp tục viết lách nữa.[4]:372 Vì vậy, con gái bà đã thay mẹ xuất bản cuốn Thám tử rời sân khấu vào năm 1975[4]:375 và cuốn Giết người trong mộng năm 1976 (sau khi Christie qua đời).[30]:376 Cả hai tác phẩm này đều được xuất bản sau thành công vang dội của bộ phim Murder on the Orient Express, chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông.[12]:497[114]

Ngoài ra, ngay trước khi tác phẩm Thám tử rời sân khấu ra mắt, Hercule Poirot đã trở thành nhân vật hư cấu đầu tiên có cáo phó trên tờ The New York Times. Cáo phó này xuất hiện trên trang nhất của tờ báo vào ngày 6 tháng 8 năm 1975.[115][116]

Một điểm đáng lưu ý là các tiểu thuyết hay truyện ngắn của Agatha Christie chưa bao giờ có sự xuất hiện đồng thời của cả thám tử Poirot và bà Marple.[30]:375 Trong một bản ghi âm công bố vào năm 2008, Christie lý giải điều này như sau: "Hercule Poirot, một kẻ tự cao tự đại, sẽ không thích một quý bà lớn tuổi chỉ dạy công việc hoặc đưa ra những gợi ý cho mình. Hercule Poirot – một thám tử chuyên nghiệp – không bao giờ có thể hòa nhập được với thế giới của bà Marple."[113]

Năm 2013, gia đình Agatha Christie đồng ý cho ra mắt một tác phẩm mới về thám tử Poirot mang tên The Monogram Murders do nữ văn sĩ người Anh Sophie Hannah chấp bút.[117] Sau đó, Hannah tiếp tục sáng tác thêm ba tác phẩm bí ẩn khác với nhân vật chính là Poirot, bao gồm Closed Casket vào năm 2016, The Mystery of Three Quarters vào năm 2018[118][119]The Killings at Kingfisher Hill vào năm 2020.

Mô típ và thủ pháp sáng tác

Agatha Christie được mệnh danh là "Nữ công tước tử thần", "Bà hoàng thần bí" hoặc "Nữ hoàng trinh thám".[31]:15 Buổi đầu sự nghiệp, một phóng viên đã nhận xét rằng "cốt truyện của bà có tính khả thi, hợp lý và luôn luôn mới mẻ".[36] Theo tiểu thuyết gia Sophie Hannah: "Mở đầu mỗi tác phẩm, bà đặt người đọc vào một tình huống hoàn toàn không thể xảy ra và khiến chúng ta phát điên với câu hỏi 'Làm cách nào mà điều này có thể xảy ra?'. Sau đó, bằng một cách chậm rãi, bà tiết lộ cách mà điều vốn không thể xảy ra lại là điều hoàn toàn khả thi và thậm chí đó còn là khả năng duy nhất có thể xảy ra."[118]

Abney Hall, Cheshire, nơi truyền cảm hứng cho một số bối cảnh trong tác phẩm của Christie như Chimneys hay Stonygates
Khách sạn Old Cataract bên bờ sông Nile, Aswan, Ai Cập, nguồn cảm hứng mà Christie đưa vào trong tác phẩm Án mạng trên sông Nile.

Christie phát triển kỹ thuật kể chuyện của mình trong "thời kỳ hoàng kim" của thể loại truyện trinh thám viễn tưởng.[120] Tác giả Dilys Winn đánh giá Christie là "bà hoàng của thể loại trinh thám nhẹ nhàng", một nhánh nhỏ của thể loại trinh thám mà ở đó "lấy bối cảnh ở một vùng quê nhỏ, nhân vật chính có chút liên quan đến dòng dõi quý tộc, nhiều thủ thuật đánh lạc hướng và khuynh hướng giết người theo kiểu sử dụng dao mở thư bằng bạc nguyên chất và thuốc độc nhập từ Paraguay".[121] Một dấu ấn đặc trưng của Christie là ở phần kết, thám tử thường tập hợp những nghi phạm còn sống sót vào một căn phòng, giải thích những suy diễn và suy luận của họ rồi sau đó vạch trần thủ phạm thực sự. Tuy nhiên, cũng có một vài ngoại lệ. Ví dụ, trong tác phẩm Mười người da đen nhỏĐêm vô tận, hung thủ tự thú nhận mọi tội lỗi của mình.[122][123]

Agatha Christie không chỉ bó hẹp sáng tác của mình trong những ngôi làng cổ kính ở nước Anh, mà còn mở rộng bối cảnh truyện ra nhiều nơi khác: ngay trên hòn đảo nhỏ (Mười người da đen nhỏ), trên máy bay (Cái chết giữa thinh không), trên tàu hỏa (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông), trên tàu hơi nước (Án mạng trên sông Nile), hay trong một căn hộ sang trọng ở nước Anh (Những quân bài trên mặt bàn), hoặc ở một khu nghỉ dưỡng ở Tây Ấn Độ (Bí ẩn ở Ca-ri-bê), hay thậm chí trong một cuộc khai quật khảo cổ (Vụ án mạng ở vùng Mesopotamie) đều có bóng dáng của án mạng. Tuy nhiên, khoanh vùng lại các nghi phạm tiềm năng thì thông thường chỉ có những người kín đáo và thân cận: thành viên gia đình, bạn bè, người hầu, đối tác kinh doanh, bạn đồng hành.[124]:37 Ngoài ra, các kiểu nhân vật khuôn mẫu trong tác phẩm của bà thường là femme fatale, viên cảnh sát nghiêm nghị, người hầu tận tụy, viên đại tá tẻ nhạt, nhưng những nguyên tắc này cũng có thể bị phá vỡ để đánh lừa người đọc. Một số chi tiết khác như giả mạo người khác hay những mối liên hệ bí mật cũng thường xuyên xuất hiện trong tác phẩm.[124]:58 Luôn luôn có một động cơ cho các vụ án, nhưng thường xuyên nhất là tiền bạc: "Có rất ít kẻ sát nhân trong tác phẩm của Christie thích thú với việc giết chóc vì thỏa mãn cá nhân."[14]:379, 396

Theo Giáo sư dược học Michael C. Gerald, "trong hơn một nửa số tiểu thuyết của bà, có ít nhất một hoặc nhiều nạn nhân trúng độc, dẫu cho điều này không phải lúc nào cũng khiến thủ phạm hài lòng."[125]:viii Theo John Curran, tác giả kiêm cố vấn văn học cho tổ chức quản lý và bảo tồn các tác phẩm của Christie[126] thì súng, dao, dây thòng lọng, dây bẫy, công cụ thô sơ, thậm chí cả rìu cũng trở thành vật dụng gây án, nhưng "Christie không bao giờ dựa vào những phương pháp cơ học hoặc khoa học phức tạp để giải thích cho sự khéo léo của mình"[127]:57 Nhiều manh mối trong các tác phẩm của bà vốn chỉ là những vật dụng bình thường trong cuộc sống hàng ngày như một quyển lịch, tách cà phê, hoa sáp, một chai bia hay chiếc lò sưởi dùng trong thời tiết nắng nóng.[124]:38

Theo nhà văn trinh thám P. D. James, thủ phạm mà Agatha Christie thường chọn là nhân vật ít ai ngờ tới nhất. Vì vậy mà những độc giả tinh ý đôi khi có thể đoán ra hung thủ bằng cách xác định nghi phạm ít khả năng nghi ngờ nhất.[128] Ngay chính bản thân Christie cũng từng chế nhạo lối suy luận này trong lời đề tựa của tác phẩm Những quân bài trên mặt bàn: "Khi bạn xác định người ít có khả năng nhất là kẻ gây án thì chín trên mười trường hợp bạn đã chính xác. Tuy nhiên, tôi không muốn những độc giả trung thành vứt bỏ cuốn sách này trong thất vọng, nên tôi muốn báo trước rằng đây không phải là kiểu sách như vậy."[129]:135–36

Trong chương trình Desert Island Discs phát trên đài BBC Radio 4 vào năm 2007, Brian Aldiss tiết lộ Christie từng kể với ông rằng khi viết đến chương cuối cùng, bà mới quyết định ai là nghi phạm ít ngờ tới nhất. Tiếp theo, bà quay lại và thực hiện những thay đổi cần thiết nhằm "đổ tội" cho nhân vật đó.[130]

Bằng việc nghiên cứu sổ tay làm việc của Agatha Christie, John Curran cho biết rằng bà tạo dựng dàn nhân vật trước, rồi chọn bối cảnh, sau đó lập danh sách các cảnh trí nơi mà manh mối cụ thể sẽ được tiết lộ. Trong quá trình phát triển cốt truyện, bà sẽ sửa đổi thứ tự các cảnh trí sẽ xuất hiện. Vì vậy mà như một lẽ dĩ nhiên, Christie phải biết rõ ai là hung thủ trước khi hoàn thành trình tự các phân cảnh và trước khi bà bắt tay vào đánh máy và đọc bản thảo đầu tiên của tác phẩm.[124] Vì vậy mà phần lớn quá trình sáng tác, đặc biệt là phần lời thoại đều được bà hình thành trong đầu trước khi viết ra giấy.[12]:241–45[129]:33

Năm 2013, 600 thành viên của Hiệp hội Nhà văn tội phạm Anh đã chọn tác phẩm Vụ ám sát ông Roger Ackroyd là "tác phẩm trinh thám xuất sắc nhất thuộc thể loại whodunit ... từng được viết".[131] Nhà văn Julian Symons cho rằng: "Về mặt hình thức, tác phẩm tuân theo các quy ước của thể loại trinh thám... Bối cảnh nằm ở một ngôi làng nằm sâu trong vùng nông thôn nước Anh, Roger Ackroyd chết trong phòng làm việc; có một người hầu hành xử đáng ngờ... Mọi tác phẩm trinh thám thành công trong thời kỳ này đều có yếu tố đánh lừa người đọc, và mánh khóe vô cùng độc đáo ở tác phẩm này là biến kẻ sát nhân thành bác sĩ trong vùng, vừa là người kể chuyện, vừa đóng vai trò như [trợ lý] Watson của thám tử Poirot."[120]:106–07 Đồng quan điểm, nhà phê bình Sutherland Scott khẳng định: "Ngay cả khi Agatha Christie không có bất cứ đóng góp nào khác cho thể loại văn học trinh thám, thì bà vẫn xứng đáng với lòng biết ơn của chúng ta" vì đã viết nên tác phẩm này.[132]

