Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tú Xương”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 225: Dòng 225:
::::::::'''Đứng lại văn chương một tú tài'''
::::::::'''Đứng lại văn chương một tú tài'''
[[Tản Đà]] khi còn sống rằng trong những thi sĩ tiền bối, ông phục nhất Tú Xương (Xuân Diệu kể). Nguyễn Công Hoan kể rằng [[Tản Đà]] rất phục tài dùng chữ của Tú Xương, tự nhận trong đời thơ của mình mới địch nổi Tú Xương một lần thôi bằng chữ "vèo" trong bài thơ "Cảm thu, Tiễn thu" của ông:''Vèo trông lá rụng đầy sân''.
[[Tản Đà]] khi còn sống nói rằng trong những thi sĩ tiền bối, ông phục nhất Tú Xương (Xuân Diệu kể). Nguyễn Công Hoan kể rằng [[Tản Đà]] rất phục tài dùng chữ của Tú Xương, tự nhận trong đời thơ của mình mới địch nổi Tú Xương một lần thôi bằng chữ "vèo" trong bài thơ "Cảm thu, Tiễn thu" của ông:''Vèo trông lá rụng đầy sân''.


[[Nguyễn Tuân]] biểu dương Tú Xương là: ''một người thơ, một nhà thơ vốn nhiều công đức trong cuộc trường kỳ xây dựng tiếng nói văn học của dân tộc Việt Nam''
[[Nguyễn Tuân]] biểu dương Tú Xương là: ''một người thơ, một nhà thơ vốn nhiều công đức trong cuộc trường kỳ xây dựng tiếng nói văn học của dân tộc Việt Nam''

Phiên bản lúc 15:21, ngày 17 tháng 9 năm 2017

Ngôi nhà 247 phố Hàng Nâu, nơi Tú Xương sinh ra và lớn lên

Tú Xương tên thật là Trần Tế Xương (chữ Hán: 陳濟昌), tự Mặc Trai, hiệu Mộng Tích, Tử Thịnh, sinh ngày 5 tháng 9 năm 1870, ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định (hiện nay là phố Minh Khai, phường Vị Hoàng, thành phố Nam Định), mất ngày 29 tháng 1 năm 1907.[1], là một nhà thơ Việt Nam.

Ông thi nhiều lần nhưng chỉ đỗ Tú tài (nên có bút hiệu Tú Xương), và luôn sống trong cảnh thiếu thốn. Tuy vậy, ông là một nhà thơ nổi tiếng, có ảnh hưởng lớn đến nhiều nhà thơ hiện đại, như Xuân Diệu viết về ông:

Ông nghè ông thám vô mây khói
Đứng lại văn chương một tú tài

Tiểu sử

Thời tuổi trẻ

Trần Tế Xương sinh ra vào ngày 5 - 9 - 1870 (tức 10 - 8 AL) tại số nhà 247 phố Hàng Nâu thành phố Nam Định với tên húy là Trần Duy Uyên. Ông thuộc dòng dõi nho gia, vốn là họ Phạm, đổi thành họ Trần là bởi vào đời Nhà Trần lập công lớn được phong quốc tính (vua cho đổi theo họ nhà vua). Ông nội Trần Tế Xương tên là Trần Duy Năng. Thân sinh của Trần Tế Xương là cụ Trần Duy Nhuận cũng là một nhà nho, thi nhiều khoa không đậu, sau làm Tự thừa ở dinh đốc học Nam Định, sinh được 9 người con, 6 trai, 3 gái, Tú Xương là con trưởng. Trong tất cả các tài liệu nói về Tú Xương đều không thấy có ảnh, nhưng dáng hình cụ Tú được người bạn học là hạc phong Lương Ngọc Tùng viết trong bài thơ "Nhớ rõ hình dung..."

