Thiện Đức nữ vương
Thiện Đức Nữ Vương 善德女王 | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Nữ vương Tân La | |||||||||||||
![]() Tượng của Thiện Đức Nữ Vương | |||||||||||||
Quốc vương thứ 27 của Tân La | |||||||||||||
Trị vì | 20 tháng 1 năm 632 – 17 tháng 2 năm 647 (15 năm, 28 ngày) | ||||||||||||
Tiền nhiệm | Chân Bình Vương | ||||||||||||
Kế nhiệm | Chân Đức nữ vương | ||||||||||||
Thông tin chung | |||||||||||||
Sinh | 595? | ||||||||||||
Mất | 17 tháng 2 năm 647 Tân La | (51–52 tuổi)||||||||||||
| |||||||||||||
Hoàng tộc | Vương tộc họ Kim | ||||||||||||
Thân phụ | Chân Bình Vương (真平王) | ||||||||||||
Thân mẫu | Vương hậu Ma Da | ||||||||||||
Tôn giáo | Phật giáo |
Thiện Đức Nữ vương (tiếng Hàn: 선덕여왕), tên thật là Kim Đức Mạn, là nữ vương của nước Tân La (một trong ba vương quốc thời kỳ Tam Quốc Triều Tiên gồm Cao Câu Ly, Bách Tế và Tân La) từ năm 632 đến năm 647.[1] Bà là vị vua thứ 27 của vương quốc Tân La, và là vị nữ vương đầu tiên trong lịch sử Triều Tiên.
Người thừa kế[sửa | sửa mã nguồn]
Trước khi trở thành nữ vương, Thiện Đức (선덕) được gọi là Công chúa Đức Mạn (tiếng Hàn:덕만, chữ Hán: 德曼, Đức Mạn công chúa). Cô là con gái thứ hai trong số ba người con gái của Chân Bình Vương. Chị gái cô, Thiên Minh công chúa (tiếng Hàn: 천명공주; Hán tự: 天明公主), sinh ra được một người con trai, là người sẽ trở thành Thái Tông Vũ Liệt Vương sau này. Trong khi một người chị em khác của cô – Thiện Hoa công chúa (善花公主, 선화공주), lại kết hôn với Vũ vương của nước Bách Tế, sau đó thì trở thành mẫu hậu của Nghĩa Từ Vương của Bách Tế, vị vua cuối cùng của Bách Tế, trước khi bị diệt bởi liên minh giữa Tân La và nhà Đường.
Sự tồn tại của công chúa Thiện Hoa hiện nay vẫn đang tranh cãi, vì có nhiều bằng chứng lịch sử cho rằng mẹ của Nghĩa Từ Vương là Vương hậu Sataek, và phủ nhận vai trò lịch sử của Thiện Hoa.
Chân Bình Vương không có con trai, vì thế người đã chọn Thiện Đức lên làm Thế nữ kế vị. Điều này không có gì khác thường ở Tân La, bởi vì phụ nữ trong thời đại này có vai trò tương đối cao với nhiều cố vấn, quý phu nhân và vương hậu nhiếp chính xuất hiện ở đất nước.
Khắp vương quốc, phụ nữ không phải là người có tiếng nói trong gia đình từ khi chế độ mẫu hệ suy yếu bên cạnh chế độ phụ hệ. Tư tưởng Nho giáo đã đặt người phụ nữ vào một vị trí thấp, không có tầm ảnh hưởng gì lớn trong xã hội Triều Tiên, cho tới tận giữa triều đại nhà Triều Tiên thế kỷ thứ XV.
Trong vương triều Tân La, vai trò của người phụ nữ tương đối cao, nhưng vẫn có sự hạn chế trong hành xử và lễ giáo của người phụ nữ. Phụ nữ thường bị hạn chế tham gia vào các hoạt động lớn vì xã hội cho rằng chúng không phù hợp với họ.