Vào tháng 9 năm 2015, nhân kỷ niệm sinh nhật lần thứ 125 của Agatha Christie, trong một cuộc bình chọn trên trang web đại diện cho Agatha Christie, tác phẩm Mười người da đen nhỏ được liệt vào danh sách "World's Favourite Christie" (danh sách những tác phẩm được yêu thích nhất của bà).[133] Đây là tác phẩm thể hiện rõ nét công thức quen thuộc của Christie, nhưng cũng cho thấy tinh thần phá cách vượt lên trên những khuôn mẫu thông thường. Theo nhà văn Charles Osborne "Mười người da đen nhỏ đã đưa thể loại trinh thám "xã hội kín" lên một tầm cao mới."[30]:170 Câu chuyện bắt đầu với mô típ kinh điển: nạn nhân tiềm năng và kẻ giết người bị cô lập hoàn toàn khỏi thế giới bên ngoài. Tuy nhiên, tác phẩm lại phá vỡ nhiều quy ước khi không có thám tử tham gia phá án, không thẩm vấn nghi phạm, không tỉ mỉ tìm kiếm manh mối và thậm chí còn không có cảnh các nghi phạm tập hợp lại để làm sáng tỏ ai là kẻ thủ ác ở chương cuối. Chính Agatha Christie cũng đã thừa nhận : "Việc mười người phải chết hoàn toàn không quá ngớ ngẩn hoặc khiến cho hung thủ trở nên quá dễ đoán."[12]:457 Giới phê bình đồng ý rằng bà đã thành công: "Bà Christie kiêu ngạo lần này đã tự đặt ra một thử thách đáng sợ cho sự khéo léo của chính mình... và không có gì ngạc nhiên khi tất cả các bài đánh giá đều nhiệt liệt tán dương điều đó."[30]:170–71

Những định kiến rập khuôn và sự phân biệt đối xử với nhân vật

Các tác phẩm của Agatha Christie, phổ biến nhất là các tác phẩm ra đời trước năm 1945, thường chứa đựng các yếu tố định kiến rập khuôn khi mô tả về nhân vật. Đó là thời điểm mà những quan điểm kiểu vậy vẫn còn phổ biến trong xã hội. Các yếu tố định kiến này đối chủ yếu nhằm vào các nhân vật người Ý, người Do Thái và những người không phải gốc châu Âu.[4]:264–66 Ví dụ, trong truyện ngắn "The Soul of the Croupier" trích từ tuyển tập truyện ngắn The Mysterious Mr Quin, bà mô tả "những người đàn ông gốc Do Thái có làn da vàng bủng, mũi khoằm, đeo trang sức lòe loẹt". Năm 1947, Liên đoàn Chống Phỉ báng có trụ sở tại Hoa Kỳ đã gửi đơn khiếu nại đến nhà xuất bản Mỹ Dodd, Mead and Company, nơi phát hành các tác phẩm của Christie tại quốc gia này. Nội dung lá đơn lên án những nội dung được cho là bài Do Thái trong các tác phẩm của bà. Đáp lại, cơ quan đại diện cho các tác phẩm văn học của Christie tại Anh đã ủy quyền cho phép các cơ quan đại diện tại Mỹ "xóa bỏ từ 'Do Thái' khi dùng để mô tả một nhân vật phản diện trong các tác phẩm sắp tới".[14]:386

Trong tác phẩm Thung lũng bất hạnh xuất bản năm 1946, bằng cách mượn tiếng nói của một nhân vật trong tác phẩm, Christie mô tả về một nhân vật khác của mình là "dân Do Thái ở khu Whitechapel, nhuộm tóc, giọng nói thì cứ khàn khàn như quạ ấy [...] một phụ nữ thấp bé có cái mũi bè, mái tóc nâu đỏ, đang tranh cãi với bà khách mập mạp". Đối lập với những mô tả mang tính định kiến ​​này, Christie đã khắc họa một số nhân vật "ngoại quốc" với tư cách là nạn nhân (hoặc nạn nhân tiềm năng) dưới bàn tay của những tội phạm người Anh, chẳng hạn như Olga Seminoff trong tiểu thuyết Ngày hội quả bí và Katrina Reiger trong truyện ngắn "How Does Your Garden Grow?". Thông thường những nhân vật Do Thái trong tác phẩm của bà đều không phải là người Anh (như Oliver Manders trong Bi kịch ba hồi), nhưng những nhân vật này hiếm khi là thủ phạm.[134]

Năm 2023, tờ Telegraph cho biết rằng một số tiểu thuyết của Agatha Christie đã trải qua quá trình kiểm duyệt sửa đổi nhằm loại bỏ những ngôn từ có khả năng gây xúc phạm, gồm những từ ngữ lăng mạ và ám chỉ đến sắc tộc. Trong các ấn bản mới tái bản, nhà xuất bản HarperCollins cũng tiến hành kiểm duyệt, cắt bỏ các đoạn văn mô tả về hai nhân vật thám tử Poirot và bà Marple trong các sáng tác của Christie ra đời trong giai đoạn từ năm 1920 đến năm 1976. Mục đích là loại bỏ những từ ngữ và mô tả mà độc giả hiện đại cảm thấy xúc phạm, đặc biệt là những mô tả về những người mà nhân vật chính trong các tác phẩm của Christie gặp gỡ bên ngoài Vương quốc Anh. Theo đó, những sửa đổi do "độc giả nhạy cảm" tiến hành đã thể hiện rõ ràng trong các phiên bản kỹ thuật số của các ấn bản mới, bao gồm toàn bộ loạt truyện về bà Marple và các tiểu thuyết có sự xuất hiện của thám tử Poirot ra mắt kể từ năm 2020 trở về sau.[135]

Những nhân vật thám tử khác

Bên cạnh hai cái tên quen thuộc là Hercule Poirot và bà Marple, Christie còn tạo ra cặp đôi thám tử nghiệp dư Thomas Beresford (Tommy) và vợ, Prudence "Tuppence" (nhũ danh Cowley). Họ góp mặt trong 4 tiểu thuyết và 1 tập truyện ngắn xuất bản trong giai đoạn từ năm 1922 đến năm 1974. Không giống như các nhân vật thám tử khác, vợ chồng Beresford mới chỉ độ 20 tuổi khi xuất hiện lần đầu trong tác phẩm Địch thủ bí mật, cho phép hai nhân vật này già đi cùng với bà trong suốt quá trình sáng tác.[30]:19–20 Những tác phẩm có mặt họ thường mang không khí nhẹ nhàng hơn, pha chút "xông xáo và nhiệt tình" nhưng không phải lúc nào giới phê bình cũng đón nhận theo cách tích cực.[31]:63 Tác phẩm Cánh cửa định mệnh, tác phẩm cuối cùng của Christie cũng là lần cuối cùng hai nhân vật này xuất hiện.[14]:477

Harley Quin là nhân vật thám tử hư cấu "dị biệt nhất" của Christie.[31]:70 Đây là nhân vật hình thành từ sự mến mộ của bà đối với thể loại kịch tuồng hề. Quin mang trong mình sức mạnh siêu nhiên đồng bóng, đi cùng ông là người cộng sự lớn tuổi, theo chủ nghĩa cổ điển tên là Satterthwaite. Bộ đôi này xuất hiện trong 14 truyện ngắn. Đến năm 1930 thì 12 truyện ngắn trong số này đã trở thành bộ sưu tập truyện ngắn mang tên The Mysterious Mr. Quin.[30]:78, 80[136] Chồng bà, Mallowan, mô tả những tác phẩm này là "tác phẩm trinh thám theo khuynh hướng kỳ khôi, mang dáng dấp của truyện cổ tích, một sản phẩm tự nhiên xuất phát từ trí tưởng tượng riêng biệt của Agatha".[30]:80 Nhân vật Satterthwaite cũng xuất hiện trong tiểu thuyết Bi kịch ba hồi cùng truyện ngắn "Dead Man's Mirror". Cả hai tác phẩm cũng có sự tham gia góp mặt của thám tử Poirot.[30]:81

Một nhân vật ít người biết đến khác của Christie là Parker Pyne. Vốn là một công chức đã về hưu, ông thường sử dụng những phương pháp trái với nguyên tắc thông thường nhằm giúp đỡ những người bất hạnh.[30]:118–19 Pyne xuất hiện lần đầu trong bộ 12 truyện ngắn mang tên Parker Pyne Investigates xuất bản năm 1934, tuy nhiên, mãi đến năm 1967, khi tác phẩm "The Case of the Discontented Soldier" ra mắt thì nhân vật này mới trở nên đáng chú ý. Nhân vật chính trong tác phẩm này là Ariadne Oliver, "một bức tự họa đầy châm biếm và hài hước về chính Agatha Christie". Trong nhiều thập niên tiếp theo, Oliver còn góp mặt trong bảy tác phẩm khác, phần lớn trong số này dưới vai trò nhân vật hỗ trợ thám tử Poirot trong các vụ án.[30]:120

Kịch

The Mousetrap, vở kịch có thời gian công diễn dài nhất thế giới, đang được biểu diễn tại Nhà hát kịch St Martin'sWest End vào năm 2011. Biển hiệu ở phía trước nhà hát kịch biểu thị năm thứ 59 mà vở kịch công diễn.
Ảnh chụp vào tháng 11 năm 2006 cho thấy tấm bảng gỗ ở tiền sảnh của Nhà hát kịch St Martin's mô tả 22.461 lần vở The Mousetrap công diễn. Nhiều khán giả thường thích chụp ảnh lưu niệm bên cạnh tấm bảng này.[137]

Năm 1928, Michael Morton đã chuyển thể tiểu thuyết Vụ ám sát ông Roger Ackroyd lên sân khấu với tựa đề Alibi.[4]:177 Vở kịch này gặt hái nhiều thành công đáng kể, nhưng Christie lại không hài lòng với những thay đổi trong tác phẩm. Vì vậy, về sau, bà quyết định tự tay viết kịch bản cho các tác phẩm của mình. Tác phẩm đầu tiên của bà trên sân khấu kịch là Black Coffee, ra mắt ở West End vào cuối năm 1930 và nhận được những đánh giá tích cực.[138] Tiếp nối thành công của Black Coffee, Christie tiếp tục chuyển thể các tiểu thuyết trinh thám khác của mình lên sân khấu, bao gồm And Then There Were None vào năm 1943, Appointment with Death vào năm 1945 và The Hollow vào năm 1951.[4]:242, 251, 288

