USS Carter (DE-112)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu hộ tống khu trục USS Carter (DE-112) lúc hạ thủy tại Wilmington, Delaware, ngày 29 tháng 2 năm 1944
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Carter (DE-112)
Đặt tên theo Jack Carter
Xưởng đóng tàu Dravo Corporation, Wilmington, Delaware
Đặt lườn 19 tháng 11, 1943
Hạ thủy 29 tháng 2, 1944
Người đỡ đầu bà Evelyn Carter Patterson
Nhập biên chế 3 tháng 5, 1944
Xuất biên chế 10 tháng 4, 1946
Xóa đăng bạ 10 tháng 2, 1949
Danh hiệu và phong tặng 1 × Ngôi sao Chiến trận
Số phận Chuyển cho Đài Loan, 14 tháng 12, 1948
Trung Hoa dân quốc
Tên gọi ROCS Taizhao (太昭) (DE-26)[1][2]
Trưng dụng 14 tháng 12, 1948
Xóa đăng bạ tháng 12, 1973
Số phận Bán để tháo dỡ
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu lớp Cannon
Trọng tải choán nước
Chiều dài 306 ft (93 m)
Sườn ngang 36 ft 8 in (11,18 m)
Mớn nước 8 ft 9 in (2,67 m) (đầy tải)
Công suất lắp đặt 6.000 shp (4.500 kW)
Động cơ đẩy
Tốc độ 21 hải lý trên giờ (39 km/h)
Tầm xa
  • 10.800 hải lý (20.000 km; 12.400 mi)
  • ở vận tốc 12 hải lý trên giờ (22 km/h)
Thủy thủ đoàn tối đa
  • 15 sĩ quan
  • 201 thủy thủ
Vũ khí

USS Carter (DE-112) là một tàu hộ tống khu trục lớp Cannon từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên Hạ sĩ quan Jack Carter (1922-1942), người đã tử trận trong chiến dịch đổ bộ lên Casablanca ngày 10 tháng 11, 1942 và được truy tặng Huân chương Không lực.[3] Nó đã phục vụ cho đến khi chiến tranh kết thúc, xuất biên chế năm 1946, rồi được chuyển cho Đài Loan năm 1950, và tiếp tục phục vụ cùng Hải quân Trung Hoa dân quốc như là chiếc ROCS Taizhao (DE-26) (太昭 - Hán-Việt: Thái Chiêu) cho đến năm 1973; con tàu bị tháo dỡ sau đó. Carter được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Lớp Cannon có thiết kế hầu như tương tự với lớp Buckley dẫn trước; khác biệt chủ yếu là ở hệ thống động lực Kiểu DET (diesel electric tandem). Các động cơ diesel đặt nối tiếp nhau dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng quay trục chân vịt cho con tàu. Động cơ diesel có ưu thế về hiệu suất sử dụng nhiên liệu, giúp cho lớp Cannon cải thiện được tầm xa hoạt động, nhưng đánh đổi lấy tốc độ chậm hơn.[4][5]

Vũ khí trang bị bao gồm ba pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm hoặc phòng không, một khẩu đội pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đôi và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và tám máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[6][7] Con tàu vẫn giữ lại ba ống phóng ngư lôi Mark 15 21 inch (533 mm). Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 15 sĩ quan và 201 thủy thủ.[6]

Carter được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Dravo CorporationWilmington, Delaware vào ngày 19 tháng 11, 1943. Nó được hạ thủy vào ngày 29 tháng 2, 1944, được đỡ đầu bởi bà Evelyn Carter Patterson, cô của hạ sĩ quan Carter, và nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 3 tháng 5, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Francis John Torrence Baker.[3][8][9]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

USS Carter[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi trình diện để phục vụ cùng Hạm đội Đại Tây Dương, Carter khởi hành từ New York vào ngày 21 tháng 7, 1944 hộ tống một đoàn tàu vận tải vượt Đại Tây Dương để hướng sang Bizerte, Tunisia tại Bắc Phi. Sau khi quay trở về New York vào ngày 18 tháng 9, nó hoạt động huấn luyện tại khu vực Casco Bay, Maine trước khi đi đến Jamaica hộ tống chiếc tàu buôn Pháp Cuba đi New York. Nó chuyển sang nhiệm vụ huấn luyện thủy thủ đoàn các tàu hộ tống khu trục trong tương lai trước khi lên đường cho chuyến hộ tống vận tải vượt Đại Tây Dương thứ hai để hướng sang Oran, Algérie; nó quay trở về Boston, Massachusetts vào ngày 20 tháng 1, 1945.[3]

