IFK Göteborg

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
IFK Göteborg
Tập tin:IFK Göteborg.png
Tên đầy đủIdrottsföreningen Kamraterna Göteborg (tên chính thức IFK Göteborg Fotboll[1])
Biệt danh
  • Blåvitt (xanh-trắng)
  • Änglarna (thiên thần)
  • Kamraterna (đồng chí)
Tên ngắn gọnIFK
Thành lập4 tháng 10 năm 1904; 119 năm trước (1904-10-04)
SânGamla Ullevi, Gothenburg
Sức chứa18,416
Chủ tịch điều hànhMats Engström
Huấn luyện viên trưởngRoland Nilsson
Giải đấuAllsvenskan
2019Allsvenskan, hạng 7
Trang webTrang web của câu lạc bộ

Idrottsföreningen Kamraterna Göteborg (tên chính thức IFK Göteborg Fotboll), thường được gọi là IFK Göteborg, IFK (địa phương đặc biệt) hoặc đơn giản là Göteborg là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp Thụy Điển có trụ sở tại Gothenburg. Được thành lập vào năm 1904, IFK Göteborg là câu lạc bộ bóng đá Bắc Âu giàu thành tích nhất và đây là câu lạc bộ duy nhất ở Bắc Âu giành được danh hiệu cấp châu lục tại một trong những giải đấu chính của UEFA đó là hai lần vô địch UEFA Cup trong các năm 19821987.

Câu lạc bộ có mối liên kết với hiệp hội bóng đá Gothenburg và thi đấu các trận trên sân nhà tại Gamla Ullevi. Trang phục thi đấu của đội bóng là sắc xanh trắng, là màu sắc truyền thống của cả công ty thể thao mà câu lạc bộ bắt nguồn IFKhuy hiệu của thành phố Gothenburg.

Bên cạnh 2 danh hiệu UEFA Cup, IFK Göteborg đã giành được 18 danh hiệu vô địch Thụy Điển, nhiều thứ hai chỉ sau Malmö FF và 7 danh hiệu Cúp bóng đá Thụy Điển (Svenska Cupen), nhiều thứ ba. IFK Göteborg đã từng bốn lần góp mặt tại Tứ kết UEFA Champions League, trong đó có 2 lần vào tới tận bán kết.

Đây cũng là câu lạc bộ thể thao duy nhất giành được giải thưởng Jerring sau chiến thắng ở Cúp UEFA năm 1982. Đây là giải thưởng được trao cho tổ chức hoặc cá nhân có thành tích xuất sắc nhất trong năm do người dân Thụy Điển bình chọn, chính vì vậy mà họ cũng được coi là câu lạc bộ bóng đá nổi tiếng nhất Thụy Điển.

IFK Göteborg hiện đang thi đấu ở Allsvenskan, giải đấu bóng đá cấp độ cao nhất của Thụy Điển trong phần lớn lịch sử của họ. Câu lạc bộ cũng thi đấu ở giải đấu cao nhất Thụy Điển từ năm 1977 cho đến nay, là chuỗi liên tục dài nhất mà một đội bóng thi đấu ở Allsvenskan. Họ có lần đầu tiên vô địch Thụy Điển vào năm 1908, chỉ bốn năm sau khi thành lập và đã giành được ít nhất một danh hiệu vô địch trong mỗi thập kỷ kể từ đó ngoại trừ thập niên 1920, 1970 và 2010. Thời kỳ đỉnh cao của IFK Göteborg là từ năm 1982 đến 1996 khi họ vươn tầm ra châu Âu cùng với việc đoạt 10 trong tổng số 15 danh hiệu vô địch Thụy Điển.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Trận chung kết Svenska Mästerskapet giữa IFK Göteborg và IFK Uppsala năm 1908.