Vào thập niên 1950, sân khấu kịch trở thành đề tài "chiếm phần lớn sự quan tâm của Agatha."[139] Bà đã chuyển thể vở kịch ngắn trên sóng radio của mình thành vở The Mousetrap. Vở kịch có lần công diễn đầu tiên tại West End vào năm 1952, do Peter Saunders chịu trách nhiệm sản xuất. Vai diễn Trung sĩ điều tra Trotter ban đầu do tài tử Richard Attenborough đảm nhiệm.[137] Kỳ vọng của Christie về vở kịch không cao, bà tin rằng vở diễn sẽ chỉ kéo dài khoảng tám tháng.[12]:500 Tuy nhiên, The Mousetrap đã tạo nên lịch sử cho ngành sân khấu kịch khi trở thành vở diễn có thời gian công diễn lâu nhất thế giới. Tính đến tháng 9 năm 2018 thì vở diễn này đã đạt cột mốc 27.500 lần công diễn.[137][140][141][142] Việc công diễn tạm thời ngừng lại vào tháng 3 năm 2020, khi nước Anh đối mặt với làn sóng đại dịch COVID-19[143][144] và kéo dài cho đến ngày 17 tháng 5 năm 2021.[145]

Tiếp nối thành công của The Mousetrap, năm 1953, Christie tiếp tục cho ra đời vở Witness for the Prosecution, Phiên bản trình diễn trên sân khấu ở Broadway của vở kịch này đã xuất sắc giành giải "vở kịch nước ngoài xuất sắc nhất năm 1954" do Hiệp hội Phê bình Sân khấu trao tặng, đồng thời giúp Christie đoạt giải Edgar của Hiệp hội Nhà văn trinh thám Hoa Kỳ.[4]:300[127]:262 Cũng trong năm này, vở Spider's Web, một tác phẩm gốc được viết riêng cho nữ minh tinh Margaret Lockwoodan, ra mắt tại West End và cũng nhanh chóng trở thành một vở kịch ăn khách.[4]:297, 300 Christie cũng là nhà viết kịch nữ đầu tiên có ba vở diễn công diễn đồng thời tại Luân Đôn, bao gồm The Mousetrap, Witness for the ProsecutionSpider's Web.[146] Theo bà, "soạn kịch dễ hơn nhiều so với việc sáng tác tiểu thuyết, bởi vì bạn có thể hình dung chúng ngay trong tâm trí, không bị cản trở bởi những mô tả vốn khiến cho bạn trở nên bế tắc trong tiểu thuyết để rồi không thể tiếp tục với diễn biến câu chuyện."[12]:459 Trong một bức thư gửi con gái, Christie thừa nhận rằng việc trở thành nhà soạn kịch là một trải nghiệm "vô cùng thú vị!"[14]:474

Sáng tác dưới bút danh Mary Westmacott

Dưới bút danh Mary Westmacott, Agatha Christie đã cho ra đời sáu tác phẩm thuộc dòng văn học chính thống. Bút danh này cho phép bà tự do khám phá "khu vườn riêng tư và quý giá nhất trong trí tưởng tượng của mình".[14]:366–67[30]:87–88 So với các tác phẩm trinh thám và giật gân thì những cuốn sách này thường nhận về những đánh giá tích cực hơn.[14]:366 Đánh giá về Giant's Bread, tác phẩm văn học chính thống đầu tiên xuất bản năm 1930, một nhà phê bình của tờ The New York Times khen ngợi: "... tác phẩm của bà vượt trội hơn so với mức trung bình của các tiểu thuyết viễn tưởng đương thời, trên thực tế là nó còn vượt trội hơn so với tiêu chí phân loại 'sách hay'. Và chỉ có một tiểu thuyết khiến người đọc hài lòng mới có thể xứng đáng với danh xưng đó."[147] Ngay từ đầu, người ta đã công bố rằng "Mary Westmacott" là bút danh của một tác giả nổi tiếng. Tuy nhiên, danh tính đằng sau bút danh này vẫn được giữ kín. Bìa ngoài của cuốn sách Giant's Bread cũng từng tiết lộ rằng tác giả của tác phẩm này, "dưới danh tính thực của mình...có phân nửa tác phẩm có số lượng bán ra hơn 30 nghìn bản."[j] Sau khi danh tính của Christie là tác giả của bốn tiểu thuyết đầu tiên dưới bút danh Westmacott bị một nhà báo tiết lộ vào năm 1949, bà đã viết thêm hai tác phẩm nữa dưới bút danh này, trong đó tác phẩm cuối cùng ra mắt bạn đọc vào năm 1956.[14]:366

Bên cạnh Giant's Bread, các tác phẩm văn học chính thống khác của Christie dưới bút danh Westmacott là: Unfinished Portrait (1934), Absent in the Spring (1944), The Rose and the Yew Tree (1948), A Daughter's a Daughter (1952) và The Burden (1956).

Tác phẩm phi hư cấu

Bên cạnh các tiểu thuyết hư cấu, Agatha Christie cũng xuất bản một số tác phẩm phi hư cấu. Trong đó, Come, Tell Me How You Live, kể về những trải nghiệm khai quật khảo cổ, lấy cảm hứng từ cuộc sống của bà với Max Mallowan. Bên cạnh đó, The Grand Tour: Around the World with the Queen of Mystery là tập hợp những bức thư ghi lại chuyến hành trình của bà xuyên qua những vùng đất thuộc Đế quốc Anh bao gồm Nam Phi, Australia, New Zealand và Canada vào năm 1922. Ngoài ra, Christie còn sáng tác một cuốn tự truyện mang tên Agatha Christie: An Autobiography. Tác phẩm phát hành vào năm 1977, sau khi bà qua đời. Một năm sau đó, tác phẩm vinh dự đoạt giải "Tác phẩm phê bình/tiểu sử hay nhất" tại giải Edgar.[148]

Nhan đề

Kể từ năm 1940 trở đi, nhiều tác phẩm của Christie có nhan đề đề lấy cảm hứng từ các tác phẩm văn học khác. Thông thường, ngữ cảnh ban đầu của nhan đề sẽ xuất hiện ở phần mở đầu cuốn sách dưới dạng một đoạn "đề từ".[149]

Dưới đây là một số tác phẩm của Agatha Christie sử dụng nhan đề lấy ngữ liệu từ văn chương:

Gillian Gill, nhà nghiên cứu về tiểu sử của Agatha Christie từng nhận xét: "Sáng tác của Christie sở hữu tính cô đọng, không vòng vo, nhịp kể chuyện nhanh và có sức hấp dẫn phổ quát của thể loại truyện cổ tích, và có lẽ chính vì mang tinh thần truyện cổ tích hiện đại dành cho độc giả trưởng thành mà tiểu thuyết của Christie đã thành công vang dội."[129]:208 Ngoài ra, tác phẩm của Christie còn là sự đan xen giữa tính ngây thơ và kinh dị, thể hiện thông qua việc nhiều tựa sách của bà lấy cảm hứng từ những bài hát nổi tiếng dành cho thiếu nhi như And Then There Were None[t] (từ "Ten Little Niggers"[u]),[150] One, Two, Buckle My Shoe[v] (từ "One, Two, Buckle My Shoe"), Five Little Pigs[w] (từ "This Little Piggy"), Crooked House[x] (từ "There Was a Crooked Man"), A Pocket Full of Rye[y] (từ "Sing a Song of Sixpence"), Hickory Dickory Dock (từ "Hickory Dickory Dock") và Three Blind Mice (từ "Three Blind Mice").[129]:207–08

Đánh giá chuyên môn

Colour photograph of a large, book-shaped bronze memorial
Bia tưởng niệm Agatha Christie ở trung tâm thủ đô Luân Đôn

Agatha Christie nổi tiếng với biệt danh "Nữ hoàng trinh thám" (gia đình Christie hiện đã đăng ký thương hiệu cho biệt danh này) hay "Bà hoàng thần bí". Ngoài ra, bà còn là bậc thầy về khả năng tạo ra sự hồi hộp, kịch tích, cùng với khả năng xây dựng cốt truyện cũng như khắc họa nhân vật.[151][152][153][154] Năm 1955, Christie trở thành người đầu tiên nhận giải Grand Master của Hội nhà văn trinh thám Hoa Kỳ.[148] Tại Hội nghị Truyện trinh thám Thế giới Bouchercon năm 2000, bà được tôn vinh là "Nhà văn hay nhất thế kỷ" và loạt truyện về thám tử Hercule Poirot cũng được vinh danh là "Sê ri tác phẩm hay nhất thế kỷ".[155] Năm 2013, 600 nhà văn chuyên nghiệp thuộc Hiệp hội Nhà văn Tội phạm Anh đã bầu chọn Christie là "nhà văn tội phạm xuất sắc nhất".[131] Tuy nhiên, nhà văn Raymond Chandler và nhà văn Julian Symons lại dành những sự chỉ trích về tính thiếu tự nhiên trong tác phẩm của bà.[156][120]:100–30 Còn nhà phê bình văn học Edmund Wilson thì cho rằng văn phong của bà vô vị trong khi cách xây dựng nhân vật thì hời hợt.[157][z]

"Thông qua Christie ... chúng ta không chỉ đơn thuần đang tiếp xúc với một nhân vật văn học mà còn với một hiện tượng văn hóa rộng lớn, giống như Barbie hay The Beatles." ...

