Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Khalid của Ả Rập Xê Út”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Trang mới: “{{Infobox royalty|monarch |name = Khalid bin Abdulaziz Al Saud |native name = {{lang|ar|خالد بن عبد العزيز آل سعود}} |image…”
(Không có sự khác biệt)

Phiên bản lúc 18:53, ngày 14 tháng 12 năm 2017

Khalid bin Abdulaziz Al Saud
خالد بن عبد العزيز آل سعود
Quốc vương Ả Rập Xê Út
Tập tin:King Khalid bin Abdulaziz Official.jpg
King Khalid in 1982
Quốc vương Ả Rập Xê Út
Thủ tướng
Tại vị25 tháng 3 năm 1975 – 13 tháng 6 năm 1982
Bay'ah25 tháng 3 năm 1975
Tiền nhiệmFaisal
Kế nhiệmFahd
Thông tin chung
Sinh13 tháng 2 năm 1913
Riyadh, Tiểu vương quốc Nejd và Hasa
Mất13 tháng 6 năm 1982(1982-06-13) (69 tuổi)
Ta’if, Ả Rập Xê Út
Hậu duệBandar
Abdullah
Al Jawhara
Nouf
Moudi
Hassa
Faisal
Al Bandari
Mishael
Tên đầy đủ
Khalid bin Abdulaziz bin Abdulrahman bin Faisal bin Turki bin Abdullah bin Mohammad bin Saud
Hoàng tộcNhà Saud
Thân phụIbn Saud
Thân mẫuAl Jawhara bint Musaed bin Jiluwi bin Turki bin Abdullah bin Muhammad bin Saud[1][2]
Tôn giáoHồi giáo

Khalid bin Abdulaziz Al Saud (tiếng Ả Rập: خالد بن عبد العزيز آل سعودKhālid ibn ‘Abd al ‘Azīz Āl Su‘ūd; 13 tháng 2 năm 1913 – 13 tháng 6 năm 1982) là quốc vương của Ả Rập Xê Út từ năm 1975 đến năm 1982.[3] Trong thời gian ông trị vì, kinh tế quốc gia phát triển mạnh mẽ do thu nhập từ dầu mỏ tăng lên, trong khi Trung Đông có nhiều sự kiện quan trọng.

Đầu đời

Khalid sinh tại Riyadh vào ngày 13 tháng 2 năm 1913.[4][5] Ông là con trai thứ năm của Ibn Saud.[6][7] Mẹ ông là Al Jawhara bint Musaed Al Jiluwi,[2][8] xuất thân từ gia tộc Al Jiluwi có thế lực,[9] thành viên của gia tộc này liên hôn với hoàng tộc Saud.[10]

Khalid có một người anh trai ruột là Hoàng tử Muhammad.[11] Em gái ruột của ông tên là Al Anoud, bà lần lượt kết hôn với hai con trai của Sa'ad bin Abdul Rahman (em ruột của Ibn Saud), đầu tiên là với Saud bin Saad, và sau đó tái giá với Fahd bin Saad.[12]

Trài nghiệm ban đầu

Vào năm 14 tuổi, Khalid bin Abdulaziz được Ibn Saud cử làm người đại diện đến chỗ các bộ lạc hoang mạc để lắng nghe các mối quan tâm và vấn đề của họ.[5] Năm 1932, Hoàng tử Khalid được bổ nhiệm làm phó vương của Hejaz thay cho Hoàng tử Faisal, vì Faisal trở thành bộ trưởng bộ ngoại giáo. Nhiệm kỳ làm phó vương tại Hejaz của Hoàng tử Khalid kéo dài cho đến năm 1934.[13] Hoàng tử Khalid tham gia quân đội Ả Rập Xê Út do anh trai Faisal lãnh đạo và chiến đấu với quân đội Yemen vào năm 1934.[5] Sau chiến tranh, Hoàng tử Khalid là chủ tịch của phái đoàn Ả Rập Xê Út trong Hội nghị Taif với Yemen vào năm 1934.[14] Đây là một động thái ngoại giao dẫn đến Hiệp định Taif trong cùng năm đó.[14]