Cùng làng, cùng phố, học cùng trường
Nhớ rõ hình dung cụ Tú Xương,
Trán rộng, tai dày, da tựa tuyết,
Mồm tươi, mũi thẳng, mắt như gương.
Tiếng vàng sang sảng ngâm thơ phú,
Gót ngọc khoan khoan dạo phố phường.
Mấy chục năm trời đà vắng bóng,
Nghìn năm còn rạng dấu thư hương.[2]

Ông đi học sớm và cũng sớm nổi tiếng thông minh. Hồi mới lên 10 tuổi, nhà có khách đến chơi, thấy trước nhà có một dãy chậu hoa, khách bèn ra cho bé Uyên một câu đối: "Đình tiền ngũ sắc hoa" (trước sân có hoa năm sắc), Uyên liền chỉ vào lồng chim khướu treo ở hiên và đối: "Lung trung bách thanh điểu" (trong lồng có chim trăm tiếng). Khách nghe đối tấm tắc khen nhưng lại thở dài "đời thằng bé lại luẩn quẩn như chim nhốt trong lồng". Ông học chữ Hán cụ kép làng Thành Thị, tên là Trần Chấn Thái, ngồi bảo học ở thành Nam.

Tú Xương lấy vợ năm 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn.

Ông đi thi từ lúc 17 tuổi, đó là khoa Bính Tuất (1886). Các tài liệu khác chép nhầm là khoa Ất Dậu (1885)[3]

Cuộc đời ngắn ngủi có 37 năm của ông đã nằm gọn trong một giai đoạn bi thương nhất của đất nước. Trước lúc ông ra đời 3 năm thì 6 tỉnh nam kỳ mất trọn cho Pháp. Tú Xương lên 3 thì Bắc Kỳ trong đó có Nam Định bị tấn công lần thứ nhất. Tú Xương 12 tuổi, Bắc Kỳ, Nam Định bị tấn công lần thứ 2 và mất nốt. Hiệp ước Harmand 1883 rồi hiệp ước Patenôtre 1884 thừa nhận quyền thống trị của Pháp trên đất Việt Nam. các phong trào kháng chiến chống Pháp diễn ra sôi nổi nhưng lần lượt thất bại. Tú Xương sinh ra và lớn lên trong bối cảnh sục sôi và bi thương đó.

Gia đình

Ngôi nhà số 280 phố Hàng Nâu

Họ Phạm làng Lương Đường, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương có nhiều người đỗ đạt. Tú Xương nhắc Chẳng những Lương Đường có thủ khoa là nhắc đến làng quê của vợ ông. Gia đình bà Phạm Thị Mẫn đến đời bố mẹ thì dời sang sinh sống ở Nam Định. Bà Mẫn sinh trưởng tại đây. Cuộc kết hôn giữa ông Tú với bà là từ hoàn cảnh gần gũi đó. Bà sinh cho ông được 8 người con, trong đó có 6 trai và 2 gái. Bà Tú là một phụ nữ tiêu biểu cho phụ nữ Việt Nam xưa ở nhiều phương diện như tần tảo, thương chồng, thương con, nhẫn nại quên mình. Công việc kiếm sống cho gia đình của bà là buôn bán nhỏ (tiểu thương). Điều đặc biệt là chính bà đã đi vào thi phẩm của ông chồng như một nhân vật điển hình hấp dẫn.

Khi mất ngôi nhà số 247 phố Hàng Nâu của ông nội và bố để lại. Gia đình ông Tú chuyển đến nhà số 280 cùng phố mà sau này địa phương đã xếp hạng là di tích lưu niệm Tú Xương chính là do mẹ vợ nhà thơ (bà Hai Sửu) chia cho con gái.

Cuộc sống sự nghiệp

Tập tin:Loixua65a.jpg

Cuộc đời của Trần Tế Xương là cuộc đời của một nghệ sĩ, nhưng trước hết là một trí thức phong kiến. Ông thuộc loại nhà nho "dài lưng tốn vải" như trong bài Hỏi ông trời của ông:

Ta lên ta hỏi ông trời:

Trời sinh ta ở trên đời biết chi?

