Thành viên:Ltn12345/Chiến tranh Việt–Chiêm (1367–1396)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chiến tranh Việt–Chiêm (1367–1396)
Một phần của chiến tranh Việt–Chiêm
Thời gian1367–1396
Địa điểm
Kết quả Đại Việt chiến thắng kiểu Pyrros
Thay đổi
lãnh thổ
Không có sự thay đổi về lãnh thổ
Tham chiến
Chiêm Thành Đại Việt
Chỉ huy và lãnh đạo
Chế Bồng Nga  
Simhavarman VI
Trần Húc
Trần Nghệ Tông
Trần Duệ Tông  
Lê Quý Ly
Đỗ Tử Bình
Lực lượng
200,000 220,000
Thương vong và tổn thất
rất nặng nề rất nặng nề; Đại Việt mất gần một phần ba dân số (800,000) từ 2,4 triệu (1340) xuống còn 1,6 triệu[2][3]

Chiến tranh Việt–Chiêm (1367–1396) là cuộc chiến giữa nước Đại Việt thời hậu kỳ nhà Trần và nước Chiêm Thành do Chế Bồng Nga (1360 - 1390) lãnh đạo. Vào những năm 1330, Đại ViệtĐế chế Khmer trở nên suy yếu do biến đổi khí hậu, bệnh dịch lan rộng, nạn đói tràn lan, góp phần vào sự hồi sinh của Chiêm Thành vào thế kỷ 14.[4] Năm 1360, Chế Bồng Nga, con vua Chế A Nan lên ngôi, thống nhất người Chăm, và yêu cầu Trần Dụ Tông trả lại hai châu Ô và Lý (Quảng TrịThừa Thiên Huế ngày nay) vào năm 1367. Từ chối yêu cầu này, Trần Dụ Tông cử quân tiến đánh Chiêm Thành nhưng bị đẩy lui. Đây là cuộc chiến đầu tiên giữa hai quốc gia kể từ năm 1132, cuộc xung đột tàn khốc nhất kể từ cuộc xung đột đầu tiên từ trước đó bốn thế kỷ.

Đây cũng là lần đầu tiên vũ khí thuốc súng và hỏa khí sát thương được đưa vào sử dụng trong chiến tranh ở Đông Dương, một yếu tố quyết định thắng lợi của quân Đại Việt trong trận Hải Triều, nơi Chế Bồng Nga bị giết năm 1390.[5][6] Kết thúc chiến tranh, cả hai bên đều cạn kiệt nguồn nhân lực và vật lực, đạt được rất ít thành quả trong khi phải chịu đựng thiệt hại lớn. Nhà Trần mất quyền lực vào tay Lê Quý Ly năm 1400, rồi bị xâm lược bởi nhà Minh vào năm 1406.[7] Dòng tộc Lê của Lê Lợi nổi lên vào những năm 1410–1420 để lãnh đạo thành công cuộc khởi nghĩa giành độc lập.[8] Chiêm Thành suy yếu không thể lấy lại sức mạnh như trước và dần dần bị Đại Việt thôn tính.[9][10]

Bối cảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyên nhân của cuộc xung đột bắt đầu từ sau cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông thắng lợi trong thế kỷ 13. Liên minh chống triều đại nhà Nguyên đã đưa Đại ViệtChăm Pa, vốn thù địch, xích lại gần nhau.[11][12] Năm 1306, nhà Trần đã gả công chúa Huyền Trân cho vua Chế Mân của Chiêm Thành.[13][14] Chế Mân nhượng hai châu Ô và Lý [note 1] cho Đại Việt làm quà cưới.[15][16] Nhà Trần đổi tên hai vùng đất này thành Hóa Châu và Thuận Châu.[17] Năm 1307, Chế Mân chết, theo tục lệ Chiêm Thành thì Huyền Trân phải bị hỏa thiêu để táng theo.[11][note 2] Vua Trần Anh Tông sai Trần Khắc Chung mượn tiếng thăm viếng và dùng kế đưa Huyền Trân về nước. Điều này được coi là một nỗi ô nhục đối với Chiêm Thành.[19] Vì vậy con trai của Chế Mân, Chế Chí không phục nhà Trần, có ý đòi lại đất Ô Rí đã dâng. Năm 1311, Trần Anh Tông mang đại quân đi đánh Chiêm. Đến trại Câu Chiêm, Anh Tông dụ Chế Chí. Chế Chí biết mình thế yếu bèn theo đường biển ra hàng. Anh Tông tuy phong Chế Chí làm vương nhưng bắt về giam lỏng ở Gia Lâm, đưa em của ông là Chế Năng lên thay thế, trở thành chư hầu của nhà Trần.[17][20][21] Năm 1313, Chế Chí chết tại Gia Lâm. Chế Năng nổi dậy , nhưng bị Trần Minh Tông đánh bại vào năm 1318 và chạy trốn ra Java.[22][17] Chiêm Thành bị Đại Việt chiếm đóng trong tám năm sau đó.[23]

Vào thế kỷ thứ XIV, Đại Việt đã phải chịu một loạt suy thoái kinh tế do biến đổi khí hậu, hạn hán và mùa màng thất bát cùng với những biến động xã hội và xung đột ý thức hệ giữa Phật giáo và tầng lớp văn nhân sĩ phu.[24] Người Chăm, trong khi đó, dưới sự lãnh đạo của Chế A Nan đã giành lại độc lập vào năm 1326.[21][25] Nền kinh tế Chiêm Thành phục hồi, thương mại và công nghiệp của họ phát triển mạnh mẽ trong khi các nước láng giềng như Đế quốc Khmer và Đại Việt đều suy yếu và đang phải chiến đấu chống lại các cuộc đột kích của người Thái từ phía tây.[26] Vào năm 1342, vua Chế A Nan mất, Trà Hòa Bố Để tự lập làm vua kế tục, bèn sai người sang Đại NguyênAn Nam báo tang. Ngay sau đó, con trai ông tên Chế Mỗ và Trà Hòa gây ra cuộc tranh ngôi trong 6 năm. Rốt cuộc, Chế Mỗ thua phải chạy sang An Nam nương tựa, Trà Hòa thừa thế càng vững ngôi.[27][28] Đến năm 1353, hoàng đế Trần Dụ Tông sai quan quân hộ tống Chế Mỗ về nước, nhưng vừa đến nơi hiện nay là Cổ Lũy thì bị quân Chiêm Thành vây đánh, quân Trần cự không nổi phải rút lui.[29][30] Chớp thời cơ, quân Chiêm Thành liên tục tràn lên cướp phá miền Thuận Hóa, người Đại Việt ở đó phần nhiều bị bắt giết rất thê thảm. Sự bất lực của nhà Trần càng tạo đà cho vua Trà Hòa củng cố tiềm lực quốc gia, từ đó gây tiền đề cho sự cường thịnh của Chiêm Thành suốt hơn một thế kỷ sau.[17]

Bùng phát chiến tranh[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi vua Trà Hòa mất, vào năm 1360, Chế Bồng Nga, con trai út của vua Chế A Nan, được quần thần tôn làm Raja- di-raja (Vua của Chiêm Thành).[31] Sau khi lên ngôi được một thời gian, Chế Bồng Nga nhận thấy quân đội nhà Trần không còn hùng mạnh như trước nên có ý muốn đưa quân Bắc phạt. Năm 1361, Chế Bồng Nga đem quân đi theo đường biển tiến đánh cửa biển Dĩ Lý (thuộc tỉnh Quảng Bình ngày nay) khiến quan quân Đại Việt phải bỏ chạy. Quân Chiêm cướp phá và tàn sát dân chúng rồi quay trở ra biển. Vua Trần Dụ Tông lập tức ra lệnh cho phòng thủ. Đến năm sau, người Chăm lại sang quấy phá Hóa châu, đốt cháy nhiều nhà cửa. Vua Trần sai Đỗ Tử Bình đem binh chống giữ, củng cố và tái tổ chức các binh đội vùng Thuận Hóa.[‡ 1]

Vào năm 1365, nhân dịp nam nữ vui chơi ngày xuân, người Chăm đã phục kích sẵn ở các vùng đồi núi chung quanh bất ngờ xông ra bắt cóc đám thanh niên này rồi chạy mất. Một năm sau, người Chăm tiếp tục sử dụng chiêu thức cũ nhưng tướng Trần là Phạm A Song đã dự phòng trước nên phản công đánh đuổi được. Dù các tướng biên giới nhà Trần đẩy lui được quân Chiêm nhưng các cuộc cướp phá không chấm dứt. Năm 1368, Chế Bồng Nga cử sứ sang, yêu cầu Trần Dụ Tông trả lại hai châu cũ.[32] Vua Trần đáp trả bằng cách đưa quân tấn công vào Indrapura[note 3], nhưng bị đẩy lui.[33][34] Những sự kiện này mở đầu cho các cuộc đụng độ giữa người Việt và người Chăm kéo dài trong ba thập kỷ tiếp theo.