Sau đó, ông trở thành bộ trưởng nội vụ cũng trong năm 1934[13] và là đại biểu của Ả Rập Xê Út trong các cuộc đàm phán hoà bình. Năm 1939, ông tham gia Hội nghị St. James về Palestine tại London với tư cách là một phụ tá của Hoàng tử Faisal, head of the Saudi delegation.[5][14][15] Sự chuẩn bị của Hoàng tử Khalid cho việc cai trị một nhà nước hiện đại bắt đầu từ các chuyến đi cùng Hoàng tử Faisal trong các sứ mệnh tại ngoại quốc, đại diện cho Ả Rập Xê Út tại Liên Hiệp Quốc.[9] Hoàng tử Khalid giữ vai trò là cố vấn cho Hoàng tử Faisal.[14] Hoàng tử Khalid trở thành một nhân vật quốc tế nhờ các chuyến đi này và phục vụ trong vai trò là đại biểu của Ả Rập Xê Út.[14] Ông hào phòng hơn trong việc cung cấp thông tin cho báo chí về nguyên nhân phía sau các quyết định trong chính sách đối ngoại.[9]

Vào tháng 9 năm 1943, Hoàng tử Faisal và Hoàng tử Khalid được mời sang thăm Hoa Kỳ, Phó Tổng thống Henry A. Wallace mở tiệc chiêu đãi họ tại Nhà Trắng.[16] Họ cũng gặp Tổng thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt.[17][18] Họ còn đến thăm Bờ Tây nước Mỹ trên một chuyến tàu đặc biệt do chính phủ Hoa Kỳ chuẩn bị.[16] Một nhà ngoại giao nước ngoài mô tả Hoàng tử Khalid trong giai đoạn này "có lẽ là người tốt nhất tại Ả Rập Xê Út."[19]

Năm 1962, Hoàng tử Khalid được bổ nhiệm làm phó thủ tương, biểu thị rằng ông nổi bật trong hàng ngũ kế vị.[20][21] Trong cuộc kình địch giữa Quốc vương Saud và Hoàng tử Faisal, Hoàng tử Khalid ủng hộ Faisal cùng các hoàng tử có họ ngoại hoặc kết hôn với người thuộc nhánh Al Jiluwi của Nhà Saud.[22] Nhóm này do Hoàng tử Mohammed, Hoàng tử Khalid và Hoàng tử Abdullah.[22]

Thái tử

Khalid bin Abdulaziz được phong làm thái tử vào năm 1965 khi Faisal trở thành quốc vương[23] sau khi người anh ruột của Khalid là Hoàng tử Muhammad từ chối địa vị kế vị[24][25] Hoàng tử Khalid cũng được bổ nhiệm làm phó thủ tướng đầu tiên.[14][26] Nghiệm vụ chính của ông là quản lý toàn bộ các quyền lực tổ chức và hành pháp của Hội đồng Bộ trưởng. Ông cũng xử lý các vấn đề của Thống đốc Mecca nhân danh Quốc vương Faisal.[14] Thái tử Khalid không hoạt động trong các vấn đề thường nhật, song hành động với tư cách là người đại diện khi Quốc vương Faisal vắng mặt trong các cuộc họp hoặc lễ kỷ niệm.[20] Theo các văn kiện ngoại giao của Hoa Kỳ vào năm 1971 được giải mật, trong giai đoạn này ông nhận được ủng hộ từ các tù trưởng bộ lạc, các giới chức tôn giáo và của Hoàng tử Abdullah - người đứng đầu Vệ binh Quốc gia.[27]

Một trong các suy đoán về việc Hoàng tử Khalid được chọn làm người kế vị là việc ông thiếu ưa thích về chính trị. Tóm lại, khi chọn ông làm người kế vị thì hoàng gia có thể tạo ra đồng thuận trong gia tộc.[28]

Cai trị

Khalid trở thành quốc vương vào ngày 25 tháng 3 năm 1975 khi Faisal bị ám sát.[29][30] Ông được tuyên bố là quốc vương sau một cuộc họp của các thành viên cao cấp trong hoàng tộc Saud: Chú ông là Hoàng tử Abdullah bin Abdul Rahman và các anh trai là Hoàng tử Mohammed, Hoàng tử Nasser, Hoàng tử Saad và các em trai là Hoàng tử Fahd và Hoàng tử Abdullah.[31][32] Cuộc họp diễn ra chỉ vài giờ sau vụ ám sát Quốc vương Faisal.[20] Quốc vương Khalid cũng trở thành thủ tướng trên thực tế của Ả Rập Xê Út.[33]

Mặc dù có nhiều tường thuật cho rằng Quốc vương Khalid chỉ là một bù nhìn trong thời kỳ ông cai trị, song thực tế ông là người ra quyết định tối hậu trong toàn bộ các vấn đề chính sách quan trọng.[34] Do Quốc vương Faisal lập ra một hệ thống mà trong đó quốc vương là người dàn xếp cuối cùng trong các vấn đề gia tộc.[35]