Biết chăng cũng chẳng biết gì:

Biết ngồi Thống Bảo, biết đi ả đầu

Biết thuốc lá, biết chè tàu

Cao lâu biết vị, hồng lâu biết mùi

Mọi chi tiêu trong gia đình đều do một tay bà Tú lo liệu. Điều đó đã đi vào thơ ca của ông: Tiền bạc phó cho con mụ kiếm hoặc là Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ hay là Nuôi đủ năm con với một chồng, rồi ông cũng tự cười mình trong bài Phỗng sành:

Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành

Mắt thời thao láo, mặt thời xanh

Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó

Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh

Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ

Rượu chè trai gái đủ tam khoanh

Thế mà cứ nghĩ rằng ta giỏi,

Cứ việc ăn chơi chẳng học hành

Cuộc đời ông chỉ gắn liền với thi cử, tính ra có tất cả tám lần. Đó là các khoa: Bính Tuất (1886); Mậu Tý (1888); Tân Mão (1891); Giáp Ngọ (1894); Đinh Dậu (1897); Canh Tý (1900); Quý Mão (1903) và Bính Ngọ (1906). Sau 3 lần hỏng thi mãi đến lần thứ tư khoa Giáp Ngọ (1894) ông mới đậu tú tài, nhưng cũng chỉ là tú tài thiên thủ (lấy thêm). Sau đó không sao lên nổi cử nhân, mặc dù đã khá kiên trì theo đuổi. Khoa Quý Mão (1903) Trần Tế Xương đổi tên thành Trần Cao Xương tưởng rằng bớt đen đủi, nhưng rồi hỏng vẫn hoàn hỏng, đến phát cáu lên:

Tế đổi làm cao mà chó thế, Kiện trông ra tiệp hỡi trời ôi !

Thời buổi nhiễu thương, thi cử cũng nhiễu thương. Ông làm thơ tự trào về chuyện thi cử

Vịnh khoa thi Hương

Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa. [4]
Lọng cắm rợp trời, quan Sứ đến,
Váy lê quét đất, mụ đầm ra. [5]
Nhân tài đất Bắc nào ai đó ?
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà !

Giễu người thi đỗ

Một đàn thằng hỏng đứng mà trông
Nó đỗ khoa này có sướng không [6]
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt,
Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng ! [7]

Xã hội bấy giờ, cái bằng tú tài thuộc loại dang dở dở dang (tú tài không được thi Hội, cử nhân mới được thi, tú tài không được bổ quan, cử nhân mới được bổ). Cho nên đậu tú tài, muốn đậu cử nhân phải đợi 3 năm sau thi lại.

Cuộc sống của ông về vật chất rất thiếu thốn. Đúng năm ông đậu tú tài (1894) thì ngôi nhà số 247 phố Hàng Nâu (nay là phố Minh Khai) bị cháy. Cụ Nhuận làm lại xây bằng gạch Ông tu tác cửa cao nhà rộng, toan để cho dâu, câu thơ đó là Tú Xương nhắc đến sự kiện này, nhưng rồi ngôi nhà đó lại bị bà Hai An chiếm đoạt. Tú Xương đã phải than:Nhà cửa giao canh nợ phải bồi. Nghèo đói đã cứa xé Tú Xương. Sự đểu cáng đã vả vào Tú Xương. Hoàn cảnh đó được in đậm trong thơ phú của Tú Xương sự vất vả, cay cú, phát phẫn, buồn phiền.

Tác phẩm

Tình hình văn bản tác phẩm của Tú Xương hết sức phức tạp. Không có di cảo. Không có những công trình đáng tin cậy tập hợp tác phẩm khi tác giả còn sống hoặc vừa nằm xuống. Sinh thời, nhà thơ sáng tác dường như chỉ để tiêu sầu hoặc mua vui, thơ làm đọc lên cho vợ con, bạn bè nghe, rồi tùy ý truyền khẩu. Thành Nam thủa ấy còn có nhiều người hay thơ và thơ hay, cùng nỗi niềm và khuynh hướng với Tú Xương như Trần Tích Phiên, Phạm Ứng Thuần, Trần Tử Chi, Vũ Công Tự...Thơ họ cũng được phổ biến không ít. Lại 3 năm một lần thi hương, sĩ tử cả Bắc Kỳ tụ hội về đây, thơ hay được lan truyền càng rộng rãi. Vì thế thơ Tú Xương càng dễ bị lẫn lộn.