IFK Göteborg được thành lập vào ngày 4 tháng 10 năm 1904 tại Café Olivedal ở quận Annedal của Linnéstaden, trung tâm thành phố Gothenburg.[2] Nó là tổ chức thứ ba, nhưng là còn lại duy nhất trong số các tổ chức được thành lập bởi hiệp hội IFK tại Gothenburg và là thứ 39 trong số tổng thể các tổ chức thể thao được thành lập bởi IFK.[3] Một ủy ban bóng đá đã được thành lập tại cuộc họp lịch sử đầu tiên. Trận đấu bóng đá đầu tiên của hiệp hội đã kết thúc với chiến thắng 4–1 trước câu lạc bộ khác của khu vực là IK Viking.[4] Nền móng của IFK Göteborg rất quan trọng đối với sự phát triển của bóng đá tại thành phố, vì cho đến thời điểm đó thì Örgryte IS là câu lạc bộ lớn nhất và chiếm ưu thế nhất tại Gothenburg. Với việc IFK Göteborg được thành lập sẽ giúp tạo ra những cuộc cạnh tranh cần thiết cho sự thúc đẩy bóng đá phát triển.[5]

Năm 1907, IFK Göteborg trở thành đội đầu tiên Thụy Điển chỉ bốn năm thành lập đã đánh bại Örgryte IS.[6] Sau đó, họ tiếp tục giành chức vô địch Thụy Điển đầu tiên vào năm 1908 bằng việc chiến thắng giải đấu cúp Svenska Mästerskapet, ba cầu thủ của câu lạc bộ đã được gọi vào đội tuyển quốc gia Thụy Điển.[6] Năm đó, IFK lần đầu tiên có trận đấu với một câu lạc bộ ngoài Thụy Điển, đó là khi họ gặp câu lạc bộ Đan Mạch Østerbro BK và Boldklubben af 1893.[6]

Năm 1910, lần đầu tiên các cầu thủ thi đấu với trang phục áo sọc xanh trắng.[7] Hai năm sau, câu lạc bộ đã có trận hòa 1–1 với đội tuyển olympic Thụy Điển 1912, và các tờ báo ở Stockholm đã gọi IFK Göteborg là "câu lạc bộ bóng đá Thụy Điển xuất sắc nhất từ ​​trước đến giờ".[8] IFK Göteborg vô địch Svenska Serien, giải đấu cao nhất của bóng đá Thụy Điển lúc bấy giờ, nhưng không phải là giải đấu quyết định của Giải vô địch bóng đá Thụy Điển, lần thứ năm liên tiếp vào năm 1917. Thời kỳ đầu, câu lạc bộ không có huấn luyện viên và phải đến năm 1921 họ mới có huấn luyện viên chính thức đầu tiên khi một bản hợp đồng có thời hạn hai năm được ký kết với huấn luyện viên người Hungary Sándor Bródy.[9] Giải đấu quốc gia chính thức đầu tiên của Thụy Điển Allsvenskan, bắt đầu vào cuối năm 1924, năm mà huyền thoại Filip Johansson ra mắt IFK Göteborg.[10] Câu lạc bộ mùa giải đó chỉ đứng ở vị trí thứ hai chung cuộc nhưng Johansson đã ghi tới 39 bàn thắng sau 22 trận, trở thành vua phá lưới giải đấu.[11]

IFK đã giành được danh hiệu Allsvenskan đầu tiên của họ vào mùa giải 1934–35, mười mùa giải trước đó câu lạc bộ đều cán đích ở vị trí tốp bốn chung cuộc.[12] Bóng đá Thụy Điển bị thống trị bởi các đội bóng tới từ Gothenburg trong những năm này,[13] nhưng IFK Göteborg đã xuống hạng một cách đầy bất ngờ vào mùa giải 1937–38,[14] mặc dù ngay lập tức họ trở lại Allsvenskan trong mùa giải tiếp theo. Trở lại hạng cao nhất, IFK tiếp tục kết thúc ở vị trí thứ hai, với việc giải đấu tiếp tục được tổ chức dù cho Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. IFK đã giành được một danh hiệu khác vào mùa giải 1941–42 với một đội hình mạnh,[14] nhưng giai đoạn còn lại của thập kỷ là kết quả hỗn hợp. Đội hình những năm 1940 bao gồm những cầu thủ tài năng như Gunnar Gren, người trở thành cầu thủ ghi bàn hàng đầu năm 1946, được trao giải Guldbollen (Quả bóng Vàng Thụy Điển), cầu thủ xuất sắc nhất Thụy Điển và cùng với đội tuyển bóng đá quốc gia Thụy Điển giành huy chương vàng Thế vận hội Mùa hè 1948.[15] Khi Gunnar Gren rời đi vào năm 1949, IFK đã rớt khỏi Allsvenskan ở mùa giải tiếp theo nhưng cũng chỉ sau đó một mùa họ đã trở lại giải bóng đá cao nhất Thụy Điển. IFK có lần đầu tiên thi đấu tại Cúp vô địch các câu lạc bộ châu Âu vào năm 1958 nhưng đã bị loại bởi SC Wismut ở vòng hai. Năm 1959, kỷ lục về một trận đấu ở Allsvenskan với 52.194 khán giả được thiết lập khi IFK gặp đội bóng cùng thành phố Örgryte IS tại sân vận động Nya Ullevi.[16]