Diẽn biến[sửa | sửa mã nguồn]

Chiếm Thăng Long lần 1 (1371)[sửa | sửa mã nguồn]

Trần Dụ Tông không có con nên khi chết có di chiếu truyền ngôi cho Dương Nhật Lễ làm người kế vị, một người không thuộc dòng dõi họ Trần, dẫn đến 2 cuộc đảo chính do các tông thất nhà Trần lãnh đạo.[35] Dương Nhật Lễ bị phế truất và bị xử tử vào năm sau khi hoàng tộc nhà Trần lấy lại quyền lực. Hoàng tử Trần Phủ lên ngôi lấy hiệu là Trần Nghệ Tông. Sau khi Dương Nhật Lễ mất, mẹ ông sang Chiêm Thành cầu cứu vua Chế Bồng Nga sang đánh Đại Việt báo thù và báo cáo tình hình biên giới và sự suy yếu của nhà Trần.[36][37] Năm 1371, ông dẫn đầu một hạm đội, cùng với thủ hạ là La Khải, tiến ra Bắc. Hạm đội đi qua Vịnh Bắc Bộ, đánh vào cửa Đại An[note 4], và tấn công đồng bằng sông Hồng vào mùa xuân năm 1371. Quân Trần chống cự không nổi. Vua Trần Nghệ Tông phải đi thuyền qua sông chạy sang Đông Ngàn để tránh ở Cổ Pháp, làng Đình Bảng. Ngày 27 tháng 3, quân Chăm tiến vào kinh đô Thăng Long, cướp phá cung điện, bắt phụ nữ, lấy của cải ngọc lụa mang về.[38] Kinh thành bị cướp sạch trơn.[36] Quân Chiêm rút về nước. Trần Nghệ Tông trở lại kinh đô, cho xây dựng sửa sang lại, dùng người tông thất đứng ra làm chứ không dùng sức dân.[39][40]

Trận Đồ Bàn và chiếm Thăng Long 2 lần[sửa | sửa mã nguồn]

Noi gương đời trước của nhà Trần thường giữ chế độ Hoàng đế và Thái thượng hoàng cùng trị nước, năm 1372, Nghệ Tông nhường ngôi cho em là Trần Kính và lên làm Thái thượng hoàng. Trần Kính lên ngôi, tức là Trần Duệ Tông.

Năm 1372, Chế Bồng Nga dâng biểu cho Minh Thái Tổ kể tội Đại Việt đem binh sang chiếm đất, yêu cầu Trung Quốc bảo vệ và cung cấp tiếp tế.[41][‡ 2] Tuy nhiên theo sử Việt, nhà Trần không hề động binh trong thời kỳ này và đây là một sự vu cáo của Chế Bồng Nga, chỉ cốt sao nhà Minh để yên cho người Chiêm Thành lộng hành. Chu Nguyên Chương sau đó đã xuống chiếu bắt hai nước không được gây sự chiến tranh.[42][‡ 3]

Tháng 6 năm 1376, Chế Bồng Nga mở cuộc tấn công vào Hoá Châu. Trần Duệ Tông sai Đỗ Tử Bình dẫn quân đi đánh. Chế Bồng Nga sai người sang xin dâng 10 mâm vàng xin giảng hòa. Nhưng Tử Bình giấu vàng đi, lại tâu về triều rằng vua Chiêm kiêu ngạo không thần phục.[43][44][45] Trần Duệ Tông nổi giận, cầm 120.000 quân đánh Chiêm Thành.[‡ 4] Ông sai Lê Quý Ly vận chuyển quân nhu, trong khi Đỗ Tử Bình chỉ huy quân đội. Đầu năm 1377, Chiêm Thành ban đầu cố gắng đàm phán, nhưng không thành công. Quân Đại Việt tiến vào cửa Thi Nại (Quy Nhơn), đánh lấy đồn Thạch Kiều rồi tiến tới kinh thành Đồ Bàn. Chế Bồng Nga lập đồn giữ ngoài thành, rồi cho người đến trá hàng, nói với Trần Duệ Tông rằng Chế Bồng Nga đã bỏ thành trốn.[40] Duệ Tông muốn tiến quân vào thành ngay, đại tướng Đỗ Lễ can ngăn mãi nhưng vua Trần không nghe, nói với quân sĩ rằng:

"Ta mình mặc giáp, tay cầm gươm, dãi gió dầm mưa, lội sông, trèo núi, vào sâu trong đất giặc, không một người nào dám chống lại đó là trời giúp. Huống chi nay vua giặc nghe tiếng bỏ trốn, không có lòng đánh lại. Cổ nhân nói "Dụng binh quý ở nhanh chóng". Nay lại dùng dằng không tiến nhanh, thế là trời cho mà không lấy, để nó lại có mưu khác, thì hối không kịp?"

Duệ Tông nói xong, rồi lấy áo đàn bà cho Lễ mặc. Duệ Tông thúc quân tiến vào thành, quân lính bèn nối gót nhau mà đi như xâu cá, cánh trước cánh sau cách biệt. Quân Chiêm tứ phía phục binh đổ ra đánh, chia cắt quân Trần ra từng đoạn. Quân Đại Việt thua to, mười phần chết đến bảy phần.[46] Duệ Tông bị hãm trong vòng vây, bị trúng tên tử trận.[47] 3 vị tướng Đỗ Lễ, Nguyễn Lạp Hòa, Hành khiển Phạm Huyền Linh cũng tử trận.[48][49][50] Ngự Câu vương Trần Húc bị bắt đã đầu hàng Chế Bồng Nga, được gả con gái. Đỗ Tử Bình lúc đó lĩnh hậu quân không tới cứu ứng cho Duệ Tông. Lê Quý Ly bấy giờ đang đốc thúc quân tải lương, được tin Duệ Tông tử trận, sợ hãi, bỏ chạy về trước.[‡ 5] Tuy nhiên khi về kinh, Quý Ly không hề bị thượng hoàng Nghệ Tông trách cứ, còn Tử Bình chỉ bị đồ làm lính 1 năm, sau đó lại được cất nhắc lên chức vụ cao hơn trước.

Năm 1377, Trần Nghệ Tông thấy Duệ Tông tử trận, nên chiêu hồn chôn ở Hy Lăng và cho lập con trưởng của Duệ Tông là Kiến Đức Đại vương Trần Hiện 17 tuổi lên làm vua, tức là Trần Phế Đế, tôn hiệu Giản Hoàng. Theo nhận xét của sử quan Ngô Sĩ Liên: vua u mê, nhu nhược, không làm nổi việc gì, uy quyền càng về tay kẻ dưới, xã tắc lung lay.

Thất bại tại Đồ Bàn có thể xem là thất bại lớn nhất của quân Trần trong các cuộc giao tranh với quân Chiêm và là một trong những thất bại lớn nhất lịch sử quân sự của các triều đại phong kiến Việt Nam. Trong trận đánh này, hoàng đế Trần Duệ Tông tử trận và cũng là vị hoàng đế Việt Nam duy nhất tử trận. Cái chết của Duệ Tông là bước ngoặt lớn đối với nhà Trần thời hậu kỳ. Thượng hoàng Nghệ Tông nhu nhược, vốn hoàn toàn dựa vào ông và sau khi ông mất lại hoàn toàn dựa vào Lê Quý Ly khiến cơ nghiệp nhà Trần suy sụp.