Lúc đầu chỉ là các bài sưu tầm đăng giải rắc trên tạp chí Nam Phong (các năm 1918, 1919, 1920, 1926). Tiếp đến sách "Văn đàn bảo giám (quyển 3)" của Trần Trung Viên, Nam Ký thư quán Hà Nội 1926, giới thiệu 79 tác phẩm, trong đó phần lớn đã được đăng ở Nam Phong. Từ đó,lần lượt xuất hiện những sách chuyên đề về Tú Xương. Có 2 văn bản chữ nôm hiện còn lưu giữ ở thư viện Hán - Nôm đó là Vị thành giai cú tập biên (ký hiệu AB.194) ghi rõ "Nam Định Vị Xuyên tú tài Phượng Tường Trần Cao Xương Tử Thịnh trước tập" và Quốc văn tùy ký (ký hiệu AB.383). Có 10 lần xuất bản bằng chữ quốc ngữ với những văn bản sau:

  • 1 Vị Xuyên thi văn tập của Sở Cuồng (tức Lê Dư), Nam Kỳ thư quán 1931 (sau có tái bản), giới thiệu 174 tác phẩm gồm thơ, phú, câu đối. Mà sau này các sách khác thừa hưởng kết quả. Nhưng chép nhầm tên ông là Trần Kế Xương.
  • 2 Trông giòng sông Vị (Văn chương và thân thế Trần Tế Xương) của Trần Thanh Mại; Trần Thanh Địch 1935 lần thứ nhất ở Huế sau tái bản nhiều lần.
  • 3 Tú Xương thi tập, do nhà sách Phúc Chí, 95 Hàng Bồ, Hà Nội 1950, giới thiệu 75 bài thơ phú
  • 4 Thân thế và thơ văn Tú Xương của Vũ Đăng Văn, Nhà xuất bản Cây Thông, Hà Nội 1951. Đính chính tên nhà thơ là Trần Tế Xương (không phải Kế) và giới thiệu 181 tác phẩm.

Những sách này là từ trước 1954, sưu tầm thơ Tú Xương còn hết sức tùy tiện và hầu như không có chú giải cần thiết. Việc khảo cứu về nhà thơ cũng chưa được đặt ra, nếu không kể đến cuốn Trông giòng sông Vị.

  • 5 Văn thơ Trần Tế Xương Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội 1957. Giới thiệu chính thức 125 bài và đưa 55 bài vào phần tồn nghi.
  • 6 Đấu tranh chống hai quan niệm sai lầm về Tú Xương, nhà xuất bản Nghiên cứu cục xuất bản, Bộ văn hóa Hà Nội 1957 của Trần Thanh Mại nhân dịp lần thứ 50 ngày giỗ Tú Xương.
  • 7 Tú Xương con người và nhà thơ của Trần Thanh Mại, Trần Tuấn Lộ, nhà xuất bản Văn hóa 1961 Giới thiệu 193 bài chính thức, 17 bài tồn nghi.
  • 8 Thơ Trần Tế Xương, Ty văn hóa Nam Hà, 1970. Bài tiểu luận của Xuân Diệu in lần đầu tiên ở đây, có nhiều phát hiện lý thú. Còn tác phẩm chỉ tuyển chọn chẵn 100 bài. Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ.
  • 9 Thơ văn Trần Tế Xương, nhà xuất bản Văn học, 1970 có sự tham gia của Nguyễn Công Hoan chọn 151 tác phẩm và 22 bài tồn nghi.
  • 10 Thơ văn Trần Tế Xương, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội 1984. Cuốn này sao gần như hoàn toàn cuốn 9.
  • Chỉ có cuốn Tú Xương tác phẩm giai thoại của nhóm Nguyễn Văn Huyền (chủ biên), Đỗ Huy Vinh, Mai Anh Tuấn và người giới thiệu giáo sư: Nguyễn Đình Chú, Hội văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh - 1986 là một công trình nghiên cứu kỹ lưỡng và công phu. Loại ra các tác phẩm không phải của tác giả, so sánh, đối chiếu các bản đã in ở những lần xuất bản trước, chọn ra 134 bài là của Tú Xương và loại ra 68 bài (có chú dẫn nguyên nhân loại ra cho từng bài một). Bài viết này lấy tư liệu chủ yếu ở cuốn sách đó.
  • Sau này nhất là thời mở cửa việc xuất bản tràn lan không được kiểm định kỹ đã lấy tư liệu ở các nguồn khác nhau kể trên, điều đó cũng giải thích tại sao các Blog lại đưa ra các tư liệu khác nhau về Tú Xương.