Trị vì[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 632, Thiện Đức trở thành người lãnh đạo của Tân La, và bà trị vì đến năm 647. Bà là người đầu tiên trong số 3 nữ vương của vương quốc (Hai người còn lại là Chân Đức nữ vương và Chân Thánh nữ vương). Bà cũng là nữ hoàng đầu tiên ở Đông Á. Sau khi bà mất, vào năm 654 Chân Đức Nữ Vương lại tiếp tục sự nghiệp của bà.
Suốt thời kỳ mà Thiện Đức Nữ Vương trị vì, chiến tranh, bạo lực và loạn lạc xảy ra liên miên giữa Tân La với nước láng giềng Bách Tế. Khi bà làm Nữ vương thì vua Đường Thái Tông nhà Đường từng gửi thư cho bà với thái độ cợt nhả rằng bà là phụ nữ không nên làm vua.
Trong mười bốn năm làm nữ vương, sự sáng suốt của bà đã đem lại nhiều lợi ích cho vương quốc. Dưới thời của bà, Tân La ngày càng nới lỏng sự phụ thuộc vào nước láng giềng Trung quốc, hiện lúc đó là nhà Đường, đồng thời bà còn gửi học giả sang Trung Quốc để học hỏi.
Bà là một người sùng đạo Phật và đã cho xây dựng nhiều ngôi chùa lớn. Sau này Nữ hoàng đế nhà Chu là Võ Tắc Thiên cai trị Trung Quốc từ năm 690 đến năm 705 cũng tôn sùng đạo Phật và xây dựng nhiều ngôi chùa lớn như tựa như bà.
Bà đã cho xây dựng Tháp Thiên văn, hay Cheomseongdae (Chiêm tinh đài), được xem như đài thiên văn đầu tiên ở Phương Đông. Ngôi tháp này vẫn còn tồn tại ở thủ đô vương quốc Tân La cũ, nay là tỉnh Gyeongju (Kinh Kỳ), Hàn Quốc.
Năm 642, nước Cao Câu Ly có loạn: một vị đại thần là Uyên Cái Tô Văn giết vua Cao Câu Ly Vinh Lưu vương rồi lập Cao Câu Ly Bảo Tạng vương lên ngôi, và đem quân đánh Tân La, khiến nữ hoàng Tân La là Thiện Đức phải cầu cứu nhà Đường (đời vua Đường Thái Tông).
Năm 645, vua Đường Thái Tông thân chinh đem 20 vạn quân từ Lạc Dương đi đánh Cao Câu Ly (đời vua Cao Câu Ly Bảo Tạng vương). Nữ hoàng Thiện Đức nữ vương của Tân La cũng cung ứng quân lương, vũ khí cho quân Đường xâm lược Cao Câu Ly. Vua Bách Tế Nghĩa Từ Vương của nước Bách Tế đã tấn công Tân La và chiếm được bảy thành. Tuy nhiên quân Đường bại trận ở thành An Thị của Cao Câu Ly, phải rút lui cùng năm.
Trong vương quốc Tân La dưới triều Thiện Đức, Bidam (chữ Hán:毗曇; Bì Đàm) là người đã lãnh đạo một cuộc nổi loạn chống lại bà, vì ông cho rằng "một nữ vương không thể điều hành một quốc gia" (Nguyên văn: 女主不能善理: Nữ vương bất năng thiện lý"[2]
Truyền thuyến nói rằng, trong cuộc binh biến này, có một ngôi sao đã rơi xuống, Bidam và tùy tùng cho rằng đó chính là dấu hiệu kết thúc giai đoạn trị vì của Thiện Đức Nữ Vương. Kim Yu Shin (chữ Hán:김庾信, Kim Dữu Tín) đã khuyên nữ vương thả lên trời một con diều lửa, đó cũng báo hiệu rằng ngôi sao nọ sẽ sớm trở về chỗ của nó.
Mười ngày sau cuộc nổi loạn, Bidam cùng 30 người tùy tùng đã bị hành quyết. Thiện Đức Nữ Vương từ trần vào ngày 8 tháng 1. Bidam bị xử tử ngày 17 tháng 1, sau khi Chân Đức Nữ Vương bước lên ngai vàng.