Chế Bồng Nga thừa thế thắng, đem quân đánh đuổi đến tận Thanh Nghệ, đánh tan quân nhà Trần. Đầu tháng 11 năm 1377, vua Chiêm lại theo đường biển tiến đánh Đại Việt. Thượng hoàng Nghệ Tông sai Trấn quốc tướng quân Sư Hiền ra giữ biển Đại An. Chế Bồng Nga thấy Đại An có phòng bị, bèn tiến vào cửa Thần Phù rồi cướp phá kinh thành Thăng Long.[51] Đến khi ra khơi quay về nhà, chiến thuyền của Chiêm Thành bị bão đắm mất nhiều nhưng những đồ cướp được cũng đủ để tiến cống nhà Minh trong năm đó. Tháng 5 năm 1378, Chế Bồng Nga đưa Trần Húc về Nghệ An phong làm trấn thủ và tiếm xưng vương hiệu, chiêu dụ dân chúng.[‡ 6][52] Tháng 6, ông và Chế Bồng Nga tập hợp dân chúng từ các vùng phía Nam dưới sự chiếm đóng của người Chăm, cùng với lực lượng của người Chăm, đánh ra bắc, tiến vào cửa Đại Hoàng. Thượng hoàng Trần Nghệ Tông phục chức cho Đỗ Tử Bình, sai ra chống giữ. Tử Bình đánh không lại, quân bị tan vỡ. Chế Bồng Nga tiến vào Thăng Long lần thứ 3, bắt người cướp của rồi rút về.[‡ 7][44] Vua Trần chỉ còn nước đem các vàng bạc châu báu giấu trong núi Thiên Kiến và động Khả Lăng.[47][53]

Chinh phạt Nghệ An - Thanh Hóa[sửa | sửa mã nguồn]

Lãnh thổ nằm dưới quyền kiểm soát của Chế Bồng Nga năm 1380

Năm 1380, Chế Bồng Nga lại một lần nữa đem quân bắc phạt, ông cho tuyển binh ngay tại vùng Tân Bình và Thuận Hóa, rồi sau đó đã đánh chiếm Nghệ An vào tháng 3, chiếm Thanh Hóa vào tháng 4. Thượng hoàng Nghệ Tông sai Lê Quý Ly, Đỗ Tử Bình đem quân đón đánh quân Chiêm khiến Chế Bồng Nga phải rút quân về Quảng Bình, trong khi lực lượng của nhà Trần giành lại quyền quyển soát Nghệ An.[44][‡ 8] Tuy Chế Bồng Nga bị thua nhưng ở thời kỳ này các châu Nghệ An, Thuận Hóa, Tân Bình vẫn thuộc về người Chăm, còn quan quân nhà Trần thì sợ người Chiêm, đến bài vị, thần tượng của các bậc tiên vương ở các lăng Quắc Hương, Thái Đường, Long Hưng, Kiến Xương cũng phải đem giấu đi vì sợ bị phá.

Tháng 2 năm 1382, quân Chiêm lại tiến đánh Thanh Hóa bằng cả đường bộ và đường biển. Lê Quý Ly đóng đồn ở núi Long Đại ở Thanh Hóa (tức núi Hàm Rồng), Nguyễn Đa Phương đóng cọc giữ cửa biển Thần Đầu.[‡ 9] Khi thủy quân Chiêm lại gần, Đa Phương không đợi lệnh Quý Ly, cho mở cọc cắm cừ, tiến ra giao chiến. Quân Chiêm trở tay không kịp, quân Đại Việt dùng hỏa khí ném vào làm thuyền Chiêm bị cháy đắm gần hết. Quân Chiêm thua to, phải bỏ chạy vào rừng núi. Quân Việt vây núi ba ngày, quân Chiêm nhiều người bị chết đói. Thủy quân Chiêm còn lại bỏ chạy về nước.[44][‡ 10] Quân Việt đuổi theo đánh đến Nghệ An. Sau đó Nguyễn Đa Phương được thăng làm Kim Ngô vệ Đại tướng quân.[‡ 11] Tháng 1 năm 1383, Trần Nghệ Tông ra lệnh cho Lê Quý Ly đem quân Nam tiến, nhưng vào đến Lại Bộ Nương Loan (ở huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh ngày nay) nhưng gặp phải bão đánh nát mất nhiều thuyền chiến, vì vậy lại phải rút quân về.[‡ 12][54]

Chiếm Thăng Long lần 4 (1383)[sửa | sửa mã nguồn]

Vào mùa hè năm đó, Chế Bồng Nga lại đích thân dẫn quân Bắc phạt. Được sự cố vấn của tướng Lã Khai, lần này ông chọn con đường phía tây qua vùng núi phía đông Lào và Thanh Hoá, tránh quân của Lê Quý Ly. Khi quân Chăm đến đất Quảng Oai (nay thuộc Ba Vì, Hà Nội), Trần Nghệ Tông sai tướng Mật Ôn đem quân đi chống giữ, nhưng bị quân Chiêm bắt.[‡ 13] Nghệ Tông sợ hãi, chạy khỏi Thăng Long. Nguyễn Đa Phương ngày đêm đốc suất quân sĩ dựng rào chắn bảo vệ kinh thành. Chế Bồng Nga một lần nữa cướp phá kinh đô của Đại Việt, chiếm đóng trong sáu tháng trước khi dẫn quân về.[55][56][57]

Chế Bồng Nga trước đó đã tiến cống hậu hĩ hàng năm cho nhà Minh,[58] nên vua Minh làm ngơ, không can thiệp. Năm 1384, nhà Minh đánh vùng Vân Nam, sai người sang Đại Việt đòi lương thực cấp cho quân lính ở Lâm An. Nhà Trần đồng ý cấp lương thực, các quan sai đi nhiều người nhiễm bệnh mà chết. Đến năm 1386, Minh Thái Tổ hạ chiếu viết thư cho Trần Nghệ Tông cho hay sắp đem quân bình định Chiêm Thành và ra lệnh cho Đại Việt sửa soạn 100 thớt voi cùng các trạm lương thực suốt từ Vân Nam tới Nghệ An.[‡ 14][59] Nhà Trần không lấy gì làm phấn khởi trước đề nghị này, lại sợ quân Minh có ý đồ xâm chiếm nước ta nên vội vàng thoái thác. Cùng năm đó, vua Minh cho sứ giả đưa con trai Chế Bồng Nga sau khi ông này sang tiến cống 54 thớt voi về nước. Năm sau người Chăm lại đem cống 51 con voi, trầm hương và sừng tê và được tiếp đãi rất trọng thể.[60]

Trận Hải Triều (1390) và cái chết của Chế Bồng Nga[sửa | sửa mã nguồn]

Thượng hoàng Trần Nghệ Tông tuy nắm giữ đại quyền, nhưng việc gì cũng do Quý Ly quyết định. Quý Ly tìm cách phát triển thế lực riêng, nhưng Nghệ Tông vẫn không hề nghi ngại, hết lòng tin rằng Quý Ly vẫn trung thành với triều Trần. Bấy giờ, Hoàng đế Trần Hiện (Đế Hiển) thấy Thượng hoàng quá tin dùng Quý Ly, mới bàn với Thái úy Trang Định vương Trần Ngạc (là con trưởng của Thượng hoàng) rằng nếu không trừ đi ắt thành vạ to. Không ngờ rằng, người hầu vua học là Vũ Như Mai biết được chuyện này, liền báo cho Quý Ly biết trước.[‡ 15] Nguyễn Đa Phương khuyên Quý Ly nên tránh ra núi Đại Lại (ở huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa ngày nay) để chờ đợi biến động.[‡ 16] Trong khi đó, Phạm Cự Luận lại can, nói: Chưa có ai bán con để nuôi cháu, chỉ thấy bán cháu để nuôi con.[note 5] Quý Ly nghe vậy, bèn bí mật vào yết kiến Thượng hoàng rồi cứ y tâu như lời Cự Luận. [‡ 17]