Bức tranh hiện thực trong thơ Tú Xương

Bức tranh hiện thực trong thơ Tú Xương là một bức tranh xám xịt, dường như chỉ có tệ nạn, đau buồn. Nó phản ánh đúng tâm trạng đau đớn, bi quan của một trí thức bất đắc chí, bất lực trước hoàn cảnh của đất nước trong buổi giao thời khi người Pháp vừa hoàn thành xong quá trình xâm lược Việt Nam, khi nền tảng đạo đức xã hội ngày càng suy đồi, khi những giá trị tốt đẹp của xã hội cũ bị mất uy tín và mai một dần. Cảm hứng trong thơ Tú Xương hầu như không hướng nhiều về phía phản ánh những điều tốt đẹp trong cuộc sống, về sức sống, về bản lĩnh của dân tộc, của nhân dân mà đầy đau buồn trước vận nước vận dân.

Với giọng văn châm biếm sâu cay, thơ văn của ông đã đả kích những tệ nạn trong giới quan trường lúc bấy giờ cũng như sự xuống cấp đạo đức, phong hóa trong đời sống xã hội. Tính trào phúng, đả kích sâu cay được đẩy lên mức cao trong như bài thơ Ông cò:

Ông cò

Hà Nam danh giá nhất ông cò [8]
Trông thấy ai ai chẳng dám ho.
Hai mái trống toang đành chịu giột [9]
Tám giờ chuông đánh phải nằm co [10]
Người quên mất thẻ âu trời cãi [11]
Chó chạy ra đường có chủ lo [12]
Ngớ ngẩn đi xia may vớ được [13]
Chuyến này ắt hẳn kiếm ăn to

Đặc biệt bài thơ Phường nhơ có sức khái quát lớn về quan lại thân Pháp, nhờ thế lực Pháp mà thăng tiến như Hoàng Cao Khải lúc bấy giờ:

Phường nhơ [14]

Bấy lâu chơi với rặt phường nhơ [15]
Quen mắt ưa nhìn chả biết dơ
Nào sọt, nào quang, nào bộ gắp [16]
Đứa bưng đứa hót đứa đang chờ [17]
Mình hôi mũi ngạt không kỳ quản,
Áo ấm cơm no vẫn nhởn nhơ
Ngán nỗi hàng phường khi cúng tế,
Vẽ ông ôm đít để lên thờ [18]

Người vợ trong thơ Tú Xương

Tú Xương rất trân trọng vợ mình. Cuộc đời ông chỉ sống được có 37 năm, nhưng học hành thi cử đến 8 lần mới đỗ Tú Tài, mọi việc ở nhà đều là một tay của bà Tú gánh vác. Chính vì vậy, ông viết về vợ như một sự tri ân.

Thương vợ

Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.