Cổ động viên của IFK Göteborg trong trận derby với đối thủ Örgryte IS năm 2005.

Sau một thập kỷ không có duyên, IFK được dẫn dắt bởi huấn luyện viên và cựu cầu thủ bóng đá của đội là Bertil Johansson, người đã đưa câu lạc bộ đến danh hiệu vô địch một cách đầy kinh ngạc vào năm 1969.[14] Mùa giải tiếp theo là một trong những khoảng thời gian đen tối nhất trong lịch sử câu lạc bộ.[14][17] IFK đã xuống hạng và không giống như những lần xuống hạng trước đó, họ không trở lại Allsvenskan ngay lập tức. Sau ba mùa đá tại giải đấu chỉ cao thứ hai Thụy Điển, IFK đã mất đi niềm tin trở lại Allsvenskan.[18] Nhưng sau khi thành viên hội đồng quản trị Anders Bernmar cùng những người khác làm việc chăm chỉ để đưa câu lạc bộ đi đúng hướng, IFK đã được thăng hạng Allsvenskan vào năm 1976.[18] Năm 1979, IFK đã ký hợp đồng với huấn luyện viên Sven-Göran Eriksson.[19] Ông đã đưa ra đội hình 4-4-2 với "gây sức ép và hỗ trợ" được gọi là mô hình Swenglish,[20] điều mà đã tạo cho IFK thành công lớn sau này. Mùa giải đầu tiên, vị huấn luyện viên này đã đưa câu lạc bộ cán đích ở vị trí á quân Allsvenskan và có lần đầu tiên vô địch Cúp bóng đá Thụy Điển (Svenska Cupen).

IFK Göteborg and their fans celebrate a goal against Örebro SK in 2004.

Sau khi tăng cường sức mạnh với việc đưa về một số cầu thủ đắt giá[21] như Thomas Wernerson và Stig Fredriksson, câu lạc bộ tiếp tục giành vị trí Á quân Allsvenskan và lọt vào tới tứ kết UEFA Cup 1981. Năm 1982 sau đó trở thành một mùa giải sóng gió khi toàn bộ hội đồng quản trị được thay thế và câu lạc bộ gần như phá sản, thậm chí họ đã phải vay tiền từ hiệp hội ủng hộ chính thức để tới Valencia thi đấu trận tứ kết UEFA Cup.[22] Tuy nhiên, khi khó khăn IFK đã thắng mọi trận đấu mà họ tham gia từ trận play-off Allsvenskan, Svenska Cupen và đặc biệt là UEFA Cup, họ đã đánh bại Hamburger SV 4–0 sau hai lượt trận chung kết để vô địch.[23] Quãng thời gian 15 năm sau đó, IFK là câu lạc bộ hàng đầu của Thụy Điển[24] với 10 danh hiệu vô địch Allsvenskan, 3 lần giành Svenska Cupen và thêm một lần nữa giành UEFA Cup năm 1987 sau khi đánh bại Dundee United tổng tỉ số 2-1 sau hai lượt trận.