Joan Acocella từ tạp chí The New Yorker[160]

Năm 2011, kênh truyền hình chuyên về phim trinh thám tội phạm Alibi đã vinh danh Christie là nhà văn tội phạm thành công về mặt tài chính thứ nhì tại Vương quốc Anh, sau Ian Fleming, tác giả của James Bond, với tổng thu nhập khoảng 100 triệu bảng Anh.[161] Năm 2012, Christie là một trong những nhân vật mà họa sĩ Peter Blake chọn lựa xuất hiện trong phiên bản mới nhất của bìa album Sgt. Pepper's Lonely Hearts Club Band, tác phẩm mà ông yêu thích nhất, nhằm "tôn vinh những nhân vật có ảnh hưởng đến văn hóa nước Anh mà ông ngưỡng mộ nhất".[162][163] Bình luận về sự trường tồn vượt kỷ lục của vở kịch The Mousetrap nhân dịp kỷ niệm 60 năm công diễn vào năm 2012, Stephen Moss từ tờ The Guardian khẳng định: "vở kịch này và tác giả của nó chính là những vì sao".[137]

Vào năm 2015, nhân dịp kỷ niệm 125 năm ngày sinh của Agatha Christie, 25 nhà văn trinh thám đương đại cùng một nhà xuất bản đã bày tỏ quan điểm về các tác phẩm của bà. Theo đó, vài người trong số này chia sẻ rằng họ đã đọc tiểu thuyết của Christie (bằng tiếng Anh và cả tiếng mẹ đẻ) trước khi đọc tác phẩm của các nhà văn viết về đề tài bí ẩn khác. Chính điều này đã tạo nên một sự ảnh hưởng đến phong cách sáng tác của họ. Vì vậy, gần như mọi người đều đồng tình rằng Christie là "Nữ hoàng trinh thám" và những cú plot twist của bà đều là nguồn tư liệu mà nhiều nhà văn áp dụng một cách rộng rãi. Hầu hết những người này đều có ít nhất một hoặc nhiều tác phẩm trinh thám của Christie trên giá sách yêu thích, đồng thời cho biết các sáng tác của bà vẫn đáng đọc sau gần 100 năm kể từ khi tiểu thuyết đầu tiên ra mắt. Trong số 25 tác giả thì chỉ có một người đồng ý với quan điểm của Edmund Wilson.[164]

Doanh số bán sách

Ở thời kỳ đỉnh cao sự nghiệp, cái tên Agatha Christie hiếm khi vắng bóng khỏi danh sách tác phẩm bán chạy nhất.[165] Năm 1948, bà là nhà văn trinh thám đầu tiên có 100.000 bản in cho 10 đầu sách được nhà xuất bản Penguin phát hành trong cùng một ngày.[166][167] Tính đến năm 2018, Sách Kỷ lục Guinness đã liệt Agatha Christie vào danh sách tiểu thuyết gia bán chạy nhất mọi thời đại.[168] Tính đến năm 2020, tiểu thuyết của bà đã bán được hơn 2 tỷ bản và có mặt ở 44 ngôn ngữ khác nhau.[168] Trong đó, một nửa doanh số đến từ bản gốc tiếng Anh và một nửa còn lại đến từ các bản dịch.[169][170] Dựa theo chỉ số Index Translationum, tính đến năm 2020, Christie hiện là nhà văn cá nhân có số lượng tác phẩm dịch ở ngôn ngữ khác nhiều nhất.[171][172]

Không chỉ là một tác gia ăn khách, Agatha Christie còn là gương mặt nổi bật tại các thư viện ở nước Anh với số lượng sách mượn nhiều nhất.[173][174][175][176] Chưa kể, bà còn dẫn đầu trong danh sách tác giả sách nói bán chạy nhất nước này. Năm 2002, số lượng sách nói mà Christie bán ra đạt 117.696 bản, bỏ xa J. K. Rowling với 97,755 bản, Roald Dahl với 78,770 bản và J. R. R. Tolkien với 75,841 bản.[177][178] Năm 2015, tổ chức đại diện của Christie tuyên bố Mười người da đen nhỏ là "tiểu thuyết trinh thám bán chạy nhất mọi thời đại"[179] với khoảng 100 triệu bản, đồng thời cũng án ngữ trong danh sách sách bán chạy nhất.[133][180] Chỉ riêng năm 2020, sách của bà đã bán được hơn 2 triệu bản ở ngôn ngữ tiếng Anh.[181]

Di sản

Tấm biển kỉ niệm đặt tại West End nhằm vinh danh The Mousetrap, vở kịch có thời gian công diễn dài nhất thế giới.

Vào năm 2016, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ra mắt tác phẩm trinh thám đầu tiên của Agatha Christie, Bưu điện Hoàng gia Anh (Royal Mail) đã cho phát hành bộ tem bưu chính hạng nhất mang hình ảnh 6 tác phẩm nổi tiếng của bà: Vụ án bí ẩn ở Styles, Vụ ám sát ông Roger Ackroyd, Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông, Mười người da đen nhỏ, The Body in the LibraryCái chết được báo trước. Ấn phẩm The Guardian bình luận rằng: "Mỗi mẫu thiết kế tem đều chứa các chữ in siêu nhỏ, mực UVmực thermochromic. Những manh mối ẩn giấu này có thể được phát hiện thông qua kính lúp, đèn UV hoặc bằng nhiệt độ cơ thể, qua đó gợi ý những phương pháp giải quyết các bí ẩn trong tác phẩm."[182][183]

Ngoài ra, hình ảnh của Agatha Christie và các nhân vật của bà cũng xuất hiện trên tem bưu chính của nhiều quốc gia như Dominica hay Cộng hòa Somalia.[184] Năm 2020, để kỷ niệm 100 năm ra đời tiểu thuyết đầu tiên của bà, Vụ án bí ẩn ở Styles, Xưởng đúc tiền Hoàng gia Anh lần đầu tiên đã cho phát hành đồng 2 bảng có hình ảnh của Christie.[185]

Vào năm 2023, tại Wallingford, người ta đã cho đúc một bức tượng đồng có kích thước thật, mô tả hình ảnh Agatha Christie đang ngồi trên ghế đá công viên, trên tay cầm một cuốn sách.[186]

Tác phẩm chuyển thể

Các tác phẩm của Agatha Christie đã được chuyển thể thành nhiều phim điện ảnh và phim truyền hình khác nhau. Trong đó, tác phẩm chuyển thể đầu tiên là The Passing of Mr. Quin ra mắt năm 1928. Tác phẩm đầu tiên có sự xuất hiện của thám tử Poirot là bộ phim Alibi, với sự tham gia diễn xuất của Austin Trevor.[187]:14–18 Trong những năm 1960, Margaret Rutherford đảm nhiệm vai diễn bà Marple trong một loạt phim điện ảnh. Dù đánh giá cao diễn xuất của Rutherford, song Christie cho rằng bộ phim đầu tiên trong số này "quá tệ", trong khi những bộ phim kế tiếp lại chẳng khá khẩm hơn là bao.[14]:430–31 Tuy nhiên, ấn tượng của bà thay đổi hoàn toàn khi bộ phim Murder on the Orient Express, do Sidney Lumet làm đạo diễn ra mắt năm 1974. Bộ phim quy tụ dàn diễn viên đình đám, với sự đầu tư chỉn chu và hoành tráng. Sự xuất hiện của Christie tại buổi công chiếu bộ phim ở Luân Đôn cũng là một trong những lần xuất hiện cuối cùng trước công chúng cuối cùng của bà.[14]:476, 482[187]:57 Năm 2017, một bộ phim điện ảnh mới của tác phẩm này ra mắt, do Kenneth Branagh đạo diễn kiêm diễn viên chính, với "bộ ria mép ấn tượng nhất mà khán giả từng thấy trên màn ảnh".[188] Sau tác phẩm này, Branagh tiếp tục bắt tay vào thực hiện hai bộ phim chuyển thể khác. Bộ phim đầu tiên là Án mạng trên sông Nile (2022), lấy cảm hứng từ tiểu thuyết nổi tiếng cùng tên và phần kế tiếp Án mạng ở Venice (2023), dựa trên tiểu thuyết Ngày hội quả bí xuất bản năm 1969.[189][190]

Bộ phim truyền hình Agatha Christie's Poirot (1989–2013), với sự tham gia đóng chính của David Suchet đã trải qua 13 mùa với 70 tập phim. Tác phẩm nhận được chín đề cử giải BAFTA và giành chiến thắng bốn trong số chín đề cử trong giai đoạn 1990–1992.[191] Ngoài ra, trọn bộ 12 tác phẩm về bà Marple cũng được chuyển thể thành loạt phim truyền hình Miss Marple (1984–1992) do Joan Hickson thủ vai chính, với lời nhận định là "bà Marple hoàn hảo của BBC".[14]:500 Bên cạnh đó, 36 tác phẩm của Christie cũng trở thành nguồn cảm hứng cho loạt phim truyền hình Pháp Les Petits Meurtres d'Agatha Christie (2009–2012, 2013–2020).[192][193]

Ngoài ra, sáng tác của Christie còn là đề tài cho các ấn phẩm truyền thanh trên BBC Radio, trò chơi điện tử và cả những tiểu thuyết đồ họa khác.[194][195][196][197]

Tác phẩm

Tiểu thuyết

Năm
xuất bản
Tên nguyên tác Tên bản dịch tiếng Việt Thám tử
1920 The Mysterious Affair at Styles Thảm kịch bí ẩn ở Styles
Đêm bi thảm
Hercule Poirot
1922 The Secret Adversary Địch thủ bí mật

Hãng thám tử tư

Tommy và Tuppence
1923 Murder on the Links Vụ giết người trên sân gôn

Án mạng trên sân golf (NXB Trẻ)

Hercule Poirot
1924 The Man in the Brown Suit Viên kim cương Nam Phi
Nỗi bất hạnh khủng khiếp
Anne Beddingfeld
1925 The Secret of Chimneys Bí mật trong ống nước Chánh thanh tra Battle
1926 The Murder of Roger Ackroyd Vụ ám sát ông Roger Ackroyd (NXB Trẻ) Hercule Poirot
1927 The Big Four Bộ tứ (NXB Trẻ)
Thế giới ngầm
1928 The Mystery of the Blue Train Bí mật chuyến tàu xanh
1929 The Seven Dials Mystery Những chuyện mạo hiểm của Loraine Chánh thanh tra Battle
1930 The Murder at the Vicarage Bí mật trong chiếc vali
Vụ án Prothero
Án mạng ở nhà cha xứ

Án mạng ở nhà mục vụ (NXB Trẻ)

Bà Marple
1931 The Sittaford Mystery 5 giờ 25 phút Thanh tra Narracott
1932 Peril at End House Hiểm họa ở Nhà Kết (NXB Trẻ) Hercule Poirot
1933 Lord Edgware Dies Dao kề gáy
1934 Murder on the Orient Express Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông (NXB Trẻ)
Why Didn't They Ask Evans? Tại sao không là Evans?
Người trong ảnh
Bobby Jones
1935 Three Act Tragedy Bi kịch ba hồi Hercule Poirot
Death in the Clouds Cái chết trên mây
Cái chết giữa thinh không
1936 The A.B.C. Murders Chuỗi án mạng A.B.C
Murder in Mesopotamia Vụ án mạng ở vùng Mesopotamie
Án mạng ở Tây Á
Cards on the Table Những quân bài trên mặt bàn
Quân bài ngửa
1937 Death on the Nile Án mạng trên sông Nile (NXB Trẻ)
Dumb Witness Nhân chứng câm
1938 Appointment with Death Hẹn với tử thần