Truyền thuyết[sửa | sửa mã nguồn]
Thiện Đức được vua cha lựa chọn là người kế vị là do sự biểu hiện thông minh sâu sắc của nàng ngay từ khi nàng còn là một công chúa. Một câu chuyện được truyền tụng trong cả hai cuốn sách nổi tiếng: Samguk Sagi (Hán tự: 三國史記 –Tam Quốc sử ký) và Samguk Yusa (Hán tự: 三國遺事 - Tam Quốc dị sự [3]) như sau:
- Khi cha nàng nhận được một cái hộp hạt giống hoa mẫu đơn từ Hoàng đế Đường Thái Tông kèm theo một bức tranh vẽ đóa hoa mẫu đơn đã thành hình. Nhìn thấy bức tranh, cô công chúa Seondeok đã cho rằng, một bông hoa dù có đẹp đến mấy cũng thật tệ khi nó chẳng có mùi hương. "Nếu là con vẽ, sẽ có thêm vô số ong bướm lượn quanh bông hoa này!". Tầm nhìn của cô công chúa về sự thiếu hụt mùi hương của bông hoa mẫu đơn đã tỏ ra chính xác, một bằng chứng trong vô số bằng chứng về sự thông minh, thậm chí là khả năng lãnh đạo của nàng.
Có hai sự kiện khác nhau của Thiện Đức thể hiện khả năng tiên đoán sự việc, một khả năng lạ lùng của bà:
- Một là, bà nghe được tiếng kêu của một bầy ếch trắng gần hồ Ngọc Môn vào mùa đông. Bà nghĩ rằng điều này báo trước một cuộc tấn công của vương quốc láng giềng Bách Tế (ếch kêu được xem như tiếng của những người lính sợ hãi) từ phía Tây Bắc (màu trắng tượng trưng cho phía Tây trong thiên văn học lúc đó) tại Nữ Căn Cốc (女根谷) (tiếng ếch kêu từ hồ Ngọc Môn, được ví như người phụ nữ). Khi cô gửi các tướng lĩnh tới Nữ Căn Cốc, thực sự họ đã bắt được hai ngàn quânBách Tế.
- Hai là, tiên đoán về cái chết của chính mình. Vài ngày trước khi qua đời, cô tập họp mọi người và nói "Khi ta chết, hãy chôn ta ở gần Dori-cheon (Hán tự: 忉利天, Đao Lợi Thiên), trên núi Lang Sơn (狼山) ở phía Nam. Một thập kỷ sau cái chết của bà, Văn Vũ Vương (Hán tự 文武王), vị vua thứ 30 của Tân La đã cho xây dựng Tứ thiên vương tự (四天王寺, Sacheonwang-sa ý nói ngôi chùa của vị vua bốn phương) ngay tại mộ của bà.
Gia đình[sửa | sửa mã nguồn]
Phụ vương và mẫu hậu[sửa | sửa mã nguồn]
- Phụ vương: Chân Bình Vương (眞平王; 진평왕)
- Mẫu hậu: Vương hậu Maya, họ Kim (摩耶夫人金氏, 마야부인김씨; Ma Da phu nhân Kim thị)
Chị em[sửa | sửa mã nguồn]
- Thiên Minh công chúa (chữ Hán:天明公主, tiếng Hàn:천명공주,Cheonmyeong) [4]
- Thiện Hoa công chúa (chữ Hán:善花公主, tiếng Hàn:선화공주, Seonhwa)
Anh-em rể[sửa | sửa mã nguồn]
- Kim Yong-chun (金龍春; 김용춘, Kim Long Xuân), chồng của công chúa Thiên Minh, Pungwolju thứ 13 (hay còn gọi là Gukseon (國仙), Quốc tiên).
- Jang Seo-dong (璋暑童; 장서동; Chương Thử Đồng), chồng của công chúa Thiện Hoa (chưa xác thực), sau này là Vũ Vương (武王/ 무왕) của nước Bách Tế.