Thượng hoàng nghe vậy, bèn giả vờ vi hành về Yên Sinh, rồi sai người gọi Đế hiển đến bàn việc nước. Đế hiển đến, lập tức bị bắt rồi bị giam vào chùa Tư Phúc.[‡ 18] Các tướng chỉ huy các phủ quân cũ như tướng chỉ huy quân Thiết Liêm là Nguyễn Khoái, Nguyễn Vân Nhi, tướng chỉ huy quân Thiết Giáp là Nguyễn Kha, Lê Lặc, tướng chỉ huy quân Thiết Sang là Nguyễn Bát Sách định đem quân vào cướp lấy vua đem ra. Đế hiển viết hai chữ "Giải giáp" đưa cho các tướng và răn bảo họ không được trái ý Thượng hoàng, các tướng mới thôi. Lát sau, Nghệ Tông đưa vua xuống phủ Thái Dương và cho thắt cổ cho chết. Bấy giờ Lê Á Phu cùng các tướng Nguyễn Khoái, Nguyễn Vân Nhi, Nguyễn Kha, Lê Lặc, Nguyễn Bát Sách và người học trò Lưu Thường vì cùng mưu với Đế hiển nên đều bị giết cả; chỉ có Nhập nội Hành khiển tả ty Lê Dữ Nghị là bị đày ra Trại Đầu. Sau đó, Trần Nghệ Tông lập người con út là Chiêu Định vương Ngung làm hoàng đế, tức vua Trần Thuận Tông, vào năm 1388, đổi niên hiệu là Quang Thái, đại xá, tự xưng là Nguyên Hoàng. Theo Minh thực lục, khoảng cuối tháng 12 năm 1388, Lê Nhất Nguyên (黎一元) giết vua Trần Vĩ (tức Trần Phế Đế) rồi chôn ở phường Đại Dương ngoại thành Thăng Long. Lê Nhất Nguyên sau đó lập Trần Nhật Hỗn (tức Trần Thuận Tông), con Trần Thúc Minh (tức Trần Nghệ Tông) (陳叔明) lên thay.[‡ 19]

Tháng 10 năm 1389, Chế Bồng Nga lại đánh lên Thanh Hóa, tiến vào hương Cổ Vô. Nghệ Tông lại sai Lê Quý Ly dẫn quân chống cự. Quân Chiêm đắp ngăn sông Bản Nha ở thượng lưu, quân Đại Việt đóng cọc dày đặc đối địch, giữ nhau 20 ngày. Quân Chiêm đặt sẵn quân và voi, giả vờ bỏ doanh trại rút về.[‡ 20] Lê Quý Ly mắc mưu đem quân truy kích không ngờ bị trúng kế.[61] Thủy quân Đại Việt nhổ cọc ra đánh, Chế Bồng Nga hạ lệnh cho phá đập nước, cho voi trận xông ra đánh. Quân tinh nhuệ đã đi xa, quân thủy bị ngược dòng không tiến lên được. Kết quả quân Đại Việt bị thiệt hại nặng nề, tướng chỉ huy quân Hữu Thánh Dực là Nguyễn Chí bị bắt sống, nhiều tướng chết trận. Quý Ly để tỳ tướng Phạm Khả Vĩnh và Nguyễn Đa Phương ở lại cầm cự với giặc, còn mình thì trốn về Thăng Long xin thêm chiến thuyền để chống cự. Trần Nghệ Tông không cho, vì thế ông giao trả binh quyền, không đi đánh nữa. Nguyễn Đa Phương và Phạm Khả Vĩnh biết thế yếu không chống cự nổi cũng rút quân về.

Quân Chiêm không dám đuổi theo. Quân Đại Việt rút lui trọn vẹn không bị tổn thất. Trở về kinh thành, Nguyễn Đa Phương cậy công lớn có ý lên mặt, công khai chê Quý Ly là bất tài. Quý Ly căm tức, nói với Nghệ Tông rằng trận thua này là do nghe lời Đa Phương. Nghệ Tông nghe vậy bèn cách chức Đa Phương. Quý Ly lại bảo Nghệ Tông nên giết Phương vì sợ Phương đi hàng Chiêm, do đó Nghệ Tông bèn ép Phương tự vẫn.[‡ 21]

Tháng 11, Trần Nghệ Tông sai Trần Khát Chân lúc đó đang nắm quân Long Tiệp đi chống quân Chiêm.[‡ 22] Trần Khát Chân kéo quân đến Hoàng giang (khúc sông HồngHà Nam), thấy nơi đây không thể bố trận, mới đem quân đóng ở sông Hải Triều.[note 6][‡ 23][62] Trần Nguyên Diệu, em ruột của vua Trần Phế Đế, vì muốn báo thù mà đầu hàng giặc.[‡ 24][62]

Bấy giờ, quân nổi loạn khắp nơi, Nguyễn Thanh làm loạn ở Lương Giang, Phạm Sư ÔnQuốc Oai nổi dậy đánh chiếm kinh đô, thượng hoàng và vua phải bỏ kinh đô mà chạy, cho triệu tướng Hoàng Thế Phương đang đóng ở Hoàng Giang ra cứu.[‡ 25][3][62]

Đầu năm 1390, Chế Bồng Nga cùng Trần Nguyên Diệu mang hơn 100 chiến thuyền đến Hải Triều đối đầu với Trần Khát Chân.[‡ 26] Không may cho Chế Bồng Nga, một tiểu tướng của ông tên là Ba Lậu Kê (có nơi ghi Bỉ Lậu Kê) bị tội với Chế Bồng Nga, sợ bị giết, bèn chạy trốn sang phía quân Trần, đầu hàng Trần Khát Chân.[63] Ba Lậu Kê chỉ cho Khát Chân biết chiếc thuyền nào là chiến thuyền của Chế Bồng Nga. Khi mấy trăm chiến thuyền của Chế Bồng Nga và Nguyên Diệu kéo tới, Khát Chân cho tập trung súng bắn xối xả vào chiếc thuyền ngự, Chế Bồng Nga bị trúng đạn chết.[64][1] Người trong thuyền kêu khóc ầm ĩ. Trần Nguyên Diệu thấy vua Chiêm chết, liền chặt thủ cấp vua Chiêm rồi chèo thuyền trở về bên quân Trần.[65] Hai tướng Đại Việt là Phạm Nhữ Lặc và Dương Ngang giết chết Nguyên Diệu, cướp lấy thủ cấp của Chế Bồng Nga nộp cho Trần Khát Chân.[66][67][‡ 27] Quân Chiêm thấy chủ tướng đã tử trận vội vàng chạy về Hoàng giang hợp với phó tướng của Chế Bồng Nga là La Khải. La Ngai thu thập tàn quân, hỏa táng xác Chế Bồng Nga, rồi men theo chân núi rút về Đồ Bàn. Quân Trần đuổi theo đánh, La Ngai dừng voi lại, tung ra nhiều tiền của để nhân lúc quân Trần mải nhặt đồ mà chạy thoát.[‡ 28]

Trần Khát Chân sai Lê Khắc Khiêm bỏ đầu vua Chiêm vào hòm, cho phi ngựa đem đến hành tại[note 7] ở Bình Than, tâu việc đánh được giặc.[‡ 29] Sử kể rằng khi đầu Chế Bồng Nga được phó tướng Phạm Như Lạt đem vào trình giữa canh ba, thượng hoàng Nghệ Tông hoảng hốt nhỏm dậy tưởng mình đã bị vây bắt. Đến khi nghe được tin thắng trận, Nghệ Tông liền cho gọi các quan đến để xem cho kĩ. Các quan mặc triều phục, đến và hô "vạn tuế !". Nghệ Tông nói:Ta với Bồng Nga cầm cự nhau đã lâu, ngày nay mới được gặp nhau, có khác gì Hán Cao Tổ thấy đầu Sở Bá Vương, thiên hạ yên rồi!.[62][‡ 30]

Sang năm 1391, Lê Quý Ly và Hoàng Phụng Thế lại mang quân đến Hóa châu, tuần tiễu biên giới Chiêm Thành. Quân Chiêm đặt phục binh đánh tan quân Trần. Phụng Thế bị bắt, sau trốn được về. Lê Quý Ly sai chém 30 viên đại đội phó dưới quyền của Phụng Thế.[‡ 31]

Hậu quả[sửa | sửa mã nguồn]