Ban huấn luyện đã đưa IFK trở thành một đội bóng mạnh với hai chiếc cúp vô địch quốc nội năm 1983 và 1984, cùng với chiếc cúp châu Âu danh giá năm 1983. Năm 1986, IFK có lần đầu tiên trong lịch sử vào tới tận bán kết Cúp C1 châu Âu, chỉ chịu thua Barcelona trong loạt đá luân lưu.[25] Một đội hình tài năng đã lại một lần nữa giành cả hai danh hiệu UEFA Cup và Allsvenskan vào năm 1987,[26] sau khi đánh bại Dundee United ở trận chung kết UEFA Cup. Huấn luyện viên đội trẻ là Roger Gustafsson sau đó đã tiếp nhận chiếc ghế huấn luyện viên chính thức từ người tiền nhiệm Gunder Bengtsson vào năm 1990 và khoảng thời gian đó của ông ở IFK rất thành công khi câu lạc bộ vô địch Allsvenskan năm lần trong khoảng thời gian từ 1990 đến 1995.[27]

UEFA Champions League 1992–93, IFK lần lượt vượt qua nhà vô địch Thổ Nhĩ Kỳ Beşiktaş ở vòng đầu tiên, nhà vô địch Ba Lan Lech Poznań ở vòng hai để chính thức có mặt ở vòng bảng dành cho tám đội xuất sắc nhất, nơi họ chám chán A.C. Milan, FC PortoPSV Eindhoven. Tuy đứng thứ hai bảng đấu sau Milan nhưng với luật thi đấu chỉ có đội đứng đầu tiến vào trận chung kết nên IFK đành dừng bước. Khi IFK tiếp tục giành được Allsvenskan năm 1994, họ đủ điều kiện để tham dự Cúp châu Âu. Câu lạc bộ tiến vào vòng bảng UEFA Champions League, nơi họ đối mặt với những câu lạc bộ FC Barcelona, Manchester UnitedGalatasaray. Và việc sẽ sớm bị loại đã được dự đoán từ trước đó,[28][29] nhưng IFK Göteborg đã vượt qua với tư cách đầu bảng và tiến vào vòng đấu loại trực tiếp trước khi bị loại bởi Bayern Munich theo luật bàn thắng trên sân khách.

Những năm cuối cùng trước thiên niên kỷ mới đáng thật vọng với IFK Göteborg, tương phản rõ rệt với thành công trước đó.[30] Đội chỉ giành được huy chương bạc vào năm 1997 và vị trí thứ tám vào năm 1998 sau khi chiêu mộ một số cầu thủ đắt giá nhưng thi đấu không thành công.[30][31] Trong cả hai năm 1998 và 1999, câu lạc bộ đều thay huấn luyện viên vào giữa mùa giải, điều mà trước đây chưa từng xảy ra trong lịch sử câu lạc bộ.[30] Năm cuối cùng của thập kỷ kết thúc với vị trí thứ sáu chung cuộc. Thiên niên kỷ mới mang đến những kết quả khác nhau, câu lạc bộ xuống hạng năm 2002 nhưng là đối thủ đáng gờm với bất kỳ đội bóng nào cạnh tranh chức vô địch năm 2001, 2004 và 2005. Năm 2007, danh hiệu đầu tiên sau 11 năm được bảo đảm ở vòng cuối cùng Allsvenskan. Câu lạc bộ sau đó giành Cúp quốc gia trong mùa giải kế tiếp. IFK Göteborg vẫn được coi là một trong ba "gã khổng lồ" của bóng đá Thụy Điển cùng với Malmö FFAIK Fotboll, mặc dù chỉ giành được danh hiệu Allsvenskan một lần trong suốt 20 năm qua.[25][32][33][2]

Trang phục[sửa | sửa mã nguồn]

Danh sách cầu thủ[sửa | sửa mã nguồn]

Đội hình chính[sửa | sửa mã nguồn]

Tính đến 10 tháng 6 năm 2023[34]

Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA.

Số VT Quốc gia Cầu thủ
1 TM Thụy Điển Pontus Dahlberg
2 HV Thụy Điển Emil Salomonsson
3 HV Thụy Điển Johan Bångsbo
5 TV Thụy Điển Sebastian Ohlsson
6 HV Na Uy Anders Trondsen
7 TV Thụy Điển Sebastian Eriksson
8 TV Na Uy Elias Hagen
9 Thụy Điển Marcus Berg (đội trưởng)
10 TV Thụy Điển Hussein Carneil
11 TV Na Uy Eman Markovic
12 TM Iceland Adam Ingi Benediktsson
13 TV Thụy Điển Gustav Svensson (đội trưởng thứ 3)
Số VT Quốc gia Cầu thủ
14 TV Thụy Điển Gustaf Norlin
15 HV Đan Mạch Sebastian Hausner
16 Thụy Điển Linus Carlstrand
17 HV Thụy Điển Oscar Wendt (đội phó)
18 HV Thụy Điển Felix Eriksson
20 Nigeria Suleiman Abdullahi
21 TV Thụy Điển Adam Carlén
22 HV Croatia Filip Ambrož
24 TV Bờ Biển Ngà Abundance Salaou
27 HV Iraq Alai Ghasem
28 TV Thụy Điển Lucas Kåhed
30 TV Thụy Điển Anton Kurochkin