Hẹn với thần chết (NXB Trẻ)

1938 Hercule Poirot's Christmas Cái chết đêm Noel
Án mạng đêm giáng sinh
1939 And Then There Were None Mười người da đen nhỏ
Đảo thần bí

Và rồi chẳng còn ai (NXB Trẻ)

Murder is Easy Chết như chơi Chánh thanh tra Battle
1940 Sad Cypress Cây bách buồn (NXB Trẻ) Hercule Poirot
One, Two, Buckle My Shoe Một, hai, ba những cái chết bí ẩn Hercule Poirot
1941 Evil Under the Sun Tội lỗi dưới ánh mặt trời
Kỳ nghỉ hè của Poirot
Tội ác dưới ánh mặt trời (NXB Trẻ)
Hercule Poirot
N or M? Người đàn bà hoang dã Tommy và Tuppence
1942 The Body in the Library Xác chết trong thư viện Bà Marple
Five Little Pigs Năm chú heo con (NXB Trẻ) Hercule Poirot
The Moving Finger Ngòi bút tẩm độc Bà Marple
1944 Towards Zero Thời khắc định mệnh Chánh thanh tra Battle
Death Comes as the End Tận cùng là cái chết

Chết chưa phải là hết

1945 Sparkling Cyanide Rượu độc lóng lánh (NXB Trẻ) Đại tá Race
1946 The Hollow Thung lũng bất hạnh Hercule Poirot
1948 Taken at the Flood Đón ngọn triều dâng Hercule Poirot
1949 Crooked House Ngôi nhà cổ quái

Cái chết bí ẩn

Ngôi nhà kỳ dị

Những cái chết bí ẩn

Charles Hayward
1950 A Murder is Announced Cái chết được báo trước Bà Marple
1951 They Came to Baghdad Hẹn gặp ở Bagdad

Điệp vụ thành Bát Đa

Họ đã đến Bagdad

1952 Mrs McGinty's Dead Vụ sát hại bà Mac Ginty Hercule Poirot
They Do It with Mirrors Họ làm nó cùng chiếc gương Bà Marple
1953 A Pocket Full of Rye Một nắm lúa mạch Bà Marple
After the Funeral Sau tang lễ Hercule Poirot
1954 Destination Unknown Kẻ buôn người
1955 Hickory Dickory Dock Hercule Poirot
1956 Dead Man's Folly Ngôi đền của người chết

Người chết không thể nói

Vọng lâu tử thần

Hercule Poirot
1957 4.50 From Paddington Chuyến tàu 16h50 Bà Marple
1958 Ordeal by Innocence Oan trái

Nhân chứng không ai ưa

1959 Cat Among the Pigeons Cú vọ và đàn bồ câu

Con mèo giữa đám bồ câu

Hercule Poirot
1961 The Pale Horse Tình yêu phù thủy

Biệt thự Bạch Mã

Thanh tra Lejeune
1962 The Mirror Crack'd from Side to Side Gương vỡ Bà Marple
1963 The Clocks Những chiếc đồng hồ

Những chiếc đồng hồ kỳ lạ

Hercule Poirot
1964 A Caribbean Mystery Bí ẩn ở Ca-ri-bê Bà Marple
1965 At Bertram's Hotel Bí ẩn khách sạn Bectram

Khách sạn cổ kính

Ở khách sạn bí ẩn

Bà Marple
1966 Third Girl Cô gái thứ ba Hercule Poirot
1967 Endless Night Đêm dài vô tận
Đêm vô tận
1968 By the Pricking of My Thumbs Bằng cách chích ngón cái tôi Tommy và Tuppence
1969 Hallowe'en Party Ngày hội quả bí

Án mạng đêm Hallowe'en

Hercule Poirot
1970 Passenger to Frankfurt Chuyến bay Frankfurt

Hành khách đi Frankfurt

1971 Nemesis Nữ thần báo oán Bà Marple
1972 Elephants Can Remember Theo dấu chân voi

Nợ tình

Hercule Poirot
1973 Postern of Fate
Tiểu thuyết cuối cùng của Christie
Cánh cửa định mệnh Tommy và Tuppence
1975 Curtain
Vụ án cuối cùng của Poirot
Thám tử rời sân khấu Hercule Poirot
1976 Sleeping Murder
Vụ án cuối cùng của Bà Marple
Giết người trong mộng Bà Marple

Tập truyện ngắn

  • 1924, Poirot Investigates (11 truyện ngắn)
  • 1929, Partners in Crime (15 truyện ngắn; về thám tử Tommy và Tuppence)
  • 1930, The Mysterious Mr. Quin (12 truyện ngắn; giới thiệu Sir Harley Quin)
  • 1933, The Hound of Death (12 truyện ngắn)
  • 1933, The Thirteen Problems (13 truyện ngắn; về Bà Marple, còn có tên The Tuesday Club Murders)
  • 1934, Parker Pyne Investigates (12 truyện ngắn; giới thiệu Parker Pyne và Ariadne Oliver, còn có tên Mr. Parker Pyne, Detective)
  • 1934, The Listerdale mystery (12 truyện ngắn)
  • 1937, Murder in the Mews (4 truyện ngắn; về Hercule Poirot, còn có tên Dead Man's Mirror)
  • 1939, Regatta Mystery and Other Stories (9 truyện ngắn)
  • 1947, The Labours of Hercules (12 truyện ngắn; về Hercule Poirot)
  • 1948, The Witness for the Prosecution and Other Stories (11 truyện ngắn) - Nhân chứng buộc tội (NXB Trẻ - 2021)
  • 1950, Three Blind Mice and Other Stories (9 truyện ngắn)
  • 1951, The Under Dog and Other Stories (9 truyện ngắn)
  • 1960, The Adventure of the Christmas Pudding (6 truyện ngắn)
  • 1961, Double Sin and Other Stories (8 truyện ngắn)
  • 1971, The Golden Ball and Other Stories (15 truyện ngắn)
  • 1974, Poirot's Early Cases (18 truyện ngắn)
  • 1979, Miss Marple's Final Cases and Two Other Stories (8 truyện ngắn)
  • 1991, Problem at Pollensa Bay and Other Stories (8 truyện ngắn)
  • 1997, The Harlequin Tea Set (9 truyện ngắn)
  • 1997, While the Light Lasts and Other Stories (9 truyện ngắn)
  • 1997, Death is not the Worst Thing (12 truyện ngắn)

Viết bằng bút danh Mary Westmacott

  • 1930, Giant's Bread
  • 1934, Unfinished Portrait
  • 1944, Absent in the Spring
  • 1948, The Rose and the Yew Tree
  • 1952, A Daughter's a Daughter
  • 1956, The Burden

Kịch

  • 1928, Alibi
  • 1930, Black Coffee
  • 1936, Love from a Stranger
  • 1937, A Daughter's a Daughter (chưa bao giờ diễn)
  • 1940, Peril at End House
  • 1943, Ten Little Indians
  • 1945, Appointment with Death
  • 1946, Murder on the Nile
  • 1949, Murder at the Vicarage
  • 1951, The Hollow
  • 1952, The Mousetrap
  • 1953, Witness for the Prosecution
  • 1954, Spider's Web
  • 1956, Towards Zero
  • 1958, Verdict
  • 1958, The Unexpected Guest
  • 1960, Go Back for Murder
  • 1962, Rule of Three
  • 1972, Fiddler's Three
  • 1973, Aknaton (viết năm 1937)
  • 1977, A Murder is Announced
  • 1981, Cards on the Table
  • 1992, Problem at Pollensa Bay
  • 1993, Murder is Easy
  • 2005, And Then There Were None

Kịch truyền thanh

  • 1937, Yellow Iris
  • 1947, Three Blind Mice
  • 1948, Butter In a Lordly Dish
  • 1960, Personal Call

Kịch truyền hình

  • 1937, Wasp's Nest

Tác phẩm khác

  • 1946, "Come Tell Me How You Live"
  • 1977, "Agatha Christie: An Autobiography"