Chiến tranh giữa nhà Trần với Chiêm Thành chấm dứt. Sau nhiều năm giao tranh, cả hai bên đều bị tổn thất nặng nề. Cùng với cuộc chiến tranh với Chiêm Thành, các cuộc nổi loạn trong nước, nạn đói, thay đổi khí hậu và dịch bệnh, cộng lại đã làm giảm dân số Việt Nam khoảng 25% tổng dân số (khoảng 800.000 người chết, theo ước tính của Yumio Sakurai dựa trên nghiên cứu khai quật trên đồng bằng sông Hồng.[2] Chiến tranh cũng làm nảy sinh một tầng lớp nho sĩ mới, cạnh tranh với văn hóa Phật giáo truyền thống và sự cai trị của tầng lớp quý tộc.[68] Chính sự nhà Trần lọt vào tay Lê Quý Ly, người lúc này là nhân vật quyền lực nhất của Đại Việt sau chiến tranh.Tháng 2 năm 1400, Quý Ly lúc ấy đã 64 tuổi, bức vua Trần nhường ngôi, buộc các quan và tôn thất ba lần dâng biểu khuyên lên ngôi.[69][70] Quý Ly giả vờ ba lần từ chối, nói: Ta sắp xuống lỗ rồi, còn mặt mũi nào trông thấy tiên đế ở dưới đất nữa. Rồi tự lập làm vua, đặt niên hiệu Thánh Nguyên, quốc hiệu Đại Ngu, đổi thành họ Hồ.[71]

Tại Chiêm Thành, sau khi quay trở về Đồ Bàn, La Khải tiếm xưng vương hiệu và chịu triều cống nhà Trần trở lại. Năm 1391, La Khải sai sứ sang xin nhà Minh thừa nhận nhưng Minh Thái Tổ nói với các quan bộ Lễ rằng: "Đây do viên quan soán nghịch! Đồ tiến cống đừng nhận. Trước đây viên quan Chiêm Thành là Các Thắng giết Vương nước này tự lập, nên cự tuyệt."[‡ 32] [72][73][74]

Chính sách cai trị khắt khe của La Khải gây bất mãn trong nước. Vây cánh của Chế Bồng Nga đều bị La Khải thay bằng những tướng sĩ thân tín, con trai của Chế Bồng Nga tên Chế Ma Nô Dã Na cùng em là Chế San Nô sợ bị ám hại đã chạy qua Đại Việt xin tị nạn.[6] Cả hai được nhà Trần phong tước Hiệu chính hầu. Năm 1397, một hoàng thân tên Chế Đà Biệt, em là Mộ Hoa, con là Gia Diếp cùng toàn thể gia quyến sang Đại Việt tị nạn. Chế Đà Biệt được Lê Quý Ly giao trọng trách bảo vệ biên giới phía nam của Đại Việt đề phòng những cuộc tấn công mới của quân Chiêm Thành. Năm 1400, La Khải mất, con là Ba Đích Lại lên ngôi. Mãi đến năm 1413, Ba Đích Lại mới được nhà Minh tấn phong.

Các vùng đất dưới ảnh hưởng Chiêm Thành đều được Lê Quý Ly thu hồi sau cái chết của Chế Bồng Nga. Lê Quý Ly đã tấn công vào vùng đất Cổ Lũy, Quảng Ngãi, ngày nay. Theo Biên Niên Sử Hoàng gia Chăm (1835), Thủ đô Bal Angwei đã thất thủ vào năm 1397 và dân tị nạn đổ vào Bal Panrang. Sau trận chiến năm 1400 một bộ phận nhà nước Chiêm Thành được khôi phục (vương triều Vijaya). Sau khi Lê Lợi đuổi quân Minh ra khỏi, vương triều Panrang cũng được khôi phục năm 1433. Sau khi thành Đồ Bàn thất thủ, vương triều Panrang đã thừa kế vương quốc Chiêm Thành cho đến năm 1832.[75]

Hai thổ hào trung thành với nhà Trần là Phạm Thế Căng và Phan Mãnh mang dân quy thuận triều đình trong lúc chiến loạn, được ban thưởng. Nhiều thổ hào ở Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa và các tướng từng theo Chiêm Thành đều bị hạ lệnh bắt để trị tội như Trần Nguyên Đĩnh, Trần Tông, Nguyễn Động, Nguyễn Doãn, Hoàng Khoa. Nguyên Đĩnh và Trần Tông nhảy xuống sông tự vẫn.[‡ 33] Một gia nô của Trần Tông là Trần Khang trốn sang Lào, đổi tên là Thiêm Bình, đến thời nhà Hồ mạo xưng là con của Trần Nghệ Tông, chạy sang Trung Quốc cầu viện nhà Minh, là một nguyên nhân dẫn đến cuộc xâm lăng nước Việt của nhà Minh.

Chú giải[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Quảng TrịThừa Thiên Huế ngày nay
  2. ^ một hủ tục của các tín đồ đạo Hindu, theo đó, người góa phụ phải nhảy vào giàn hỏa thiêu để kết liễu đời mình ngay sau khi người chồng qua đời.[18]
  3. ^ Quảng Nam ngày nay
  4. ^ xã Quần Liêu, Nghĩa Hưng, Nam Định hiện nay
  5. ^ Ám chỉ việc Nghệ Hoàng bỏ con mình mà lập Đế Hiện là con của Duệ Tông
  6. ^ Sông Hải Triều là một khúc sông giáp với huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yênhuyện Hưng Nhân, tỉnh Thái Bình ngày nay
  7. ^ Nơi vua đặt ngự doanh ở ngoài kinh thành, gọi là hành tại

Trích dẫn[sửa | sửa mã nguồn]