Cầu thủ trẻ từng thi đấu cho đội 1[sửa | sửa mã nguồn]

Tính đến 26 tháng 2 năm 2022[A]

Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA.

Số VT Quốc gia Cầu thủ
25 TM Thụy Điển Elis Bishesari

Cho mượn[sửa | sửa mã nguồn]

Tính đến 22 tháng 5 năm 2023

Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA.

Số VT Quốc gia Cầu thủ
4 HV Thụy Điển Carl Johansson (tại Randers FC đến ngày 30 tháng 6 năm 2023)
Số VT Quốc gia Cầu thủ
23 TV Iraq Amir Al-Ammari (tại Halmstads BK đến ngày 31 tháng 7 năm 2023)

Cầu thủ nổi tiếng[sửa | sửa mã nguồn]

Bertil Johansson là huyền thoại của IFK Göteborg từ năm 1954 tới 1968, ghi 290 bàn trong 464 trận.
Đội hình all-star được chọn bởi độc giả Göteborgs-Posten năm 2004.

Đội ngũ quản lý[sửa | sửa mã nguồn]

Thành viên tổ chức[sửa | sửa mã nguồn]

Tính đến ngày 5 tháng 9 năm 2020[35][36]
Name Role
Thụy Điển Mats Engström Chairman
Thụy Điển Peter Brandt Secretary
Thụy Điển Max Markusson Club director
Thụy Điển Pontus Farnerud Director of sports
Thụy Điển Jonas Olsson Director of youth academy
Thụy Điển Roger Gustafsson Youth academy training manager
Thụy Điển Olle Sultan Head scout
Thụy Điển Alf Westerberg Administrative manager

Đội ngũ kĩ thuật[sửa | sửa mã nguồn]

Tính đến ngày 11 tháng 9 năm 2020[34][37]
Name Role
Thụy Điển Roland Nilsson Head coach
Tây Ban Nha Ferran Sibila Assistant coach
Thụy Điển Stefan Remnér Goalkeeping coach
Thụy Điển Roland Kaldéus Fitness coach
Thụy Điển Kalle Olsson Strength and conditioning coach
Thụy Điển Calle Persson Physiotherapist
Thụy Điển Fredrik Larsson Physiotherapist
Thụy Điển Lina Dahlin Masseur
Thụy Điển Jon Karlsson Club doctor
Thụy Điển Rolf Gustavsson Equipment manager
Thụy Điển Johan Örtendahl Mental coach
Thụy Điển Linda Breding Match analyst
Iceland Hjálmar Jónsson U19 head coach
Thụy Điển Hannes Stiller U19 head coach
Thụy Điển Frankie Boakye U19 assistant coach

Danh sách huấn luyện viên[sửa | sửa mã nguồn]

The following 15 managers either have won at least one major honour with IFK Göteborg or have managed the team for 100 or more league matches. The managers are listed according to when they were first appointed manager for IFK Göteborg.

Sven-Göran Eriksson managed IFK Göteborg between 1979 and 1982.
Name IFK Göteborg career League matches Swedish Championship Svenska Cupen UEFA Cup
Thụy Điển Henning Svensson 1924–1929
1931–1932
1943
183
Thụy Điển Eric Hjelm 1930
1933–1938
137 1934–35
Thụy Điển Ernst Andersson 1941–1942 43 1941–42
Hungary József Nagy 1943–1948 110
Áo Walter Probst 1954–1958 99 1957–58
Thụy Điển Bertil Johansson 1967–1970 88 1969
Thụy Điển Sven-Göran Eriksson 1979–1982 87 1978–79
1981–82
1981–82
Thụy Điển Gunder Bengtsson 1982
1985–1987
79 1982
1987
1986–87
Thụy Điển Björn Westerberg 1983–1984 44 1983
1984
1982–83
Thụy Điển Roger Gustafsson 1990–1995
2002
165 1990
1991
1993
1994
1995
1991
Thụy Điển Mats Jingblad 1996–1998 60 1996
Thụy Điển Jonas Olsson
Thụy Điển Stefan Rehn
2007–2010 100 2007 2008
Thụy Điển Mikael Stahre 2012–2014 90 2012–13
Thụy Điển Jörgen Lennartsson 2015–2017 74 2014–15
Thụy Điển Poya Asbaghi 2018–2020 78 2019–20