Chú thích

Ghi chú

  1. ^ Hầu hết những nhà viết tiểu sử đều cho rằng mẹ của Agatha Christie sinh ra ở Belfast, tuy nhiên, họ không cung cấp được nguồn kiểm chứng. Những bằng chứng chủ yếu hiện tại, bao gồm các mục thông tin điều tra dân số, hồ sơ rửa tội và cả bằng chứng phục vụ trong quân đội của cha bà cũng ghi rằng vị trí là ở Dublin, cho thấy rằng rất có thể bà sinh ra ở Dublin trong bốn tháng đầu tiên của năm 1854.[8][9][10]
  2. ^ Boehmer's death registration states he died at age 49 from bronchitis after retiring from the army,[11] but Christie and her biographers have consistently claimed he was killed in a riding accident while still a serving officer.[12]:5[13][4]:2[14]:9–10
  3. ^ Dorothy L. Sayers, who visited the "scene of the disappearance", later incorporated details in her book Unnatural Death.[40]
  4. ^ Thông báo mà Christie đăng trên trang đầu tiên của tờ The Times vào ngày 11 tháng 12 năm 1926 được viết dưới tên Teresa, nhưng chữ ký ghi trên sổ đăng ký khách sạn đọc một cách tự nhiên hơn lại là Tressa. Báo chí cũng cho biết rằng Christie đã dùng cái Tressa trong nhiều dịp khác nhau suốt khoảng thời gian mà bà mất tích (bao gồm việc đến thư viện).[46]
  5. ^ Agatha Christie từng bóng gió đề cập đến việc bản thân bị suy nhược thần kinh trong một lần trò chuyện với một người phụ nữ có biểu hiện tương tự mình: "Tôi nghĩ cô nên cẩn thận, vì đây có thể là dấu hiệu cho việc suy nhược thần kinh."[12]:337
  6. ^ Christie's authorised biographer includes an account of specialist psychiatric treatment following Christie's disappearance, but the information was obtained second or third hand after her death.[4]:148–49, 159
  7. ^ Other authors claim Christie wrote Murder on the Orient Express whilst at a dig at Arpachiyah.[4]:206[30]:111
  8. ^ Theo nhiều nguồn khác nhau, tài sản của bà được định giá là 147.810 bảng Anh.[91]
  9. ^ Mối quan hệ của gia đình Christie với Margaret Miller (nhũ danh West) rất phức tạp. Ngoài việc là bà cô bên ngoại của Christie, Miller còn là mẹ kế của cha Christie và cũng vừa như mẹ nuôi, vừa là mẹ kế của mẹ Christie – vì vậy mà bà mới gọi Miller bằng "Auntie-Grannie"
  10. ^ Mặc dù dữ kiện này căn bản là đúng, nhưng nó đã góp phần che giấu danh tích của Christie thông qua việc nói giảm nói tránh. Bởi lẽ, vào thời điểm phát hành Giant's Bread, Christie đã xuất bản 10 tiểu thuyết và 2 tập truyện ngắn, tất cả đều bán được nhiều hơn 30.000 bản.
  11. ^ Bản dịch tiếng Việt là Cây bách buồn.
  12. ^ Bản dịch tiếng Việt là Đón ngọn triều dâng.
  13. ^ Bản dịch tiếng Việt là Tội ác dưới ánh mặt trời.
  14. ^ Bản dịch tiếng Việt là Tình yêu phù thủy.
  15. ^ Bản dịch tiếng Việt là Gương vỡ.
  16. ^ Bản dịch tiếng Việt là Ngòi bút tẩm độc.
  17. ^ Bản dịch tiếng Việt là Cánh cửa định mệnh.
  18. ^ Bản dịch tiếng Việt là Đêm vô tận.
  19. ^ Bản dịch tiếng Việt là Người đàn bà hoang dã.
  20. ^ Bản dịch tiếng Việt là Mười người da đen nhỏ.
  21. ^ Một bài vè từng được xuất bản với tên "Ten Little Indians", cả hai đều là tiêu đề sách trong một số bản in.
  22. ^ Bản dịch tiếng Việt là Một, hai, ba những cái chết bí ẩn.
  23. ^ Bản dịch tiếng Việt là Năm chú heo con.
  24. ^ Bản dịch tiếng Việt là Ngôi nhà cổ quái.
  25. ^ Bản dịch tiếng Việt là Một nắm lúa mạch.
  26. ^ Năm 1945, Wilson cho ra mắt bài tiểu luận với tựa đề, "Who Cares Who Killed Roger Ackroyd?", tỏ thái độ chê bai, phê phán với thể loại truyện trinh thám nói chung, nhưng không đề cập trực tiếp đến Christie.[158][159]