Sự trân trọng, tri ân ấy còn được ông nâng lên đến mức làm hẳn một bài "Văn tế sống vợ"

Văn tế sống vợ

Con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ
Tiếng có miếng không, gặp chăng hay chớ
Mặt nhẵn nhụi, chân tay trắng trẻo, ai dám chê rằng béo rằng lùn?
Người ung dung, tính hạnh khoan hoà, chỉ một nỗi hay gàn hay dở!
Đầu sông bãi bến, đua tài buôn chín bán mười
Trong họ ngoài làng, vụng lẽ chào dơi nói thợ
Gần xa nô nức, lắm gái nhiều trai
Sớm tối khuyên răn, kẻ thầy người tớ
Ông tu tác cửa cao nhà rộng, toan để cho dâu
Anh lăm le bia đá bảng vàng, cho vang mặt vợ
Thế mà:
Mình bỏ mình đi, mình không chịu ở
Chẳng nói chẳng rằng, không than không thở.
Hay mình thấy tớ: nay Hàng Thao, mai phố Giấy mà bụng mình ghen?
Hay mình thấy tớ: sáng Tràng Lạc, tối Viễn Lai, mà lòng mình sợ?
Thôi thôi
Chết quách yên mồ
Sống càng nặng nợ
Chữ nhất phẩm ơn vua vinh tứ, ngày khác sẽ hay
Duyên trăm năm ông Nguyệt xe tơ, kiếp này đã lỡ
Mình đi tu cho thành tiên thành phật, để rong chơi Lãng Uyển, Bồng Hồ
Tớ nuôi con cho có rể có dâu, để trọn vẹn đạo chồng nghĩa vợ

Tài dùng chữ trong thơ Tú Xương

Nhà văn Nguyễn Công Hoan kể lại rằng:

Sau vụ lụt lớn năm 1926, ông ra Hà Nội, một tối Tản Đà rủ ông đi chơi mát bằng xe giờ. Người kéo xe này gầy và già, nhưng hai người chỉ đi hóng gió, không cần chạy nhanh. Ngồi trên xe, Tản Đà nói chuyện thơ Tú Xương. Tác giả “Khối tình con” đọc bài "Sông lấp", nức nở khen chữ “vẳng” và chữ “giật” vì nó chan chứa kín đáo cái ngậm ngùi của một tinh thần hoài cổ. Ông bảo ông mới địch nổi Tú Xương được một lần thôi, bằng chữ "vèo" trong bài Cảm thu, tiễn thu của ông:

Vèo trông lá rụng đầy sân,
Công danh phù thế có ngần ấy thôi.

Anh phu xe kéo chúng tôi, mấy phút đầu còn chạy một cách dưỡng lão thôi, đến lúc ấy anh đi thong thả lại, Tản Đà lại đọc nữa:

Ai ơi có nhớ ai không?
Trời mưa một mảnh áo bông che đầu
Nào ai có tiếc ai đâu?
Áo bông ai ướt khăn đầu ai khô

Tản Đà đọc đến câu "Khăn đầu ai khô", tự nhiên anh phu xe dừng lại và khen: hay quá!

Chúng tôi hỏi ra, biết người kéo xe không phải là nhà nghề. Ông là một thầy đồ, vì lụt nên nghèo đói, phải ra Hà Nội tạm kéo xe. Từ lúc ấy, chúng tôi không dám ngồi xe cho ông ta kéo nữa. Ba người cùng đi bộ với nhau để nói chuyện thơ, rồi cùng về tòa báo ở phố Hàng Lọng. Tản Đà mời ông phu xe vào nhà chơi, cùng uống rượu, xong tiễn ông một đồng bạc. Tôi nhắc lại: khi nghe bốn tiếng "khăn đầu ai khô" thì ông đồ kéo xe dừng lại. Còn tôi, khi nghe bốn tiếng ấy cũng có cái gì nó bò bò ở trong gáy làm tôi thít lên...

Sau khi thuật lại giai thoại văn học này, thi sĩ Xuân Diệu còn viết thêm lời bình:

Về bài "Áo bông che bạn", có ý kiến cho rằng “bạn” ở đây là một người đàn bà. Nhưng nhiều ý kiến cho rằng "tình" đây không phải là tình yêu, tình với người ả đầu chẳng hạn, mà khẳng định đây là tình non nước. Tú Xương chẳng tiện nói thẳng ra mà phải ngụy trang bằng một giọng văn hai nghĩa: Non non, nước nước, tình tình. Người bạn này nếu không hẳn là Phan Bội Châu thì cũng là một bạn đồng tâm đồng chí, về sau đã xuất dương: Người đi Tam Đảo, Ngũ Hồ... Còn câu: Kẻ về khóc trúc, than ngô một mình, hiểu nghĩa văn học thì khóc trúc là trúc mà bà vợ vua Thuấn khóc chồng đã vẩy nước mắt vào, làm cho lốm đốm; than ngô là cây ngô đồng trong thơ cổ, hiểu nôm na khóc trúc, than ngô là khóc cho nhân dân mà đa số là nông dân...