Từ đó cho đến khi chiến tranh chấm dứt, Carter chuyển sang vai trò tuần tra chống tàu ngầm từ khu vực Casco Bay. Vào ngày 22 tháng 4, nó bắt được tín hiệu sonar một mục tiêu nghi ngờ, và đã cùng tàu hộ tống khu trục Neal A. Scott (DE-769) phối hợp tấn công bằng súng cối chống tàu ngầm Hedgehog đánh chìm được chiếc tàu ngầm U-boat Đức U-518 tại tọa độ 43°26′B 38°23′T / 43,433°B 38,383°T / 43.433; -38.383 (U-518 sunk).[10] Sau khi Đức quốc xã đã thua trận tại châu Âu, vào ngày 9 tháng 5, nó bắt gặp U-858 giữa biển và đã hộ tống chiếc tàu ngầm khi đến khu vực đầu hàng được chỉ định. Đội của nó cũng bắt được tàu ngầm U-284 đang tìm cách trốn sang Nhật Bản cùng với một thiếu tướng Đức, các sĩ quan Nhật Bản cùng những hàng hóa quan trọng trên tàu. Carter đã áp giải tù binh đi đến cảng Portsmouth, New Hampshire vào ngày 17 tháng 5.[3]

Sau khi quay trở lại New York, Trong giai đoạn từ ngày 20 tháng 5 đến ngày 10 tháng 6, Carter phục vụ canh phòng máy bay cho hoạt động huấn luyệb chuẩn nhận phi công của các tàu sân bay tại vùng biển Florida. Khi chiến tranh chấm dứt tại Viễn Đông, nó đi đến Green Cove Springs, Florida vào ngày 8 tháng 11, và được cho xuất biên chế tại đây vào ngày 10 tháng 4, 1946, được đưa về thành phần dự bị thuộc Hạm đội Dự bị Đại Tây Dương.[3]

ROCS Taizhao (DE-26)[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 14 tháng 12, 1948, con tàu được chuyển cho Trung Hoa dân quốc và nhập biên chế cùng Hải quân Trung Hoa Dân quốc như là chiếc ROCS Taizhao (DE-26) (太昭 - Hán-Việt: Thái Chiêu).[1][2] Khi phe Quốc dân Đảng thua trận trong cuộc nội chiến với phe Cộng sản tại lục địa vào năm 1949, con tàu đã cùng với những lực lượng quân đội còn lại rút lui về đảo Đài Loan. Vào ngày 13 tháng 2, 1951, theo lệnh trực tiếp của Tổng thống Tưởng Giới Thạch, con tàu đã tham gia vào hoạt động phong tỏa các cảng Trung Quốc, và chiếm giữ chiếc tàu chở hàng dân sự Na Uy Hoi Houw tại tọa độ 24°13′0″B 123°18′0″Đ / 24,21667°B 123,3°Đ / 24.21667; 123.30000, trong vùng lãnh hải của quần đảo Yaeyama thuộc Nhật Bản.[11][12] Con tàu được cho rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào tháng 12, 1973 và bị tháo dỡ sau đó.

Phần thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Carter được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[3][8]

Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bronze star
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ Huân chương Chiến dịch Châu Âu-Châu Phi-Trung Đông
với 1 Ngôi sao Chiến trận
Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b Bản mẫu:Cite Jane's
  2. ^ a b Carter (6117654)”. Miramar Ship Index. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2009.
  3. ^ a b c d e f Naval Historical Center. Carter (DE-112). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  4. ^ Friedman 1982, tr. 18-24.
  5. ^ Rivet, Eric; Stenzel, Michael. “Classes of Destroyer Escorts”. History of Destroyer Escorts. Destroyer Escort Historical Museum. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2021.
  6. ^ a b Whitley 2000, tr. 300–301.
  7. ^ Friedman 1982, tr. 146, 418.
  8. ^ a b Yarnall, Paul R. (ngày 6 tháng 2 năm 2020). “USS Carter (DE 112)”. NavSource.org. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2021.
  9. ^ Helgason, Guðmundur. “USS Carter (DE 112)”. uboat.net. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2021.
  10. ^ Helgason, Guðmundur. “U-508”. uboat.net. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2021.
  11. ^ Lin Hong-yi (2009). “Chapter 4,1953-1960” (PDF). Blockade on Chinese mainland coast - ROC's Guanbi policy, 1949-1960 (Luận văn) (bằng tiếng Trung). National Chengchi University.
  12. ^ Garver 1997.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]