Tham khảo

  1. ^ “Most translated author”. Guinness World Records. 7 tháng 3 năm 2017.
  2. ^ “Result of world's favourite Christie global vote”. Agatha Christie. 22 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2023.
  3. ^ a b “Obituary. Dame Agatha Christie”. The Times. 13 tháng 1 năm 1976. tr. 16. 'My father,' she [Christie] recalled, 'was a gentleman of substance, and never did a handsturn in his life, and he was a most agreeable man.'
  4. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa ab ac ad ae af ag ah ai aj ak al am an ao ap aq Morgan, Janet P. (1984). Agatha Christie: A Biography. London: HarperCollins. ISBN 978-0-00-216330-9. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
  5. ^ a b Marriage Register. St Peter's Church, Bayswater [Notting Hill], Middlesex, 1878, No. 399, p. 200.
  6. ^ Birth Certificate. General Register Office for England and Wales, 1890 September Quarter, Newton Abbot, volume 5b, p. 151. [Christie's forenames were not registered.]
  7. ^ a b Baptism Register. Parish of Tormohun, Devon, 1890, No. 267, [n.p.].
  8. ^ 1871 England Census. Class: RG10; Piece: 3685; Folio: 134; p. 44
  9. ^ Statement of Services Lưu trữ 26 tháng 10 2019 tại Wayback Machine: Frederick Boehmer, 91st Foot. The National Archives, Kew. WO 76/456, p. 57. [Also states his daughter Clarissa Margaret was baptised in Dublin.]
  10. ^ a b Goff, Gerald Lionel Joseph (1891). Historical records of the 91st Argyllshire Highlanders, now the 1st Battalion Princess Louise's Argyll and Sutherland Highlanders, containing an account of the Regiment in 1794, and of its subsequent services to 1881. R. Bentley. tr. xv, 218–19, 322.
  11. ^ a b Burials in the Parish of St Helier, in the Island of Jersey. 1863. tr. 303.
  12. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w Christie, Agatha (1977). Agatha Christie: An Autobiography. New York City: Dodd, Mead & Company. ISBN 0-396-07516-9.
  13. ^ Robyns, Gwen (1978). The Mystery of Agatha Christie. Garden City, NY: Doubleday & Company, Inc. tr. 13. ISBN 0-385-12623-9.
  14. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa ab ac ad ae af ag ah ai aj ak Thompson, Laura (2008), Agatha Christie: An English Mystery, London: Headline Review, ISBN 978-0-7553-1488-1
  15. ^ Marriage Register. Parish of Westbourne, Sussex, 1863, No. 318, p. 159.
  16. ^ Naturalisation Papers Lưu trữ 24 tháng 10 2019 tại Wayback Machine: Miller, Nathaniel Frary, from the United States. Certificate 4798 issued 25 August 1865. The National Archives, Kew. HO 1/123/4798.
  17. ^ Birth Certificate. General Register Office for England and Wales, 1879 March Quarter, Newton Abbot, volume 5b, p. 162.
  18. ^ “Births”. London Evening Standard. 26 tháng 6 năm 1880. tr. 1.
  19. ^ Death Certificate. General Register Office for England and Wales, 1869 June Quarter, Westbourne, volume 02B, p. 230.
  20. ^ “Auctions. Torquay”. Western Times [Exeter, Devon]. 5 tháng 10 năm 1880. tr. 1.
  21. ^ “Arrivals”. Torquay Times. 20 tháng 5 năm 1881. tr. 4.
  22. ^ a b The Mystery of Agatha Christie – A Trip With David Suchet (Directed by Claire Lewins). Testimony Films (for ITV).
  23. ^ Death Certificate. General Register Office for England and Wales, 1901 December Quarter, Brentford, volume 3A, p. 71. ("Cause of Death. Bright's disease, chronic. Pneumonia. Coma and heart failure.")
  24. ^ “The House of Dreams”. agathachristie.com. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2020.
  25. ^ Curran, John. “75 facts about Christie”. The Home of Agatha Christie. Agatha Christie Limited. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2017.
  26. ^ “War Office, Regular Forces” (28725). The London Gazette. 3 tháng 6 năm 1913. tr. 3914.
  27. ^ Curtis, Fay (24 tháng 12 năm 2014). “Desert Island Doc: Agatha Christie's wartime wedding”. Bristol Museums, Galleries & Archives. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2014.
  28. ^ Marriage Register. Parish of Emmanuel, Clifton, 1914, No. 305, p. 153.
  29. ^ “Agatha Christie – British Red Cross”. British Red Cross. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2019.
  30. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u Osborne, Charles (2001). The Life and Crimes of Agatha Christie: A Biographical Companion to the Works of Agatha Christie. New York City: St. Martin's Press. ISBN 0-312-28130-7.
  31. ^ a b c d e f g Fitzgibbon, Russell H. (1980). The Agatha Christie Companion. Bowling Green, Ohio: The Bowling Green State University Popular Press.
  32. ^ Prichard, Mathew (2012). The Grand Tour: Around The World With The Queen Of Mystery. New York City: HarperCollins Publishers. ISBN 978-0-06-219122-9.
  33. ^ Jones, Sam (29 tháng 7 năm 2011). “Agatha Christie's Surfing Secret Revealed”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2011.
  34. ^ “Agatha Christie 'one of Britain's first stand-up surfers'. The Daily Telegraph. 29 tháng 7 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2011.
  35. ^ “Agatha Christie began riding surfboards standing up at Waikiki - Museum of British Surfing” (bằng tiếng Anh). 24 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2022.
  36. ^ a b “A Penalty of Realism”. The Evening News. Portsmouth, Hampshire. 20 tháng 8 năm 1926. tr. 6.
  37. ^ “100 Police Scour Downs for Missing Woman Novelist”. Yorkshire Evening Post. 6 tháng 12 năm 1926. tr. 1.
  38. ^ “Christie's Life: 1925–1928 A Difficult Start”. The Home of Agatha Christie. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2017.
  39. ^ “Agatha Christie's real-life mystery at the Silent Pool”. BBC News. 17 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2022.
  40. ^ a b c Thorpe, Vanessa (15 tháng 10 năm 2006). “Christie's most famous mystery solved at last”. The Guardian. London. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2013.
  41. ^ Jordan, Tina (11 tháng 6 năm 2019). “When the World's Most Famous Mystery Writer Vanished”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2020.
  42. ^ “The original Gone Girl: Agatha Christie's mysterious disappearance”. The Independent. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2022.
  43. ^ “Mrs Christie Found in a Yorkshire Spa”. The New York Times. 15 tháng 12 năm 1926. tr. 1. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2009.
  44. ^ “Agatha Christie's Harrogate mystery”. BBC News. 3 tháng 12 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2013.
  45. ^ “What really happened when Agatha Christie went missing”. The Times. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2023.
  46. ^ a b “What We Want to Know about Mrs. Christie”. The Leeds Mercury. 16 tháng 12 năm 1926. tr. 1.
  47. ^ “The Details of this Strange Case ...”. Classic Lodges. 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2019.
  48. ^ “My Point is This. What I want to Know About Mrs. Christie”. The Leeds Mercury. 16 tháng 12 năm 1926. tr. 4.
  49. ^ “Medium Looks for Mrs. Christie”. The Leeds Mercury. 16 tháng 12 năm 1926. tr. 9.
  50. ^ a b “Two Doctors Examine Mrs. Christie”. The Leeds Mercury. 17 tháng 12 năm 1926. tr. 1.
  51. ^ “Mrs Christie. Doctors Certify Loss of Memory”. Western Daily Press. 17 tháng 12 năm 1926. tr. 12.
  52. ^ “Dissociative Fugue”. Psychology Today. 17 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2013.
  53. ^ Cade, Jared (1997), Agatha Christie and the Missing Eleven Days, Peter Owen, ISBN 0-7206-1112-1
  54. ^ Adams, Cecil (2 tháng 4 năm 1982), “Why did mystery writer Agatha Christie mysteriously disappear?”, The Chicago Reader, lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 9 năm 2008, truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2008
  55. ^ “Mrs. Christie Leaves”. Daily Herald. 24 tháng 1 năm 1927. tr. 1.
  56. ^ Inwards Passenger Lists Lưu trữ 30 tháng 10 2019 tại Wayback Machine. The National Archives, Kew. Board of Trade: Commercial and Statistical Department and successors, BT26/837/112.
  57. ^ “Col. Christie Married”. Gloucestershire Echo. 6 tháng 11 năm 1928. tr. 5 [Includes divorce details].
  58. ^ “Mrs. Christie. Novelist Granted Decree Nisi”. The Yorkshire Post. 21 tháng 4 năm 1928. tr. 17.
  59. ^ a b “Interview with Max Mallowan”. BBC. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2017.
  60. ^ Marriage Certificate. Scotland – Statutory Register of Marriages, 685/04 0938, 11 September 1930, District of St Giles, Edinburgh.
  61. ^ “World-famous Author Agatha Christie and The Mysterious Story of Her Lost 11 Days”. Pera Palace Hotel (bằng tiếng Anh). 19 tháng 9 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2020.
  62. ^ “Dame Agatha Christie & Sir Max Mallowan”. Oxfordshire Blue Plaques Scheme. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2020.
  63. ^ “Sinodun Players”. Sinodun Players. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2018.
  64. ^ “Agatha's Greenway”. National Trust (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2020.
  65. ^ Wagstaff, Vanessa; Poole, Stephen (2004), Agatha Christie: A Reader's Companion, Aurum Press, tr. 14, ISBN 1-84513-015-4
  66. ^ Worsley, Lucy (2022) Agatha Christie, Hodder & Stoughton
  67. ^ “Thallium poisoning in fact and in fiction”. The Pharmaceutical Journal. 277: 648. 25 tháng 11 năm 2006. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2019.
  68. ^ John Emsley, "The poison prescribed by Agatha Christie" Lưu trữ 25 tháng 9 2015 tại Wayback Machine, The Independent, 20 July 1992.
  69. ^ a b Richard Norton-Taylor (4 tháng 2 năm 2013). “Agatha Christie was investigated by MI5 over Bletchley Park mystery”. The Guardian. London. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2013.
  70. ^ “Central Chancery of the Orders of Knighthood” (Supplement: 40669). The London Gazette. 30 tháng 12 năm 1955. tr. 11. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2020.
  71. ^ “D.B.E.” (Supplement: 45262). The London Gazette. 31 tháng 12 năm 1970. tr. 7. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2020.
  72. ^ Kastan, David Scott (2006). The Oxford Encyclopedia of British Literature. 1. Oxford University Press. tr. 467. ISBN 978-0-19-516921-8.
  73. ^ Reitz, Caroline (2006), “Christie, Agatha”, The Oxford Encyclopedia of British Literature (bằng tiếng Anh), Oxford University Press, doi:10.1093/acref/9780195169218.001.0001, ISBN 978-0-19-516921-8, lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 11 năm 2019, truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2019
  74. ^ “Knights Bachelor”. The London Gazette (Supplement: 44600). 31 tháng 5 năm 1968. tr. 6300. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2020.
  75. ^ Devlin, Kate (4 tháng 4 năm 2009). “Agatha Christie 'had Alzheimer's disease when she wrote final novels'. The Daily Telegraph. London. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2009.
  76. ^ Flood, Alison (3 tháng 4 năm 2009). “Study claims Agatha Christie had Alzheimer's”. The Guardian. London. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2009.
  77. ^ “The Real Agatha Christie”. The Sydney Morning Herald. 30 tháng 4 năm 1946. tr. 6. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2019.
  78. ^ “Data for financial year ending 05 April 2018 – The Agatha Christie Trust For Children”. Registered Charities in England and Wales. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2019.
  79. ^ “Agatha Christie memorial fund”. The Times. 27 tháng 4 năm 1976. tr. 16.
  80. ^ a b “1976: Crime writer Agatha Christie dies”. BBC on this Day. 12 tháng 1 năm 1976. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2019.
  81. ^ “Deaths”. The Times. 14 tháng 1 năm 1976. tr. 26.
  82. ^ Yurdan, Marilyn (2010). Oxfordshire Graves and Gravestones. Stroud: The History Press. ISBN 978-0752452579.
  83. ^ “St. Marys Cholsey – Agatha Christie”. St Marys Cholsey. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2020.
  84. ^ a b c d e "Obituary: Rosalind Hicks" Lưu trữ 8 tháng 3 2021 tại Wayback Machine, The Daily Telegraph, 13 November 2004. Retrieved 25 January 2015.
  85. ^ “1976: Crime writer Agatha Christie dies”. BBC on this Day. 12 tháng 1 năm 1976. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2019.
  86. ^ “Booker is ready for more”. The Newcastle Journal. 16 tháng 9 năm 1977. tr. 4.
  87. ^ a b c Acorn Media buys stake in Agatha Christie estate Lưu trữ 26 tháng 4 2017 tại Wayback Machine, The Guardian, 29 December 2012.
  88. ^ “1976: Crime writer Agatha Christie dies”. bbc. 12 tháng 1 năm 1976. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2020.
  89. ^ Bernthal, J. C. (2016). Queering Agatha Christie: Revisiting the Golden Age of Detective Fiction (bằng tiếng Anh). Springer. tr. 1–24. ISBN 978-3-319-33533-9. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  90. ^ “Books:Agatha Christie: The Queen of the Maze”. Time. 26 tháng 1 năm 1976. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2020.
  91. ^ "Find a will" Lưu trữ 19 tháng 9 2019 tại Wayback Machine. Gov.uk. Retrieved 22 November 2020
  92. ^ “£106,000 will of Dame Agatha Christie”. The Times. 1 tháng 5 năm 1976. tr. 2.
  93. ^ a b Agatha Christie begins new chapter after £10m selloff Lưu trữ 17 tháng 5 2014 tại Wayback Machine, The Free Library, 4 June 1998.
  94. ^ “Poirot investigates his last mystery at Greenway”. NationalTrust.org.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2014.
  95. ^ Taylor, Jerome. “The Big Question: How big is the Agatha Christie industry, and what explains her enduring appeal?”. The Independent. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2015.
  96. ^ “About Agatha Christie Limited”. The Home of Agatha Christie. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2020.
  97. ^ “Why do we still love the 'cosy crime' of Agatha Christie?”. The Independent. 14 tháng 9 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2019.
  98. ^ Sweney, Mark (29 tháng 2 năm 2012). “Acorn Media buys stake in Agatha Christie estate”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2012.
  99. ^ “RLJ Entertainment”. RLJ Entertainment. 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2020.
  100. ^ "New era for BBC as the new home of Agatha Christie adaptations" Lưu trữ 23 tháng 3 2014 tại Wayback Machine, Radio Times, 28 February 2014. Retrieved 25 January 2015.
  101. ^ “Partners in Crime – Episode Guide”. BBC One. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2016.
  102. ^ “And Then There Were None”. BBC One. 28 tháng 12 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2016.
  103. ^ “BBC One plans lots more Agatha Christie”. BBC News (bằng tiếng Anh). 24 tháng 8 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2020.
  104. ^ “The Witness for the Prosecution”. BBC One (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2020.