Và:

Non non, nước nước, tình tình
Vì ai lận đận cho mình ngẩn ngơ!

Tình là tình non nước, tình núi sông, thì chữ “lận đận” vào đây là hợp hơn cả.

Tám câu lục bát Áo bông che bạn này đầy một hồn văn trữ tình.

Đánh giá tác phẩm

Mộ Trần Tế Xương tại thành phố Nam Định (gần tượng đài Trần Quốc Tuấn)

Nói đến tài làm thơ của Tú Xương, nhiều người đã đặc biệt chú ý đến sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình, trong đó trữ tình là gốc. Với Tú Xương, vẫn chưa thấy chắc chắn có bài thơ chữ Hán nào, chỉ thấy thơ Nôm viết bằng các thể loại cổ điển: thơ luật Đường: thất ngôn bát cú, tứ tuyệt; phú; văn tế; câu đối; hát nói; lục bát. Ở thể loại nào Tú Xương cũng tỏ ra là một nghệ sĩ bậc thầy.

Xuân Diệu viết về Tú Xương

Ông nghè ông thám vô mây khói
Đứng lại văn chương một tú tài

Tản Đà khi còn sống nói rằng trong những thi sĩ tiền bối, ông phục nhất Tú Xương (Xuân Diệu kể). Nguyễn Công Hoan kể rằng Tản Đà rất phục tài dùng chữ của Tú Xương, tự nhận trong đời thơ của mình mới địch nổi Tú Xương một lần thôi bằng chữ "vèo" trong bài thơ "Cảm thu, Tiễn thu" của ông:Vèo trông lá rụng đầy sân.

Nguyễn Tuân biểu dương Tú Xương là: một người thơ, một nhà thơ vốn nhiều công đức trong cuộc trường kỳ xây dựng tiếng nói văn học của dân tộc Việt Nam

Có người tin rằng Nguyễn Khuyến viếng Tú Xương hai câu thơ

Kìa ai chín suối xương không nát
Có lẽ ngàn thu tiếng vẫn còn

Tú Xương, còn là hiện tượng hiếm trong lịch sử tác gia Việt Nam: Tú Xương Có "môn Phái", "môn đệ". Tên của ông là Trần Tế Xương. Có lúc đổi thành Trần Cao Xương. Nhưng đây là chữ xương với nghĩa "thịnh vượng" (còn có nghĩa là đẹp, thẳng). Sách xưa có chữ "Đức giả xương" (người có đức, thịnh vậy). Không phải là xương theo nghĩa xương thịt. Nhưng người đời sau, mấy vị chuyên làm thơ trào phúng đã cố tình đùa nghịch và "xuyên tạc", gắn cho cái nghĩa xương thịt, để rồi tự nguyện suy tôn Tú Xương (thịt) lên bậc tổ sư, còn mình là môn đệ. Và như thế là lịch sử văn học Việt Nam ở thế kỷ 20 bỗng nhiên có một "môn phái" gồm Tú Xương, rồi Tú Mỡ, Tú Sụn, Cử Nạc và thêm "chi phái": Tú Poanh, Đồ Phồn cũng là dòng tú, cử, đồ với nhau cả. Vinh dự thay cho vị tổ sư Tú Xương !

Một số bài thơ trữ tình nổi tiếng

Sông lấp
Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò
Áo bông che bạn
Ai ơi có nhớ ai không?
Trời mưa, một mảnh áo bông che đầu.
Nào ai có tiếc ai đâu?
Áo bông ai ướt khăn đầu ai khô.
Người đi Tam Đảo, Ngũ Hồ
Kẻ về khóc trúc, than ngô một mình
Non non, nước nước, tình tình
Vì ai lận đận cho mình ngẩn ngơ!