Cổ thư[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ ĐVSKTT (Bản kỷ/Quyển 7:25a): "三月,占城劫掠化州。夏四月,命杜子平定補臨平、順化軍及繕完化州城。"
    "Tháng 3, Chiêm Thành cướp Hoá Châu. Mùa hạ, tháng 4, sai Đỗ Tử Bình duyệt bổ quân ở Lâm Bình, Thuận Hoá và đắp thành Hoá Châu."
  2. ^ Minh thực lục, quyển 3:1260-1261, Thái Tổ, quyển 67:4b-5a
    Geoff Wade (2019): "The minister Da-ban Gua-bu-nong and others who had been sent by A-da-a-zhe, the king of the country of Champa, came to Court and presented a memorial, which noted that Annam had invaded their territory."
  3. ^ Minh thực lục, quyển 3:1260-1261, Thái Tổ, quyển 67:4b-5a
    Geoff Wade (2019): "Both Champa and Annam serve the Court and both acknowledge the Court's calendar. But now, without authority, arms have been taken up and there has been great loss of life. This shows failure in the duty of serving the Emperor and failure in properly handling relations with neighbours. I have already sent a despatch to the king of Annam ordering the immediate cessation of hostilities. Your countries should also both protect your own borders."
  4. ^ ĐVSKTT (Bản kỷ/Quyển 7:43a): "十二月,帝親征占城,領軍十二萬發京師。"
    "Tháng 12, vua thân đi đánh Chiêm Thành, dẫn 12 vạn quân xuất phát từ kinh sư."
  5. ^ ĐVSKTT (Bản kỷ/Quyển 7:44b): "杜子平領後軍,不救得脫。黎季犛督糧軍,聞帝崩,先自迯歸。"
    "Đỗ Tử Bình chỉ huy hậu quân, không đến cứu nên thoát chết. Lê Quý Ly đốc quân chở lương, nghe tin vua băng, bỏ trốn về nước."
  6. ^ ĐVSKTT (Bản kỷ/Quyển 8:1b): "夏五月五日,占城引御溝降壬勗寇乂安府,僭號以招人民,多受偽命者。"
    "Mùa hạ, tháng 5, ngày mồng 5, người Chiêm đưa Ngự Câu Vương Húc đã đầu hàng đến cướp phủ Nghệ An, tiếm xưng vị hiệu đề chiêu dụ dân chúng, nhiều người theo lệnh của bọn nguỵ."
  7. ^ ĐVSKTT (Bản kỷ/Quyển 8:1b): "六月,犯大黄江,帝命行遣杜子平禦之,官軍自潰,贼遂遂犯京師,擄掠而還。"
    "Tháng 6, giặc đánh vào sông Đại Hoàng. Vua sai Hành khiển Đỗ Tử Bình đi chống giữ. Quan quân tan vỡ. Giặc liền đánh vào kinh sư, bắt người cướp của rồi rút về."
  8. ^ ĐVSKTT (Bản kỷ/Quyển 8:4a): "夏五月,季犛領神武軍將阮金鰲,侍衛軍杜也哥出戰。金鱉旋舟以避賊鋒,季犛斬之以徇,諸軍皷噪而前,占主制蓬莪戰敗遁歸"
    "Mùa hạ, tháng 5, Quý Ly dẫn viên tướng chỉ huy quân Thần Vũ và Nguyễn Kim Ngao và tướng chỉ huy quân Thị vệ là Đỗ Dã Kha ra đánh. Kim Ngao quay thuyền trở lại để tránh mũi nhọn của giặc. Quý Ly chém Ngao để rao trong quân. Các quân nổi trống hò reo mà tiến. Chúa Chiêm Chế Bồng Nga thua trận rút chạỵ."
  9. ^ ĐVSKTT (Bản kỷ/Quyển 8:5b): "春二月,占城入寇清化,命季犛領軍禦之,屯龍岱山,以神魁軍將阮多方守神投海樁。"
    "Mùa xuân, tháng 2, Chiêm Thành vào cướp Thanh Hoá. [Vua] sai Quý Ly đem quân đi chống giữ. [Quý Ly] đóng quân ở núi Long Đại. Cho tướng coi quân Thần Khôi là Nguyễn Đa Phương giữ hàng cọc đóng ở [cửa] biển Thần Đầư."
  10. ^ ĐVSKTT (Bản kỷ/Quyển 8:5b): "占人水步俱進,在山上以石投下,軍船多損壞,多方不待季犛令,自開椿出戰, 一時取勝,諸軍乘勝攻之,占城大敗,散入山林。我軍圍山三日,賊多餓死,燒盡舟船,餘眾奔北。"
    " Người Chiêm tiến đến bằng cả hai đường thuỷ bộ, ở trên núi lấy đá ném xuống, thuyền quân ta bị hỏng nhiều. Đa Phương không đợi lệnh của Quý Ly, tự ý cho mở hàng cọc xông ra đánh, một chốc thì thắng. Các quan thừa thắng tấn công. Chiêm Thành thua to, chạy tán loạn vào rừng núi. Quân ta vây núi ba ngày, giặc nhiều tên bị chết đói. Ta đốt hết thuyền bè của giặc, tàn quân giặc chạy trốn cả."
  11. ^ ĐVSKTT (Bản kỷ/Quyển 8:5b): "三月,追至乂安城而還。夏四月,捷報,拜多方金吾衛大將軍。"
    " Tháng 3, đuổi giặc đến thành Nghệ An rồi về. Mùa hạ, tháng 4, tin thắng trận báo về, phong Nguyễn Đa Phương làm Kim ngô vệ đại tướng quân."
  12. ^ ĐVSKTT (Bản kỷ/Quyển 8:6a): "春正月,命黎季犛領舟師伐占城。時新造大艘,有艷治、王突、牙捷等號,行至吏部娘灣烏蹲等處,被風濤折壞,引軍還。"
    "Mùa xuân, tháng giêng, sai Lê Quý Ly thống lĩnh thuỷ quân đi đánh Chiêm Thành. Bấy giờ mới đóng xong các thuyền lớn có tên là Diễm Trị, Ngọc Đột, Nha Tiệp. Thuyền tới vùng biển Lại Bộ Nương và Ô Tôn bị sóng gió đánh hư hỏng. Dẫn quân về."
  13. ^ ĐVSKTT (Bản kỷ/Quyển 8:6a): "夏六月,占城主制蓬莪與首將羅皚引眾陸行山脚,由廣威鎮哨路,屯孔目册,京師震駭。上皇命華額軍將黎密温將兵禦之。密温至三岐洲今廣威府是也欲列陣拒戰, 賊先設伏,兵象俱起,官軍敗北,密温為賊所擒。"
    "Mùa hạ, tháng 6, chúa Chiêm Thành là Chế Bồng Nga cùng với thủ tướng La Ngai dẫn quân đi bộ theo chân núi, từ trấn Quảng Oai dò đưng đến đóng ở sách Khổng Mục. Kinh sư kinh động. Thượng hoàng sai tướng chỉ huy quân Hoa Ngạch là Lê Mật Ôn đem quân đi chống giữ. Mật Ôn đến chân Tam Kỳ (nay là phủ Quảng Oai) định bày trận chống giữ. Nhưng giặc đã mai phục từ trước, quân voi đều xông ra, quan quân thua chạy, Mật Ôn bị giặc bắt sống."
  14. ^ ĐVSKTT (Bản kỷ/Quyển 8:9a): "明又遣錦衣衛舍人李英等來假道徃占城,索象五十隻,自乂安府設站驛給粮草,遞送至雲南。"
    "Nhà Minh lại sai bọn Cẩm y vệ xá nhân Lý Anh sang mượn đường đánh Chiêm Thành, đòi 50 con voi, đặt các dịch trạm từ phủ Nghệ An cung cấp cỏ, thức ăn, đưa voi đến Vân Nam."
  15. ^ ĐVSKTT (Bản kỷ/Quyển 8:11a): "帝與太尉𩖃謀曰:「上皇寵愛外戚季犛,肆意任用,若不先為之慮,後必難制矣。」王汝舟子汝梅侍學,因泄其謀,季犛知之。"
    "Vua bàn mưu với Thái uý Ngạc rằng:"Thượng hoàng tin yêu ngoại thích là Quý Ly, cho hắn mặc sức làm gì thì làm, nếu không lo trước đi thì sau sẽ rất khó chế ngự". Con Vương Nhữ Chu là hữ Mai hầu vua học, nhân tiết lộ mưu đó. Quý Ly biết được."
  16. ^ ĐVSKTT (Bản kỷ/Quyển 8:11a): "多方勸季犛出大吏山以待變。"
    "Đa Phương khuyên Quý Ly lánh ra núi Đại Lại để đợi biến động."
  17. ^ ĐVSKTT (Bản kỷ/Quyển 8:11a): "范巨論曰:「不可。一出亍外,難以圖存。」季犛曰:「縱無方策,我當自盡,不假人手。」巨論曰:「上皇之心,深啣帝殺冠服大王之故,帝頗不諧。今天下權柄在大人,而帝又圖之,則上皇之疑滋甚。大人冐進叩頭,陳其利害,必見聽從,轉禍為福,易如反掌。上皇正嫡聚多,大人若曰:『臣聞里諺曰:「未有賣子而養姪,惟見賣姪而養子」』庶幾感寤,改位昭定。縱或不聽,死未晚也。」季犛從之,密奏如巨論言,上皇深以為然。"
    "Phạm Cự Luận nói: "Không được, một khi đã ra ngoài thì khó lo chuyện sống còn". Quý Ly nói: "Nếu không còn phương sách gì thì ta đành tự tử, không để tay kẻ khác giết mình". Cự Luận nói:"Thượng hoàng trong lòng vẫn căm vua về việc giết Quan Phục Đại Vương, vua rất không hài lòng. Nay quyền bính trong thiên hạ đều ở đại nhân cả mà vua lại mưu hại ngài thì Thượng hoàng lại càng ngờ lắm. Đại nhân hãy liều vào lạy Thượng hoàng, bày tỏ lợi hại, thì nhất định Thượng hoàng sẽ nghe theo ngài, chuyển hoạ thành phúc, dễ như trở bàn tay. Thượng hoàng có nhiều con chính đích, ngài cứ tâu rằng thần nghe ngạn ngữ nói "Chưa có ai bán con để nuôi cháu, chỉ thấy bán cháu để nuôi con" may ra thượng hoàng tỉnh ngộ mà đổi lập Chiêu Định Vương là Thuận Tông. Nếu thượng hoàng không nghe thì chết cũng chưa muộn". Quý Ly nghe theo, bí mật tâu với Thượng hoàng như lời Cự Luận. Thượng hoàng cho là phải."
  18. ^ ĐVSKTT (Bản kỷ/Quyển 8:11a): "上皇假幸安生,令殿後扈衛,尋令祗候內人召帝謀國事。帝未膳而行,侍候惟二人而以。既至,上皇曰:「大王來。」即令人引出資福寺囚之。"
    "Thượng hoàng vờ ngự về Yên Sinh, sai điện hậu hộ vệ, rồi sai chi hậu nội nhân gọi vua tới bàn việc nước. Vua chưa kịp ăn, vội đi ngay, chỉ có hai người theo hầu thôi. Đến nơi, Thượng hoàng bảo vua: "Đại Vương lại đây!", rồi lập tức sai người đem vua ra giam ở chùa Tư Phúc."
  19. ^ Minh thực lục, quyển 7:2920-21, Thái Tổ, quyển 194:6b-7a
    Geoff Wade (2019): "In this year.... Chen Wei of Annam was removed by his prime minister Li Yi-yuan and confined in Da-yang Fang outside the city. In the 12th month (Dec 1388/Jan 1389), Li killed him and established Ri-kun, the son of Shu-ming, as ruler in control of state affairs."
  20. ^ ĐVSKTT (Bản kỷ/Quyển 8:14b): "冬十月,占人㓂清化,犯古無,命季犛將兵禦之。賊堰上流,官軍植樁盤鴉以相對二十日。賊伏兵象,佯掃寨以㱕。"
    "Mùa đông, tháng 10, người Chiêm đến cướp Thanh Hoá, đánh vào Cổ Vô, [thượng hoàng] sai Quý Ly đem quân đi chống giữ. Giặc đắp ngăn thượng lưu sông, quan quân đóng cọc dày đặc để chống cự. Ngày 20, giặc phục sẵn quân và voi, rồi giả vờ bỏ doanh trại rút về."
  21. ^ ĐVSKTT (Bản kỷ/Quyển 8:16a-16b)
  22. ^ ĐVSKTT (Bản kỷ/Quyển 8:16a): "十一月,上皇命陳渴真將龍捷軍出師討賊。"
    "Tháng 11, Thượng hoàng sai Trần Khát Chân chỉ huy quân Long Tiệp ra quân đánh giặc."
  23. ^ ĐVSKTT (Bản kỷ/Quyển 8:16a): "軍發瀘江至黃江,已遇賊矣。渴真觀無可戰之地,退守海潮江。"
    "Quân xuất phát từ sông Lô, đến Hoàng Giang đã gặp giặc rồi, Khát Chân quan sát chỗ ấy không thể đánh được, mới lui giữ sông Hải Triều."
  24. ^ ĐVSKTT (Bản kỷ/Quyển 8:16a): "靈德弟元耀欲為靈德報仇,率眾降賊。"
    "Em trai Linh Đức là Nguyên Diệu muốn báo thù cho Linh Đức, đem quân đầu hàng giặc."
  25. ^ ĐVSKTT (Bản kỷ/Quyển 8:17a)
  26. ^ ĐVSKTT (Bản kỷ/Quyển 8:17b): "時蓬莪與元耀領戰船百餘艘來觀官軍形勢。"
    "Khi ấy, Bồng Nga cùng với Nguyên Diệu dẫn hơn một trăm thuyền chiến đến quan sát tình thế của quan quân."
  27. ^ ĐVSKTT (Bản kỷ/Quyển 8:17b): "眾船未會,蓬莪小臣波漏稽為蓬莪所責,懼誅,來奔軍營,指綠漆船告曰:「此國王船也。」渴真令火銃齊發,着蓬莪貫於船板而死。船中人喧閙號泣,元耀反取蓬莪馘奔還官軍,龍捷軍上都大隊副范汝勒、頭伍楊昂遂殺元耀,倂取蓬莪馘。賊眾大潰。"
    "Các thuyền giặc chưa tập họp lại, thì có tên tiểu thần của Bồng Nga là Ba Lậu Kê nhân bị Bồng Nga trách phạt, sợ bị giết, chạy sang doanh trại quân ta, trỏ vào chiến thuyền sơn xanh bảo rằng đó là thuyền của quốc vương hắn. Khát Chân liền ra lệnh các cây súng [Chú giải] nhất tề nhả đạn, bắn trúng thuyền Bồng Nga, xuyên suốt ván thuyền, Bồng Nga chết, người trong thuyền ồn ào kêu khóc. Nguyên Diệu cắt lấy đầu Bồng Nga chạy về với quan quân. Đại đội phó Thượng đô quân Long Tiệp là Phạm Nhũ Lặc và đầu ngũ là Dương Ngang liền giết luôn Nguyên Diệu, lấy cả đầu Bồng Nga. Quân giặc tan vỡ."
  28. ^ ĐVSKTT (Bản kỷ/Quyển 8:18a): "羅皚引餘眾至瀘江上岸,火塟蓬莪身屍,晝夜陸行,山腳作架,棧道煑飯,其上且行且食,全眾以歸,遇官軍進擊,則駐象撒貨以止之。"
    "La Ngai dẫn số quân còn lại đến phía trên bờ sông Lô hoả táng xác Bồng Nga rồi ngày đêm đi bộ men theo chân núi, gác đường san đạo, nấu cơm trên đó, rồi vừa đi vừa ăn, đem cả quân trở về. Gặp quan quân đuổi đánh thì dừng voi lại, tung tiền bạc của cải ra để quân ta ngừng lại."
  29. ^ ĐVSKTT (Bản kỷ/Quyển 8:17b): "渴真令軍監黎克謙函其首馘,乘船奏捷於平灘行在。"
    "Khát Chân sai quân giám Lê Khát Khiêm bỏ đầu giặc vào hòm, đi thuyền về báo tin thắng trận ở hành tại Bình Than."
  30. ^ ĐVSKTT (Bản kỷ/Quyển 8:18a): "百官朝服呼萬歲。上皇曰:「我與蓬莪相持久矣,今日始得相見,何異漢髙祖見項羽首,天下定矣。」"
    "Các quan mặc triều phục, hô "muôn năm". Thượng hoàng nói: "Ta với Bồng Nga cầm cự nhau đã lâu, ngày nay mới được gặp nhau, có khác gì Hán Cao Tổ thấy đầu Hạng Vũ, thiên hạ yên rồi!"."
  31. ^ ĐVSKTT (Bản kỷ/Quyển 8:20a-20b): 春二月,黎季犛領軍廵化州,閲定軍伍,修造城池。三月,季犛令左聖翊軍將黃奉世將兵出哨占城地方。占人設伏,奉世軍自潰,為賊所擒。季犛以奉世所部大隊副三十人斬之。奉世用計得脫,復職如故。"
    "Mùa xuân, tháng 2, Lê Quý Ly đem quân đi tuần châu Hoá, xét duyệt quân ngũ, xây sửa thành trì. Tháng 3, Quý Ly sai viên tướng coi quân Tả Thánh Dực Hoàng Phụng Thế đem quân đi tuần đất Chiêm Thành. Người Chiêm Thành đặt mai phục. Quân Phụng Thếtan vỡ, [Phụng Thế] bị giặc bắt. Quý Ly sai chém 30 viên đại đội phó dưới quyền của Phụng Thế. Phụng Thế dùng mưu kế thoát về, được phục chức như cũ."
  32. ^ Minh thực lục, quyển 7:3157, Thái Tổ, quyển 214:1a
    Geoff Wade (2019): "The Grand Preceptor Tao-bao Jia-zhi who had been sent by the country of Champa, presented a gold memorial and offered as tribute rhinoceros horn, fan slaves and cloth. The Emperor spoke to the Ministry of Rites, saying: "These are all rebellious subjects. They are not to be received!" Previously, the Champa minister Ge-sheng had killed the king and established himself as ruler. It was thus that the Emperor ordered that they be refused."
  33. ^ ĐVSKTT (Bản kỷ/Quyển 8:18a-18b)