  105. ^ “Ed Westwick removed from BBC Agatha Christie drama Ordeal By Innocence”. BBC News. 5 tháng 1 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2018.
  106. ^ “Ordeal by Innocence”. BBC One. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2019.
  107. ^ “All-star cast announced for new BBC One Agatha Christie thriller The ABC Murders”. BBC. 24 tháng 5 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2019.
  108. ^ “The ABC Murders Begins on BBC One on Boxing Day at 9pm”. BBC Media Centre. 15 tháng 12 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2018.
  109. ^ BBC One announces new Agatha Christie thriller The Pale Horse Lưu trữ 25 tháng 9 2020 tại Wayback Machine, 24 June 2019, Mammoth Screen
  110. ^ Paul Hirons, "Death Comes As The End to be the next BBC Agatha Christie adaptation Lưu trữ 22 tháng 1 2021 tại Wayback Machine", The Killing Times. 29 December 2018
  111. ^ Simpson, Craig (25 tháng 3 năm 2023). “Agatha Christie classics latest to be rewritten for modern sensitivities”. The Telegraph. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2023.
  112. ^ Gross, John (2006). The New Oxford Book of Literary Anecdotes. Oxford University Press. tr. 267. ISBN 978-0199543410.
  113. ^ a b Mills, Selina (15 tháng 9 năm 2008). “Dusty clues to Christie unearthed”. BBC News. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2020.
  114. ^ Vaughan, Susan (25 tháng 1 năm 2018). “Dame Agatha and Her Orient Express”. Maine Crime Writers. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2019.
  115. ^ Hobbs, JD (6 tháng 8 năm 1975). “Poirot's Obituary”. US: Poirot. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2020.
  116. ^ Lask, Thomas (6 tháng 8 năm 1975). “Hercule Poirot Is Dead; Famed Belgian Detective”. The New York Times. US. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2020.
  117. ^ “The Monogram Murders”. Agatha Christie.com. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2015.
  118. ^ a b “An interview with Sophie Hannah”. The Home of Agatha Christie (bằng tiếng Anh). 22 tháng 8 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2020.
  119. ^ “The Mystery of Three Quarters”. HarperCollins Publishers. 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2020.
  120. ^ a b c Symons, Julian (1972). Mortal Consequences: A History from the Detective Story to the Crime Novel. New York City: Harper & Row, Publishers.
  121. ^ Winn, Dilys (1977). Murder Ink: The Mystery Reader's Companion. New York: Workman Publishing. tr. 3.
  122. ^ Mezel, Kathy (2007). “Spinsters, Surveillance, and Speech: The Case of Miss Marple, Miss Mole, and Miss Jekyll”. The Journal of Modern Literature. 30 (2): 103–20. doi:10.2979/JML.2007.30.2.103. JSTOR 4619330. S2CID 162411534.
  123. ^ Beehler, Sharon A. (1998). “Close vs. Closed Reading: Interpreting the Clues”. The English Journal. 77 (6): 39–43. doi:10.2307/818612. JSTOR 818612.
  124. ^ a b c d Curran, John (2009). Agatha Christie's Secret Notebooks: Fifty Years of Mysteries in the Making. London: HarperCollins. ISBN 978-0-06-200652-3.
  125. ^ Gerald, Michael C. (1993). The Poisonous Pen of Agatha Christie. Austin, Texas: University of Texas Press. ISBN 0-292-76535-5.
  126. ^ “John Curran author”. HarperCollinsPublishers. 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2020.
  127. ^ a b Curran, John (2011). Agatha Christie: Murder in the Making. London: HarperCollins. ISBN 978-0062065445.
  128. ^ James, P.D. (2009). Talking About Detective Fiction. Random House. ISBN 978-0-307-39882-6. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2016.
  129. ^ a b c d Gillian, Gill (1990). Agatha Christie: The Woman and Her Mysteries. New York City: The Free Press. ISBN 002911702X.
  130. ^ Aldiss, Brian. “BBC Radio 4 – Factual – Desert Island Discs”. BBC. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2009.
  131. ^ a b Brown, Jonathan (5 tháng 11 năm 2013). “Agatha Christie's The Murder of Roger Ackroyd voted best crime novel ever”. The Independent. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2014.
  132. ^ Scott, Sutherland (1953). Blood in Their Ink. London: Stanley Paul. Cited in Fitzgibbon (1980). p. 19.
  133. ^ a b Flood, Alison (2 tháng 9 năm 2015). “And Then There Were None declared world's favourite Agatha Christie novel”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2017.
  134. ^ Pendergast, Bruce (2004), Everyman's Guide to the Mysteries of Agatha Christie, Victoria, BC, Canada: Trafford, tr. 399, ISBN 1-4120-2304-1
  135. ^ Simpson, Craig (25 tháng 3 năm 2023). “Agatha Christie classics latest to be rewritten for modern sensitivities”. The Telegraph. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2023.
  136. ^ Vervel, Marc (2022). 'Mystery' Beyond Reason: Mr. Quin, a Revealer of the Powers of Fiction According to Agatha Christie?” (PDF). Clues: A Journal of Detection. 40 (2): 39-48. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2023.
  137. ^ a b c d Moss, Stephen (21 tháng 11 năm 2012). “The Mousetrap at 60: Why is this the world's longest-running play?”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2020.
  138. ^ Thompson, Laura (2008), Agatha Christie: An English Mystery, London: Headline Review, p. 277, 301. ISBN 978-0-7553-1488-1
  139. ^ Thompson, Laura (2008), Agatha Christie: An English Mystery, London: Headline Review, p. 360. ISBN 978-0-7553-1488-1
  140. ^ Brantley, Ben (26 tháng 1 năm 2012). “London Theater Journal: Comfortably Mousetrapped”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2012.
  141. ^ The Mousetrap website Lưu trữ 23 tháng 6 2015 tại Wayback Machine, the-mousetrap.co.uk. Retrieved 2 June 2015.
  142. ^ “The History”. The Mousetrap (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2020.
  143. ^ “The West End and UK Theatre venues shut down until further notice due to coronavirus”. London Theatre Direct (bằng tiếng Anh). 17 tháng 3 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2020.
  144. ^ “The London theatres that are closed due to coronavirus”. Evening Standard (bằng tiếng Anh). 22 tháng 4 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2020.
  145. ^ Lawson, Mark (5 tháng 5 năm 2021). “The case of the Covid-compliant murder: how The Mousetrap is snapping back to life”. The Guardian (bằng tiếng Anh). London. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2022.
  146. ^ Phukan, Vikram (4 tháng 12 năm 2018). “Everyone loves an old-fashioned murder mystery”. The Hindu. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2020.
  147. ^ “Book Review”. The New York Times. 17 tháng 8 năm 1930. tr. 7.
  148. ^ a b “Edgars Database – Search the Edgars Database”. The Edgars. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2020.
  149. ^ Hopkins, Lisa (2016). “Who Owns the Wood? Appropriating A Midsummer Night's Dream”. Trong Hopkins, L. (biên tập). Shakespearean Allusion in Crime Fiction. Cham, Switzerland: Springer. tr. 63–103. ISBN 978-1137538741.
  150. ^ McAllister, Pam (2001). “Ten Little Who?”. Trong Riley, Dick; McAllister, Pam; Cassiday, Bruce (biên tập). The Bedside, Bathtub & Armchair Companion to Agatha Christie (ấn bản 2). New York City; London: Continuum. tr. 144–45. ISBN 0-8264-1375-7. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2020.
  151. ^ “QUEEN OF CRIME Trademark of Agatha Christie Limited”. Justia. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2022.
  152. ^ Wagoner, Mary S. (1986). Agatha Christie. Boston: Twayne Publishers. ISBN 0-8057-6936-6.
  153. ^ Riley, Dick; McAllister, Pam; Cassiday, Bruce biên tập (2001), The Bedside, Bathtub & Armchair Companion to Agatha Christie (ấn bản 2), New York City; London: Continuum, tr. 240, ISBN 978-0826413758, lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 5 năm 2021, truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2020
  154. ^ Engelhardt, Sandra (2003). The Investigators of Crime in Literature. Marburg: Tectum Verlag. tr. 83. ISBN 978-0805769364. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2020.
  155. ^ “Winners and Nominees 2000s”. Bouchercon (bằng tiếng Anh). 22 tháng 9 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2020.
  156. ^ Chandler, Raymond (1950). “The Simple Art of Murder: An Essay”. The Simple Art of Murder. Houghton Mifflin Company. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2020.
  157. ^ Wilson, Edmund (14 tháng 10 năm 1944). “Why Do People Read Detective Stories?”. The New Yorker. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2020.
  158. ^ Wilson, Edmund (20 tháng 1 năm 1945). “Who Cares Who Killed Roger Ackroyd?”. The New Yorker. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2017.
  159. ^ “Edmund Wilson on Crime Fiction”. The Crazy Oik. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2020.
  160. ^ Acocella, Joan. “Queen of Crime”. The New Yorker (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2020.
  161. ^ “Crime Writer Rich List”. Alibi. 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2020.
  162. ^ “New faces on Sgt Pepper album cover for artist Peter Blake's 80th birthday”. The Guardian. 13 tháng 11 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2016.
  163. ^ “Sir Peter Blake's new Beatles' Sgt Pepper's album cover”. BBC. 13 tháng 11 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2018.
  164. ^ Doyle, Martin (15 tháng 9 năm 2015). “Agatha Christie: genius or hack? Crime writers pass judgment and pick favourites”. The Irish Times. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2015.
  165. ^ “and then there were 75 facts about the queen of crime agatha christie”. gamesindustry. 24 tháng 10 năm 2005. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2020.
  166. ^ “Special Stamps to commemorate Agatha Christie – the biggest-selling novelist of all time”. rmspecialstamps. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2020.
  167. ^ “Where Are They Now?”. Penguin. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2020.
  168. ^ a b “Five record-breaking book facts for National Bookshop Day”. Guinness World Records. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2020.
  169. ^ “Five record-breaking book facts for National Bookshop Day”. Guinness World Records (bằng tiếng Anh). 4 tháng 10 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2020. 78 crime novels have sold an estimated 2 billion copies in 44 languages
  170. ^ “About Agatha Christie”. Agatha Christie Ltd. 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2020. Her books have sold over a billion copies in the English language and a billion in translation.
  171. ^ UNESCO Statistics. “Index Translationum – "Top 50" Author”. Official website of UNESCO. United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization (UNESCO). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2020.
  172. ^ “Who is the world's most translated author?”. thewordpoint.com (bằng tiếng Anh). 23 tháng 5 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2020.
  173. ^ “List:The most borrowed library books and authors in UK 2011–2012 Children's library borrowing continues to increase”. infodocket. 8 tháng 2 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2020.
  174. ^ “crime fiction steals top slot in UK library loans”. thegurdian. 5 tháng 2 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2020.
  175. ^ “Jacqueline Wilson most loaned author”. bbc. 12 tháng 2 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2020.
  176. ^ “Sorry, Harry Potter – it is Danielle Steel who casts the greatest spell over UK library readers”. inews. 23 tháng 11 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2020.
  177. ^ “Agatha Christie Inspires Video Game”. writerswrite. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2020.
  178. ^ Best Sellers of All Time: Fiction. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2020 – qua audible.
  179. ^ “125 Years of Agatha Christie”. The Home of Agatha Christie (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2020.
  180. ^ McClurg, Jocelyn (18 tháng 5 năm 2016). “Agatha Christie hits USA Today's list”. USA Today. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2020.
  181. ^ “Agatha Christie mysteries are still raking in the cash a century on”. marketplace.org. 28 tháng 9 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2021.
  182. ^ Flood, Alison (15 tháng 9 năm 2016). “New Agatha Christie stamps deliver hidden clues”. The Guardian. London. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2020.
  183. ^ “Royal Mail issues Special Stamps to celebrate Agatha Christie”. The Home of Agatha Christie (bằng tiếng Anh). 15 tháng 9 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2020.
  184. ^ “Agatha Christie Postage Stamps, 1996–2016”. literaryladiesguide. 7 tháng 10 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2020.
  185. ^ “New coins 2020 celebrate Agatha Christie Tokyo Olympians George III VE day”. thegurdian. tháng 1 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2020.
  186. ^ Ella Creamer. "Agatha Christie statue takes seat on bench in Oxfordshire town". The Guardian, 11 September 2023.
  187. ^ a b Palmer, Scott (1993). The Films of Agatha Christie. London: B.T. Batsford Ltd. ISBN 0-7134-7205-7.
  188. ^ Debruge, Peter (2 tháng 11 năm 2017). “Film Review: 'Murder on the Orient Express'. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2020.
  189. ^ Wiseman, Andreas (1 tháng 10 năm 2019). “Fox & Kenneth Branagh's All-Star Agatha Christie Movie 'Death On The Nile' Begins Production In UK”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2023.
  190. ^ Vlessing, Etan (19 tháng 7 năm 2023). “Kenneth Branagh Battles Supernatural Forces in 'Haunting in Venice' Trailer”. The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2023.
  191. ^ “BAFTA Awards Database”. BAFTA.org. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2020.
  192. ^ “Les Petits Meurtres d'Agatha Christie”. The Home of Agatha Christie (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2020.
  193. ^ “Les petits meurtres d'Agatha Christie”. France TV (bằng tiếng Pháp). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2020.
  194. ^ “BBC Radio 4 Extra – Hercule Poirot – Episode guide”. BBC (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2020.
  195. ^ “BBC Radio 4 Extra – Miss Marple – Episode guide”. BBC (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2020.
  196. ^ “Games”. The Home of Agatha Christie (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2020.
  197. ^ “Agatha Christie Graphic Novels Series”. goodreads. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2020.

Thư mục

Liên kết ngoài