Danh hiệu[sửa | sửa mã nguồn]

Domestic[sửa | sửa mã nguồn]

League[sửa | sửa mã nguồn]

Cups[sửa | sửa mã nguồn]

European[sửa | sửa mã nguồn]

Doubles, trebles and quadruples[sửa | sửa mã nguồn]

Doubles[sửa | sửa mã nguồn]

Trebles[sửa | sửa mã nguồn]

Quadruples[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Stadgar för IFK Göteborg Fotboll.
  2. ^ a b Nylin 2004, tr. 47.
  3. ^ Josephson & Jönsson 2004, tr. 9.
  4. ^ Josephson & Jönsson 2004, tr. 10.
  5. ^ Josephson & Jönsson 2004, tr. 11–13.
  6. ^ a b c Josephson & Jönsson 2004, tr. 13.
  7. ^ Josephson & Jönsson 2004, tr. 19.
  8. ^ Josephson & Jönsson 2004, tr. 20.
  9. ^ Josephson & Jönsson 2004, tr. 25.
  10. ^ Glanell và đồng nghiệp 2004, tr. 108.
  11. ^ Nylin 2004, tr. 48.
  12. ^ Persson và đồng nghiệp 1988, tr. 78.
  13. ^ Glanell và đồng nghiệp 2004, tr. 98–101.
  14. ^ a b c d Nylin 2004, tr. 49.
  15. ^ Josephson & Jönsson 2004, tr. 55.
  16. ^ “Högsta och lägsta publiksiffror i Allsvenskan” (PDF) (bằng tiếng Thụy Điển). Sveriges Fotbollshistoriker och Statistiker. 2004. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2007.
  17. ^ Josephson & Jönsson 2004, tr. 88.
  18. ^ a b Josephson & Jönsson 2004, tr. 99.
  19. ^ “Sven-Göran Eriksson”. The Football Association. 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2005. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2007.
  20. ^ “Bakgrundsfakta till Token från Torsby” (bằng tiếng Thụy Điển). Offside. 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2007.
  21. ^ Josephson & Jönsson 2004, tr. 109.
  22. ^ Josephson & Jönsson 2004, tr. 110–111.
  23. ^ Jönsson – 1978–1982.
  24. ^ Nylin 2004, tr. 50.
  25. ^ a b Cresswell, Peterjon (2003). “Magazine: Gothenburg”. UEFA. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2007.
  26. ^ Jönsson – 1983–1989.
  27. ^ Josephson & Jönsson 2004, tr. 321.
  28. ^ M.H. (1999). “Nittiotalet är över – men minnena består” (bằng tiếng Thụy Điển). Alltid Blåvitt. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2007.
  29. ^ Guslen, Bertil (ngày 31 tháng 12 năm 1994). “Blåvitt 1994 var mästarlaget som fick Europa att se rött”. Göteborgs-Posten.
  30. ^ a b c Jönsson – 1997–2003.
  31. ^ Josephson & Jönsson 2004, tr. 153.
  32. ^ Nylin 2004, tr. 10.
  33. ^ Nylin 2004, tr. 27.
  34. ^ a b IFK Göteborg – A-laget.
  35. ^ IFK Göteborg – Styrelse.
  36. ^ IFK Göteborg – Kontakt.
  37. ^ IFK Göteborg – Elit 1.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]


Lỗi chú thích: Đã tìm thấy thẻ <ref> với tên nhóm “upper-alpha”, nhưng không tìm thấy thẻ tương ứng <references group="upper-alpha"/> tương ứng, hoặc thẻ đóng </ref> bị thiếu