Đương đại[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b Whitmore (2011), tr. 196.
  2. ^ a b Lieberman (2003), tr. 369.
  3. ^ a b Kiernan (2017), tr. 184.
  4. ^ Zottoli (2011), tr. 60.
  5. ^ Sun (2006), tr. 75.
  6. ^ a b Kiernan (2017), tr. 190.
  7. ^ Buttinger (1958), tr. 153.
  8. ^ Buttinger (1958), tr. 157-158.
  9. ^ Maspero (2002), tr. 117–118.
  10. ^ Zottoli (2011), tr. 80–81.
  11. ^ a b Chapuis (1995), tr. 85.
  12. ^ Hall (1955), tr. 173.
  13. ^ Coedes (2015), tr. 128–129.
  14. ^ Aymonier (1893), tr. 16.
  15. ^ Maspero (2002), tr. 82–86.
  16. ^ Whitmore (1985), tr. 4.
  17. ^ a b c d Hall (1955), tr. 167.
  18. ^ Gilmartin (1997), tr. 141.
  19. ^ Maspero (2002), tr. 86–87.
  20. ^ Maspero (2002), tr. 89.
  21. ^ a b Taylor (2013), tr. 144.
  22. ^ Tarling (1999), tr. 258.
  23. ^ Maspero (2002), tr. 90.
  24. ^ Kiernan (2017), tr. 177-179.
  25. ^ Buttinger (1958), tr. 152.
  26. ^ Kiernan (2017), tr. 183.
  27. ^ Chapuis (1995), tr. 89.
  28. ^ Maspero (2002), tr. 90-91.
  29. ^ Aymonier (1893), tr. 17.
  30. ^ Coedes (2015), tr. 204.
  31. ^ Maspero (2002), tr. 92.
  32. ^ Whitmore (2011), tr. 187.
  33. ^ Taylor (2013), tr. 152.
  34. ^ Zottoli (2011), tr. 61.
  35. ^ Taylor (2013), tr. 154.
  36. ^ a b Taylor (2013), tr. 157.
  37. ^ Maspero (2002), tr. 92–93.
  38. ^ Whitmore (1985), tr. 10-11.
  39. ^ Trần Xuân Sinh (2006), tr. 363.
  40. ^ a b Taylor (2013), tr. 158.
  41. ^ Whitmore (1985), tr. 17.
  42. ^ Maspero (2002), tr. 95-99.
  43. ^ Hardy, Cucarzi & Zolese (2009), tr. 66-67.
  44. ^ a b c d Taylor (2013), tr. 159.
  45. ^ Whitmore (1985), tr. 18.
  46. ^ Chapuis (1995), tr. 90-91.
  47. ^ a b Maspero (2002), tr. 94.
  48. ^ Aymonier (1893), tr. 19.
  49. ^ Wade (2003), tr. 5.
  50. ^ Zottoli (2011), tr. 64.
  51. ^ Trần Xuân Sinh (2006), tr. 371.
  52. ^ Whitmore (1985), tr. 19.
  53. ^ Whitmore (1985), tr. 20-21.
  54. ^ Whitmore (1985), tr. 22.
  55. ^ Whitmore (1985), tr. 21–23.
  56. ^ Whitmore (2011), tr. 192.
  57. ^ Taylor (2013), tr. 160.
  58. ^ Whitmore (1985), tr. 23.
  59. ^ Whitmore (1985), tr. 27.
  60. ^ Whitemore (2004), tr. 193.
  61. ^ Hardy, Cucarzi & Zolese (2009), tr. 67.
  62. ^ a b c d Sun (2006), tr. 76.
  63. ^ Whitemore (2004), tr. 196.
  64. ^ Maspero (2002), tr. 107-109.
  65. ^ Whitmore (1985), tr. 30.
  66. ^ Aymonier (1893), tr. 20.
  67. ^ Kiernan (2017), tr. 189–190.
  68. ^ Lieberman (2003), tr. 372–373.
  69. ^ Kiernan (2017), tr. 193.
  70. ^ Taylor (2013), tr. 168–169.
  71. ^ Taylor (2013), tr. 169.
  72. ^ Wade (2003), tr. 6.
  73. ^ Zottoli (2011), tr. 66.
  74. ^ Whitmore (1985), tr. 32.
  75. ^ Po Dharma (1987), tr. 122-123.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Cổ thư[sửa | sửa mã nguồn]