Trên khía cạnh khác, Quốc vương Khalid không phải là một nhà lãnh đạo hiệu quả.[32] Mặc dù ông dường như miễn cưỡng cai trị vào lúc ban đầu, song về sau ông nhiệt tình với vương vị và thể hiện quan tâm rõ rệt về giáo dục, y tế và hạ tầng trong nước suốt bảy năm trị vì.[36] Tuy nhiên, Quốc vương Khalid không giữ được độc quyền về quyền lực trong thời gian cai trị, dẫn đến việc phải trao quyền cho các hoàng tử từng giữ các chức vụ quyền lực vào cuối thời Faisal.[37] Ông có một số đặc điểm cá tính khiến ông trở thành một quốc vương được kinh trọng. Mặc dù ông không tích cực quan tâm đến quốc sự và sức khoẻ của ông không tốt, song ông được ngưỡng mộ bởi sự chân thành, đạt được quan hệ tốt với tổ chức truyền thống của Ả Rập Xê Út.[32] Do đó, ông có được ủng hộ từ các hoàng tử khác và các lực lượng có quyền lực lớn trong nước.[32]

Nội vụ

Ả Rập Xê Út trải qua bước phát triển to lớn trong thời gian Khalid cai trị, trở thành một trong cá quốc gia giàu có nhất. Ông chủ yếu xử lý các vấn đề trong nước, tập trung đặc biệt vào phát triển nông nghiệp.[33] Các thành phố công nghiệp JubailYanbu (nay là các tổ hợp khổng lồ) được hình thành trong thời kỳ ông cai trị.[38][39] Tuy nhiên, Simon Henderson lập luận rằng giai đoạn ông cai trị không năng động như mong đợi.[40] Mặt khác, số lượng trường học tăng lên trong thời gian ông cai trị. Vào năm 1975, toàn quốc có 3.028 trường tiểu học, 649 trường cấp hai và 182 trường cấp ba. Đến năm 1980, con số này tăng lên 5.373 trường tiểu học, 1.377 trường cấp hai và 456 trường cấp ba.[41] Việc thành lập Đại học Quốc vương Faisal là một bước phát triển quan trọng khác trong lĩnh vực giáo dục vào giai đoạn này.[14]

The strict financial policies of late King Faisal, coupled with the aftermath of the 1973 oil crisis, created a financial windfall that fueled development and led to a commercial and economic boom in the country. Notable achievements in his reign included the institution of the second "Five-Year Plan" in 1975, which aimed to build up Saudi infrastructure and health care.[13] King Khalid also launched the Kingdom's third Development Plan with the planned budget of $250 billion in May 1980.[36][42]

The political power consolidation of the ruling family was intensified during his reign.[43] In a reorganization of the council of ministers in March 1975, King Khalid named then-crown prince Fahd deputy prime minister and Hoàng tử Abdullah second deputy prime minister.[44] Appointment of Prince Fahd as both crown prince and first deputy prime minister made him much powerful figure in contrast to the status of King Khaled when he was crown prince under King Faisal reign.[45]

The ministry of municipal and rural affairs was established in 1975, and Hoàng tử Majid was appointed minister.[22] Additionally, Hoàng tử Mutaib was appointed minister of public works and housing that was also established by King Khalid in 1975.[46] These two appointments were a move to reduce the power of Sudairi Seven in the cabinet.[22] King Khalid also appointed Hoàng tử Saud as the foreign affairs minister in March 1975.[47] Additionally, the ministry of industry and electricity was founded by King Khalid.[14] His elder brother Prince Mohammad was one of his key advisors.[44] In fact, they acted together on almost all political issues.[20]

He and Crown Prince Fahd relied less on technocrats and recentralized state apparatus. They further evidenced a marked preference for Nejdis, reversing King Faisal's close links with Hejazis. And ulema successfully pressed King Khalid to realize their intentions.[48]

Some foreign observers thought traditionalism was no longer a strong force in Saudi Arabia. This idea was disproved when at least 500 dissidents invaded and seized the Grand Mosque in Mecca on 20 November 1979.[49] When the first news of the attack in Mecca reached Riyadh, the initial reaction of King Khalid was to consult the ulama, in order to get permission to use military force to eject the attackers. The ulama hesitated and refrained from a definite answer.[49] Only after the assault had been underway for 36 hours did some ulama allow the use of force.[49] At the time of the event, Crown Prince Fahd was in Tunisia for a meeting of the Arab Summit and then commander of National Guard Prince Abdullah was in Morocco for an official visit. Therefore, King Khalid assigned the responsibility to Prince Sultan, then minister of defense and Hoàng tử Nayef, then minister of interior, to deal with the incident.[50]

After regaining the mosque, 63 rebels were executed on 9 January 1980 in eight different cities.[51] The executions were decreed by King Khalid after the edict issued by ulemas.[51] Although the Saudi government under King Khalid executed the rebels, the religious establishment that inspired them were given greater powers.[52]