Cháu trai và cháu gái[sửa | sửa mã nguồn]
- Kim Chun-chu (金春秋; 김춘추, Kim Xuân Thu), con trai trưởng của công chúa Thiên Minh và Kim Yong-chun. Sau này là Pungwolju thứ 18, và sau nữa trở thành Thái Tông Vũ Liệt Vương (太宗武烈王, 태종무열왕; Thái Tông Vũ Liệt Vương).
- Kim Yeon-chung (金蓮忠, 김연충; Kim Liên Chung), con trai thứ của công chúa Thiên Minh và Kim Yong-chun.
- Nghĩa Từ Vương của Bách Tế (義慈王, 의자왕), con trai duy nhất của công chúa Thiện Hoa (đang tranh cãi).
Anh chị em họ[sửa | sửa mã nguồn]
- Kim Seung-man (金勝曼, 김승만, Kim Thắng Mạn), con gái duy nhất của Cát văn vương Gukban(國飯葛文王, 국반갈문왕, Quốc Phạn Cát văn vương), anh em trai của Chân Bình Vương, và phu nhân Wolmyeong (月明夫人, 월명부인; Nguyệt Minh phu nhân). Kim Thắng Mạn sau này trở thành Chân Đức nữ vương.
Chồng[sửa | sửa mã nguồn]
Không có thông tin chính thức về chồng của Thiện Đức Nữ Vương, tuy nhiên có nhiều dị bản như sau o Theo Tam Quốc dị sự, chồng của Thiện Đức là Cát văn vương Eum (飮葛文王, 음갈문왕, Ẩm Cát văn vương) – có thể đã kết hôn với Thiện Đức Nữ Vương một năm sau khi cô bước lên ngai vàng. o Theo Biên niên sử Hoa Lang (Hwarang segi, Hoa Lang thể ký), chồng của Seondeok có thể là những người sau:
- Kim Yong-chun, chồng của công chúa Chunmyeong, Quốc tiên thứ 13.
- Heumban (欽飯, 흠반; Khâm Phạn) –một người họ hàng của Thiện Đức.
- Eulje (乙祭, 을제; Ất Tế).
Phim ảnh[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 2009 đài MBC của Hàn Quốc đã thực hiện bộ phim truyền hình 62 tập "Nữ vương Seon Deok" với Thiện Đức Nữ Vương là nhân vật chính. Trong bộ phim, Deok Man được biết đến như đứa trẻ không may mắn phải trốn chạy khỏi bàn tay của người phụ nữ độc ác Mi Shil. Cô phải trốn chạy ngay từ khi mới lọt lòng, sau khi lớn lên, cô quyết định quay trở lại hoàng cung để trả thù người phụ nữ độc ác đã thao túng cả ba đời vua Tân La. Nhưng để cô có thể trở lại hoàng cung, chị gái của cô – công chúa Cheonmyoeng đã mất mạng dưới tay Mishil, và cô cũng phải hy sinh mối tình với chàng Hoa Lang Kim Yu-shin vì nghiệp lớn.Sau này, với sự phò tá trung thành và tài năng của Kim Yu-shin cùng các tướng lãnh, Deok Man đánh bại Mishil, lên ngôi và trở thành vua thứ 27 của Tân La. Trong phim cũng cho rằng, lý do Bidam làm phản là do không tin tưởng ở tình yêu của Seon Deok dành cho mình.
Chú dẫn[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Tam Quốc Dị Sự, Bản tiếng Anh: Samguk Yusa - Legends and History of the Three Kingdoms of Ancient Korea, dịch bởi Tae-Hung Ha và Grafton K. Mintz. Quyển số 1, trang 57. Nhà xuất bản Silk Pagoda (2006).
- ^ “(7. Silla and Wa) - Bidam”. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2010.
- ^ Samguk Yusa: Tam Quốc Dị sự, bản tiếng Anh của Tae-Hung Ha và Grafton K. Mintz. Nhà xuất bản Silk Pagoda (2006).
- ^ Sau khi lên ngôi, Vũ Liệt Vương truy tôn mẹ mình là Văn Trinh Thái hậu (文貞太后/ 문정태후)