Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lý Nhân Tông”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 21: Dòng 21:


==Tiểu sử==
==Tiểu sử==
Lý Càn Đức là con trưởng của vua [[Lý Thánh Tông]] và [[Nguyên phi]] [[Ỷ Lan]]. Ông được lập làm [[thái tử]] khi còn nhỏ. Thánh Tông mất, Càn Đức mới 7 tuổi lên nối ngôi, tức là vua Lý Nhân Tông.
Lý Càn Đức là con trưởng của vua [[Lý Thánh Tông]] và '''phù Thánh Linh Nhân Hoàng Thái Hậu''' [[ Lan]]

Vua Nhân Tông còn nhỏ nhờ vào Thái phi [[Ỷ Lan]] làm nhiếp chính, lại thêm sự phò tá của Thái sư [[Lý Đạo Thành]] và Phụ quốc thái úy [[Lý Thường Kiệt]], những nhân vật lịch sử tên tuổi không chỉ của triều Lý mà cả trong [[lịch sử Việt Nam]], nên nước [[Đại Việt]] trở nên hùng mạnh.

Ông làm vua đến năm [[Đinh Mùi]] (1127) thì mất, trị vì được 56 năm, thọ 63 tuổi. Lý Nhân Tông là một trong các vua [[Vua Việt Nam#Thống kê|ở ngôi lâu nhất]] trong [[lịch sử Việt Nam]].


==Đối nội==
==Đối nội==

Phiên bản lúc 11:23, ngày 5 tháng 6 năm 2009

Lý Nhân Tông
Vua Đại Việt
Tại vị1072 - 1127
Tiền nhiệmLý Thánh Tông
Kế nhiệmLý Thần Tông
Thông tin chung
Sinh1066
Mất1127
An tángThiên Đức Lăng
Tên đầy đủ
Lý Càn Đức
Niên hiệu
Thái Ninh (1072 - 1076)
Anh Vũ Chiêu Thắng (1076 - 1084)
Quảng Hựu (1085 - 1092)
Hội Phong (1092 - 1100)
Long Phù (1101 - 1109)
Hội Tường Đại Khánh (1110 - 1119)
Thiên Phù Duệ Vũ (1120 - 1126)
Thiên Phù Khánh Thọ (1127 - 1127)
Thụy hiệu
Hiếu từ Thánh thần Văn vũ Hoàng đế
Miếu hiệu
Nhân Tông
Hoàng tộcNhà Lý
Thân phụLý Thánh Tông
Thân mẫuỶ Lan

Lý Nhân Tông (chữ Hán: 李仁宗; 10661127), là vị hoàng đế thứ tư của triều Lý. Tên thật của ông là Lý Càn Đức (李乾德). Trong thời gian trị vì, ông cùng với mẹ là nhiếp chính Ỷ Lan và thái úy Lý Thường Kiệt hai lần đánh bại quân Tống xâm lược.

Tiểu sử

Lý Càn Đức là con trưởng của vua Lý Thánh Tông và bà phù Thánh Linh Nhân Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan

Đối nội

Vua Nhân Tông cho đắp đê Cơ Xá, khởi đầu cho việc đắp đê ngăn ở Việt Nam, nhằm giữ cho kinh thành khỏi ngập lụt.

Năm Ất Mão (1075), vua mở khoa thi tam trường, còn gọi là Minh kinh bác học để chọn người có tài văn học vào làm quan. Khoa thi ấy là khoa thi đầu tiên ở Đại Việt và chọn 10 người, thủ khoaLê Văn Thịnh. Thịnh làm đến chức thái sư (tể tướng), tỏ rõ là người có tài năng xuất chúng. Về sau, vua nghi ngờ Lê Văn Thịnh làm phản, nên Thịnh bị đày lên Thao Giang (Tam Nông, Vĩnh Phú) và đã chết tại đó.

Năm Bính Thìn (1076), vua cho lập Quốc Tử Giám - trường đại học đầu tiên ở Đại Việt, chọn những nhà khoa bảng tài giỏi vào dạy. Đến năm Bính Dần (1086), mở khoa thi chọn người có tài văn học vào Hàn lâm viện. Khoa ấy có Mạc Hiển Tích đỗ đầu, được bổ nhiệm làm Hàn lâm học sĩ.

Năm Kỷ Tị (1086), vua Nhân Tông định quan chế, chia văn võ bá quan làm 9 phẩm. Quan đại thần có thái sư, thái phó, thái uýthiếu sư, thiếu uý. Ở dưới những bậc ấy, về văn ban có thượng thư, tả hữu tham tri, tả hữu gián nghị đại phu, trung thư thị lang, bộ thị lang. Về võ ban có đô thống, nguyên suý, tổng quản khu mật sứ, khu mật tả hữu sứ, kim ngô thượng tướng, đại tướng, đô tướng, chư vệ tướng quân, v.v...

Ở các châu quận, văn thì có tri phủ, tri châu; võ thì có chư lộ trấn, lộ quan.

Quân Tống xâm lược

Năm Bính Thìn (1076), nhà Tống cử Quách Quỳ, Triệu Tiết đem đại binh sang xâm lược Đại Việt. Quân đội nhà Lý dưới sự chỉ huy của Phụ quốc thái úy Lý Thường Kiệt đã đánh bại được đội quân nhà Tống tại trận tuyến trên sông Như Nguyệt.

Xem thêm

Liên kết ngoài