In 1979, the Shiite minority in the Eastern Province organized protests and several demonstrators were arrested. They were freed in 1980. After releasing the demonstrators, King Khalid and Crown Prince Fahd visited the Eastern region from town to town.[53] Saudi Arabia acquired full control of Aramco in 1980 during his reign.[29]

International relations

U.S. President Jimmy Carter meets with King Khalid and Crown Prince Fahd in January 1978

Although King Khalid did not have an extensive interest in foreign affairs as much as King Faisal had,[35] his reign witnessed many important international events, including the Iranian Revolution, the assassination of Anwar Sadat and the Soviet invasion of Afghanistan, all of which had significant effects for Saudi Arabia.[54] Kamal Adham was his key counsellor on foreign policy during his reign from 1975 to 1982.[55][56]

In April 1975, his first diplomatic coup was the conclusion of a demarcation agreement concerning the Al Buraymi Oasis, where the frontiers of Abu Dhabi, Oman and Saudi Arabia meet.[30] Claims and counterclaims over this frontier had exacerbated relations among them for years. Therefore, King Khalid aimed at settling this long-standing boundary disputes.[33] The conclusion of negotiations under King Khalid added to his stature as a statesman.[13]

King Khalid visited Damascus in December 1975 and met with then-Syrian President Hafez al-Assad to discuss the ways to support Muslims in Lebanon that began to experience civil war.[35] He declared the Saudi Arabia's support to Syria's role in the war.[57]

In April 1976, King Khalid made state visits to all of the Gulf states in the hope of promoting closer relations with his peninsular neighbors.[13] He also called numerous summits and inaugurated the Gulf Cooperation Council (GCC) in 1981 that is seen an outcome of his early visits.[13][29] Then GCC was established along with Bahrain, Kuwait, Oman, Qatar and the United Arab Emirates.[29]

Following the 1979 Islamic Revolution in Iran, King Khalid sent Khomeini a congratulatory message, stating that "Islamic solidarity" could be the basis for closer relations of two countries.[58] He also argued that with the foundation of the Islamic Republic in Iran there were no obstacles that inhibited the cooperation between two countries.[59] However, his initiative was unsuccessful, leading to Saudi's unofficial support for Iraq against Iran in the Iran–Iraq War in 1980.[58]

In April 1980, King Khalid cancelled the state visit to Britain as a protest over the broadcasting of Death of a Princess, that narrated the execution of Misha'al bin Fahd, the granddaughter of Prince Mohammad bin Abdulaziz.[60] King Khalid had been invited by Queen Elizabeth II in June 1979,[60] following the Queen's visit to Saudi Arabia in February 1979, during which King Khalid gave her a diamond necklace.[61] The visit that had been cancelled in 1980 was realized on 9 June 1981 for four days.[62] Upon meeting then-British Prime Minister Margaret Thatcher in Saudi Arabia in April 1981,[63] King Khalid is reputed to have said he would be happy to discuss falcons with her, but for all matters of administration she should talk to Crown Prince Fahd.[40][64]

King Khalid asked then-U.S. president Carter to sell advanced fighter planes to Saudi Arabia to assist in countering communist aggression in the area.[65] The delivery of the first of sixty F-15s under the agreement approved by Carter arrived in the Kingdom in 1982. He purchased a Boeing 747 with an operating room should he be stricken while on his travels.[65] King Khalid initiated the move to bring in foreign labor to help with the country's development.[65] Jimmy Carter in his memoirs stated that both King Khalid and then Crown Prince Fahd assured him of "their unequivocal support for Sadat", but they would realize no concrete move in this direction, at least not publicly.[66]

Health

Since King Khalid suffered from heart ailment for a long period of time, then Crown Prince Fahd was in charge of ruling the country.[67] King Khalid had a massive heart attack in 1970 and had a heart surgery in 1972 at the Cleveland Clinic in the United States.[68] On 3 October 1978, he underwent a second heart surgery again in Cleveland.[68][69] He also had a hip operation in London in 1976.[70][71] In February 1980, King Khalid had a minor heart attack.[72]

Personal life

King Khalid married four times and was the father of ten children (four sons and six daughters). While the sequence in seniority of his wives is not known clearly, the ladies were:

  • Latifa bint Ahmed Al Sudairi. She was the sister of Khalid's step-mother Hussa bint Ahmed Al Sudairi (mother of the "Sudairi Seven") and also of Sultana bint Ahmed Al Sudairi, a wife of King Faisal.[73]
  • Tarfa bint Abdullah bin Abdul Rahman Al Saud. She was born into a cadet branch of the Al Saud dynasty itself, and was a grandniece of Khalid's father King Abdulaziz.
  • Noura bint Turki bin Abdulaziz bin Abdullah bin Turki Al Saud. Again born into a cadet branch of the Al Saud dynasty, she was the mother of Khalid's elder sons, Prince Bandar and Prince Abdullah. She died at age 95 on 12 September 2011.[74]
  • Sita bint Fahd Al Damir[75] was the mother of Khalid's daughters and of his youngest son, Hoàng tử Faisal. She was from the Ujman tribe in Al Badiyah and was a niece of Wasmiyah Al Damir, wife of Abdullah bin Jiluwi.[76] She died on 25 December 2012 at the age of 90.[77]

Khalid had four sons and six daughters.[1] His youngest son, Prince Faisal, is the governor of Asir Province and a member of the Allegiance Council. One of his daughters, Hussa bint Khalid, married Abdullah bin Faisal bin Turki, grandson of Turki I.[78][79] She died at the age of 59 in November 2010.[80] Another daughter, Công chúa Moudi (married to a son of King Faisal), is the general secretary of the King Khalid Foundation and the Al Nahda Foundation, and a member of the Consultative Assembly.[81][82]

Khalid was described as warm and cheerful and adored by his sisters and brothers, and as attentive and devout.[72] Falconry and horse-riding were Khalid's favorite pastimes,[4][83] leading to the description of him as a man of the desert.[32] He bought the first Toyota Landcruiser in 1955 for falconry.[84] In December 1975 Khalid bought the then longest Cadillac at 25 feet and 2 inches long.[85] Khalid bought Beechwood House in the north London suburb of Highgate for £1.9 million in March 1977.[86]

Death and funeral

King Khalid died on 13 June 1982 due to a heart attack in Taif.[67][87] On the same day his body was brought from Taif to Mecca. After funeral prayers at the Grand Mosque in Mecca, King Khalid was buried in Al Oud cemetery in Riyadh.[67][88] Leaders of Qatar, Kuwait, Djibouti, the United Arab Emirates and Bahrain,[67] as well as then-President of Egypt Hosni Mubarak, participated in the funeral.[89]

Legacy

King Khalid International Airport and King Khalid Eye Specialist Hospital in Riyadh, King Khalid Military City and King Khalid Medical City in the Eastern province were all named after him.[65][90] Also, his family established King Khalid Foundation, which is being headed by his son, Abdullah bin Khalid.[91]

Awards

In January 1981, King Khalid was awarded by the United Nations (UN) a gold medal. This medal is the UN's highest decoration for the statesmen who significantly contributed to peace and cooperation worldwide.[92] King Khalid also received the King Faisal International Prize for Service to Islam due to his efforts in support of Islamic solidarity in 1981.[93]