  • Ngô Sĩ Liên, 陳紀 [Kỷ nhà Trần], 大越史記全書 [Đại Việt sử ký toàn thư], Bản kỷ/Quyển 7, Bản kỷ/Quyển 8
  • 明實錄 [Minh thực lục]. Wade, Geoff biên dịch.

Đương đại[sửa | sửa mã nguồn]

Sách[sửa | sửa mã nguồn]

  • Aymonier, Etienne (1893). The History of Tchampa (the Cyamba of Marco Polo, Now Annam Or Cochin-China). Oriental University Institute. ISBN 978-1-149-97414-8.
  • Buttinger, Joseph (1958). The Smaller Dragon: A Political History of Vietnam. New York, NY: Praeger.
  • Coedes, George (2015). The Making of South East Asia (RLE Modern East and South East Asia). Taylor & Francis. ISBN 978-1-317-45095-5.
  • ——————— (1968). Walter F. Vella (biên tập). The Indianized States of Southeast Asia. trans.Susan Brown Cowing. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. ISBN 978-0-8248-0368-1.
  • Chapuis, Oscar (1995). A History of Vietnam: From Hong Bang to Tu Duc. Greenwood Press. ISBN 03132-9-622-7.
  • Hall, D. G. E. (1955). History of South East Asia. London: Macmillan.
  • Hardy, Andrew David; Cucarzi, Mauro; Zolese, Patrizia (2009). Champa and the Archaeology of Mỹ Sơn (Vietnam). Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Singapore. ISBN 9789971694517.
  • Hubert, Jean-François (2012). Art of Champa. District 1, Ho Chi Minh: Parkstone Press International.Quản lý CS1: địa điểm (liên kết)
  • Kiernan, Ben (2017). Việt Nam: a history from earliest time to the present. Nhà xuất bản Đại học Oxford. ISBN 978-01900-5-379-6.
  • Lieberman, Victor (2003). Strange Parallels: Integration of the Mainland Southeast Asia in Global Context, c. 800-1830, Vol 1. Nhà xuất bản Đại học Cambridge.
  • Maspero, Georges (2002). The Champa Kingdom. White Lotus Co., Ltd. ISBN 978-9-747-53499-3.
  • Miksic, John Norman (2016). Ancient Southeast Asia. Taylor & Francis. ISBN 1-317-27903-4.
  • ——— (2019). Sandhtakalaning Majapahit: Learning the Dynamics of Majapahit as Nusantara's great strength. Universitas Airlangga.
  • Po Dharma (1987). Le Panduranga (Campa). Ses rapports avec le Vietnam (1802-1835). Viện Viễn Đông Pháp.
  • Sun, Laichen (2006). “Chinese Gunpowder Technology and Đại Việt, ca. 1390–1497”. Trong Reid, Anthony; Tran, Nhung Tuyet (biên tập). Viet Nam: Borderless Histories. Nhà xuất bản Đại học Wisconsin. tr. 72–120. ISBN 9781316445044.
  • Tan, Ta Sen (2009). Cheng Ho and Islam in Southeast Asia. Viện Nghiên cứu Đông Nam Á. ISBN 978-9-81230-837-5.
  • Tarling, Nicholas (1999). The Cambridge History of Southeast Asia. Cambridge University Press. ISBN 9780521663724.
  • Taylor, K. W. (2013). A History of the Vietnamese. Nhà xuất bản Đại học Cambridge.
  • Trần Xuân Sinh (2006). Thuyết Trần. Nhà xuất bản Hải Phòng.
  • Wade, Geoff (2003). The Ming Shi Account of Champa. Asia Research Institute.
  • Whitmore, John K. (1985). Vietnam, Hồ Quý Ly, and the Ming (1371-1421). Yale Center for International and Area Studies.
  • ————————— (2011). “The Last Great King of Classical Southeast Asia: Che Bong Nga and Fourteenth Century Champa”. Trong Lockhart, Bruce; Trần, Kỳ Phương (biên tập). The Cham of Vietnam: History, Society and Art. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Singapore. tr. 168–203. doi:10.2307/j.ctv1qv2rd. ISBN 978-9-971-69459-3.
  • Zottoli, Brian A. (2011). Reconceptualizing Southern Vietnamese History from the 15th to 18th Centuries: Competition along the Coasts from Guangdong to Cambodia. University of Michigan.

Tạp chí, báo[sửa | sửa mã nguồn]

Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Charney, Michael (2004). Southeast Asian Warfare, 1300-1900. Brill.
  • Turnbull, Stephen (2012). Fighting Ships of the Far East (1): China and Southeast Asia 202 BC–AD 1419. Bloomsbury Publishing. ISBN 978-1-78200-046-4.

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]