Chú thích

  1. ^ Tú Xương tác phẩm giai thoại, Nguyễn Văn Huyền (chủ biên), hội văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh, 1986, lời giới thiệu
  2. ^ Bài này được Trần Lê Văn đăng trong (Tú Xương:"Khi cười khi khóc khi than thở"). Nhà xuất bản Lao động, 2000
  3. ^ Vì ba năm thi một lần nên nhiều tài liệu chép nhầm là khoa Ất Dậu (1885). Thực ra, năm ấy xảy ra sự biến Tôn Thất Thuyết đánh úp quân Pháp ở Huế rồi bị thất bại, vì thế khoa thi năm ấy bị bãi không tổ chức được. Vua Đồng Khánh lên ngôi, năm sau (1886) mới mở tiếp, gọi là ân khoa
  4. ^ Người Pháp sợ tổ chức thi ở Hà Nội tụ tập nhiều người rễ dẫn đến biến động không kiểm soát được, nên từ khoa (1886) trở đi, sĩ tử Bắc Kỳ phải về thi cả ở trường thi Nam Định
  5. ^ Vợ chồng toàn quyền Doumer và công sứ đến dự (hai câu này Tú Xương tả chúng đến chúng ra như choán hết cả trời đất nước Nam)
  6. ^ Tức là khoa Đinh Dậu (1897)
  7. ^ Mụ đầm bệ vệ ngồi trên, nhấp nhổm, ngọ nguậy bộ mông, còn các cử nhân tân khoa thì quỳ lạy ở dưới, nghểnh cổ trông lên
  8. ^ Ông cò hay cẩm, viên chức Pháp đứng đầu lực lượng cảnh sát trong một thành phố đều do chữ "commissaire" đọc chệch ra
  9. ^ Vì muốn lợp lại, phải làm đơn xin phép, nộp lệ phí rất phiền hà
  10. ^ Câu này ý nói: từ 8 giờ tối, thiết quân luật, không ai được ra đường
  11. ^ Thẻ là giấy chứng nhận nộp thuế và là giấy thông hành, ai ra ngoài quên không mang sẽ bị phạt khá nặng
  12. ^ Nhà nào ở phố có chó để chạy ra đường cũng bị phạt
  13. ^ Đi xia: đi đại tiện. Thời ấy thành phố không có nhà vệ sinh công cộng. Nhưng nếu cảnh sát bắt được ai đi ngoài thì người đó bị phạt nặng
  14. ^ Lũ nhơ bẩn, bọn gắp phân. Trước đây người ta thường phóng uế bừa bãi ở bờ ruộng, ven đường. Những người nghèo túng, đi gắp phân về bón ruộng hoặc bán lấy tiền. Xã hội cũng thường khinh rẻ họ. Ở đây tú Xương đặc tả họ nhằm ngụ ý đả kích bọn quan lại bấy giờ
  15. ^ Vũ Tuân đương cậy cục Hoàng Cao Khải để được bổ làm quan. Tú Xương làm và đọc khi Vũ Tuân đến chơi và đòi nghe thơ
  16. ^ Các dụng cụ của người lấy phân
  17. ^ Tả các động tác lấy phân nhưng có ý ám chỉ bọn quan lại bưng lễ, hót tiền của dân. Đang chờ chờ người ta đi song để lấy phân, đây ám chỉ những kẻ chờ được bổ quan
  18. ^ ôm đít động tác đi đại tiện. Có thể hiểu là ôm đít Tây (Pháp), hầu hạ làm tay sai cho Tây. Về hai câu kết, nhà thơ thuật lại với bạn là Trần Tích Phiên rằng, khi đó ông nghĩ đến Hoàng Cao Khải, đang bắt dân thờ làm thành hoàng sống làng Thái Hà, Hà Nội

Liên kết ngoài