Honour

Foreign honour

Ancestry

See also

References

  1. ^ a b “Biography”. King Khalid Exhibition. Bản gốc lưu trữ 14 Tháng Ba năm 2014. Truy cập 5 Tháng tám năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  2. ^ a b “Al Saud Family (Saudi Arabia)”. European Institute for Research on Euro-Arab Cooperation. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2012.
  3. ^ “Khalid ibn Abdulaziz Al Saud” (6th edition). The Columbia Encyclopedia. Columbia University Press. 2013. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2013.  – via Questia (cần đăng ký mua)
  4. ^ a b “King Khalid database”. King Khalid Foundation. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  5. ^ a b c d “King Khalid”. Rulers. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2012.
  6. ^ Nabil Mouline (April–June 2010). “Power and generational transition in Saudi Arabia” (PDF). Critique internationale. 46: 1–22. doi:10.3917/crii.046.0125. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2012.
  7. ^ “Riyadh. The capital of monotheism” (PDF). Business and Finance Group. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2013. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  8. ^ “Personal trips”. King Khalid Exhibition. Bản gốc lưu trữ 22 tháng Mười năm 2012. Truy cập 7 tháng Năm năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  9. ^ a b c Helen Chapin Metz (1992). “Saudi Arabia: A Country Study”. Country Studies. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2012.
  10. ^ Joshua Teitelbaum (1 tháng 11 năm 2011). “Saudi Succession and Stability” (PDF). BESA Center Perspectives. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2012.
  11. ^ Winberg Chai (22 tháng 9 năm 2005). Saudi Arabia: A Modern Reader. University Press. tr. 193. ISBN 978-0-88093-859-4. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
  12. ^ “Family Tree of Al Anoud bint Abdulaziz bin Abdul Rahman Al Saud”. Datarabia. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2012.
  13. ^ a b c d e f “King Khalid ibn Abdulaziz Al Saud”. Global Security. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2012.
  14. ^ a b c d e f g h i “Key Figures”. The Telegraph. 1 tháng 1 năm 2001. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2012.
  15. ^ “King Khaled Ibn Abdulaziz Al Saud”. The Saudi Network. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2012.
  16. ^ a b Thomas W. Lippman (April–May 2005). “The Day FDR Met Saudi Arabia's Ibn Saud” (PDF). The Link. 38 (2): 1–12. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2012.
  17. ^ James Wynbrandt (2010). A Brief History của Ả Rập Xê Út. Infobase Publishing. tr. 182. ISBN 978-0-8160-7876-9. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2013.
  18. ^ “Saudi Foreign Policy”. Saudi Embassy Magazine. Fall 2001. Bản gốc lưu trữ 7 Tháng tám năm 2013. Truy cập 18 tháng Bảy năm 2013. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  19. ^ “New, shy King is 'nicest man in Saudi Arabia'. Edmonton Journal. New York Times. 26 tháng 3 năm 1975. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2012.
  20. ^ a b c d Joseph A. Kechichian (2001). Succession in Saudi Arabia. New York City: Palgrave.
  21. ^ Michael Herb (1999). All in the family. Albany: State University of New York Press. tr. 102. ISBN 0-7914-4168-7.
  22. ^ a b c d Mordechai Abir (1988). Saudi Arabia in the Oil Era: Regime and Elites: Conflict and Collaboration. Kent: Croom Helm.
  23. ^ John E. Jessup (1998). An Encyclopedic Dictionary of Conflict and Conflict Resolution, 1945-1996. Westport, CT: Greenwood Press. tr. 46.  – via Questia (cần đăng ký mua)
  24. ^ “Saudi Arabia”. Splendid Arabia. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2012.
  25. ^ Gulshan Dhanani (19 tháng 6 năm 1982). “The King Is Dead, Long Live the King”. Economic and Political Weekly. 17 (25). JSTOR 4371042. – via JSTOR (cần đăng ký mua)
  26. ^ Simon Henderson (1994). “After King Fahd” (Policy Paper). Washington Institute. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2013.
  27. ^ “Memorandum Prepared in the Central Intelligence Agency” (PDF). US State Department. Washington DC. 15 tháng 7 năm 1971. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2013.
  28. ^ M. Ehsan Ahrari (1999). “Political succession in Saudi Arabia”. Comparative Strategy. 18 (1): 13–29. doi:10.1080/01495939908403160. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2012.
  29. ^ a b c d “Timeline”. Saudi Embassy. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2012.
  30. ^ a b Jennifer Reed (1 tháng 1 năm 2009). The Saudi Royal Family. Infobase Publishing. tr. 60. ISBN 978-1-4381-0476-8. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2013.
  31. ^ “King Faisal shot to death by 'deranged' nephew”. The Miami News. AP. 25 tháng 3 năm 1975. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2012.
  32. ^ a b c d e William B. Quandt (1981). Saudi Arabia in the 1980s: Foreign Policy, Security, and Oil. Washington DC: The Brookings Institution. tr. 79.
  33. ^ a b c Saudi Arabia A Country Study. Kessinger Publishing. 30 tháng 6 năm 2004. tr. 11. ISBN 978-1-4191-4621-3. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2012.
  34. ^ Bernard Reich (1990). Political Leaders of the Contemporary Middle East and North Africa. Westport: Greenwood. tr. 177.
  35. ^ a b c P. Edward Haley; Lewis W. Snider; M. Graeme Bannerman (1979). Lebanon in Crisis: Participants and Issues. Syracuse University Press. tr. 116. ISBN 978-0-8156-2210-9. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2012.
  36. ^ a b “Khalid, an almost reluctant ruler”. The Sydney Morning. 15 tháng 6 năm 1982. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2012.
  37. ^ Iris Glosemeyer (2004). “6 Saudi Arabia: Dynamisn Uncovered”. Trong Volker Perthes (biên tập). Arab Elites: Negotiating the Politics of Change. Boulder: Lynne Rienner Publications. tr. 141–172.
  38. ^ Brian Lees (tháng 3 năm 2006). “The Al Saud family and the future của Ả Rập Xê Út” (PDF). Asian Affairs. XXXVII (1): 36–49. doi:10.1080/03068370500457411. Bản gốc (PDF) lưu trữ 2 Tháng hai năm 2014. Truy cập 18 Tháng tư năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  39. ^ Nadav Safran (1985). Saudi Arabia: The Ceaseless Quest for Security. Cornell University Press. tr. 17. ISBN 978-0-8014-9484-0. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2013.
  40. ^ a b Simon Henderson (14 tháng 9 năm 2009). “Saudi Succession—a Desert Legacy”. The Cutting Edge. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2012.
  41. ^ Walaa Hawari (13 tháng 5 năm 2010). “Remembering King Khaled”. Arab News. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2012.
  42. ^ “Modern History”. Saudi Embassy Warsaw. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2012.
  43. ^ Mark Thompson (30 tháng 6 năm 2014). Saudi Arabia and the Path to Political Change: National Dialogue and Civil Society. I.B.Tauris. tr. 15. ISBN 978-1-78076-671-3. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2014.
  44. ^ a b Sherifa Zuhur (2011). Saudi Arabia. Santa Barbara: ABC-CLIO, LLC.
  45. ^ “New Saudi king shuffles cabinet”. The Calgary Herald. Riyadh. AP. 29 tháng 3 năm 1975. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2013.
  46. ^ Don De Marino (1979). “Royal factionism and Saudi foreign policy” (PDF). Foreign Affairs. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2012.[liên kết hỏng]
  47. ^ “New Saudi Arabia King Picks Deputy Premiers”. Sarasota Herald-Tribune. UPI. 30 tháng 3 năm 1975. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2012.
  48. ^ Peter W. Wilson; Douglas Graham (1994). Saudi Arabia: The coming storm. M. E. Sharpe. ISBN 1-56324-394-6. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2012.
  49. ^ a b c Alexander Bligh (1985). “The Saudi Religious Elite (Ulama) as Participant in the Political System of the Kingdom”. International Journal of Middle East Studies. 17 (1): 37–50. doi:10.1017/s0020743800028750. JSTOR 163308. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2012.
  50. ^ Kamal M. Astal (2002). “Three case studies: Egypt, Saudi Arabia and Iraq” (PDF). Pakistan Journal of Applied Sciences. 2 (3): 308–319. doi:10.3923/jas.2002.308.319. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2012.
  51. ^ a b “Saudis behead zealots”. The Victoria Advocate. AP. 10 tháng 1 năm 1980. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2012.
  52. ^ Cyrus Dioun. “Democracy within Boundaries:Managing Risks While Promoting Liberalization in Saudi Arabia (February 2005)” (PDF). Middle East Program. Nathan Hale Foreign Policy Society. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 28 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  53. ^ “Saudi dynasty regains hold on monarchy after Moslem troubles”. The Sydney Morning Herald. 27 tháng 12 năm 1980. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2012.
  54. ^ Khaled, Matein (1 tháng 2 năm 2005). “Saudi Arabia: The kingdom's geopolitical preoccupation”. Khaleej Times. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2012.
  55. ^ Thimmesch, Nick (7 tháng 4 năm 1977). “The Egyptian-Saudi peace axis”. The News Dispatch. Washington. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
  56. ^ “Obituaries in the News”. Associated Press. Riyadh. 30 tháng 10 năm 1999. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
  57. ^ Andrew Downer Crain (1 tháng 1 năm 2009). The Ford Presidency: A History. McFarland. tr. 142. ISBN 978-0-7864-5299-6. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2013.
  58. ^ a b Abdulrahman A. Hussein (2012). So History doesn't Forget: Alliances Behavior in Foreign Policy of the Kingdom of Saudi Arabia, 1979–1990. Bloomington: AuthorHouse.
  59. ^ Gil Feiler (2003). Economic Relations Between Egypt and the Gulf Oil States, 1967–2000: Petro Wealth and Patterns of Influence. Sussex Academic Press. tr. 151. ISBN 978-1-903900-40-6. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
  60. ^ a b Russell, William (25 tháng 4 năm 1980). “Saudi King cancels visit to Britain”. The Glasgow Herald. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2012.
  61. ^ “The King Khalid Diamond Necklace”. From Her Majesty's Jewel Vault blog.
  62. ^ “Saudi King arrives in Britain”. The Montreal Gazette. UPI. 10 tháng 6 năm 1981. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2012.
  63. ^ “British Premier visits Saudi Arabia”. The New York Times. 20 tháng 4 năm 1981. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2012.
  64. ^ Nabil Mouline (April–June 2010). “Power and generational transition in Saudi Arabia” (PDF). Critique internationale (46). Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2014.
  65. ^ a b c d “King Khalid Air Base”. CoBases. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2012.
  66. ^ Gregg Johnson; Greg Lehman; Matthias Matthijs (Spring 2002). “Power and Preservation in the House of Saud” (PDF). The Bologna Center Journal of International Affairs. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2012.
  67. ^ a b c d “Crown Prince Fahd takes control of largest oil-exporting nation”. Herald Journal. 14 tháng 6 năm 1982. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2012.
  68. ^ a b “King Khalid faces another operation”. The Deseret News. 29 tháng 9 năm 1978. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2012.
  69. ^ “Khalid accepts lunch invitation at White House”. Eugene Register. 21 tháng 10 năm 1978. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2012.
  70. ^ “King Khalid is in good health”. New Straits Times. Reuters. 20 tháng 10 năm 1981. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2012.
  71. ^ “Ailing Khalid have visitors”. Reading Eagle. UPI. 21 tháng 2 năm 1980. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2012.
  72. ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên mweston
  73. ^ “Family Tree of Khalid bin Abdulaziz bin Abd al Rahman Al Saud”. Datarabia. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2012.
  74. ^ “وفاة الأميرة نورة بنت تركي بن عبد العزيز بن تركي آل سعود (The death of Princess Noura bint Turki bin Abdulaziz bin Turki Al Saud)”. Asharq Alawsat (bằng tiếng Arabic). Jeddah. 13 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2012.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  75. ^ Jennifer S. Uglow; Maggy Hendry (1999). The Northeastern Dictionary of Women's Biography. Macmillan Publishers. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2012.
  76. ^ “Wasmiyah al Damir Biography”. Datarabia. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2012.
  77. ^ “Death of Princess Sita bint Fahd”. Saudi Press Agency. 25 tháng 12 năm 2012. Bản gốc lưu trữ 30 Tháng mười hai năm 2013. Truy cập 26 Tháng mười hai năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  78. ^ “Family Tree of Hussa bint Khalid bin Abdulaziz Al Saud”. Datarabia. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2013.
  79. ^ Betty Beale (15 tháng 10 năm 1978). “Washington Letter”. The Spokesman Review. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2012.
  80. ^ “الديوان الملكي ينعى الأميرة حصة بنت خالد (Death of Princess Hussa bint Khalid)”. Al Riyadh. 18 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2012.
  81. ^ “Breakthrough in Saudi Arabia: women allowed in parliament”. Al Arabiya. 11 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2013.
  82. ^ “Princess Moudi bint Khalid”. Who's Who Arab Women. Bản gốc lưu trữ 18 tháng Mười năm 2013. Truy cập 11 Tháng tám năm 2013. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  83. ^ Bahgat Korany; Ali E. Hillal Dessouki (1 tháng 1 năm 2010). The Foreign Policies of Arab States: The Challenge of Globalization. American University in Cairo Press. tr. 371. ISBN 978-977-416-360-9. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2013.
  84. ^ “Booming Libya finds common interests with Gulf grandees”. Zawya. 15 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2012.
  85. ^ “People in the News”. The Pittsburg Press. 23 tháng 12 năm 1975. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2012.
  86. ^ “Work on king's mansion starts without consent”. The Times (60045). 2 tháng 7 năm 1977. tr. 13. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2016 – qua The Times Digital Archive. Đã bỏ qua tham số không rõ |subscription= (gợi ý |url-access=) (trợ giúp)
  87. ^ “Saudi Arabia” (PDF). GSN. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2012.[liên kết hỏng]
  88. ^ Abdul Nabi Shaheen (23 tháng 10 năm 2011). “Sultan will have simple burial at Al Oud cemetery”. Gulf News. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2012.
  89. ^ “Death of King Khaled”. Sarasota Herald Tribune. 15 tháng 6 năm 1982. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2012.
  90. ^ Saeed Al Asmari (7 tháng 6 năm 2013). “King Khalid Medical City Project earns Mideast design award”. Arab News. Dammam. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2013.
  91. ^ “Leadership”. King Khalid Foundation. Bản gốc lưu trữ 18 Tháng sáu năm 2013. Truy cập 9 Tháng tám năm 2013. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  92. ^ Muhammed Azhar Ali Khan (28 tháng 1 năm 1981). “King Khalid stars at summit”. Ottawa Citizen. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2012.
  93. ^ “الملك خالــد في سطور (King Khalid)” (bằng tiếng Arabic). King Khalid Award. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  94. ^ “Senarai Penuh Penerima Darjah Kebesaran, Bintang dan Pingat Persekutuan Tahun 1982” (PDF). Istiadat. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2016.
Khalid của Ả Rập Xê Út
Sinh: , 1913 Mất: , 1982
Tước hiệu
Tiền nhiệm
Faisal
King of Saudi Arabia
1975–1982
Kế nhiệm
Fahd
Nhà Saud
Tiền nhiệm
Muhammad
Crown Prince of Saudi Arabia
1965–1975
Kế nhiệm
Fahd
Chức vụ chính trị
Tiền nhiệm
King Faisal
Prime Minister of Saudi Arabia
1975–1982
Kế nhiệm
King Fahd