Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Pháo phòng không tự động 37 mm M1939 (61-K)”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
DannyS712 (thảo luận | đóng góp)
n (GR) File:61-K.jpgFile:61-K anti-aircraft gun, 2007.jpg Criterion 2 (meaningless or ambiguous name)
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 10: Dòng 10:
<!-- Service history -->
<!-- Service history -->
|service=1939 – Nay
|service=1939 – Nay
|used_by={{flag|Liên Xô}}<br>{{flag|Việt Nam}}<br>{{flag|Trung Quốc}}<br>{{flag|Lào}}<br>{{flag|Campuchia}}<br>{{flag|Cuba}}<br>
|used_by={{flag|Liên Xô}}<br>{{flag|Việt Nam}}<br>{{flag|Trung Quốc}}<br>{{flag|Lào}}<br>{{flag|Campuchia}}<br>{{flag|Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên|Bắc Triều Tiên}}<br />{{flag|Cuba}}<br>
|wars=
|wars=
<!-- Production history -->
<!-- Production history -->

Phiên bản lúc 13:06, ngày 30 tháng 8 năm 2019

Pháo tự động phòng không 61K-37 mm
Pháo phòng không 61-K được trưng bày tại Bảo tàng Pháo binh Saint Petersburg
LoạiPháo tự động phòng không
Nơi chế tạo Liên Xô
Lược sử hoạt động
Phục vụ1939 – Nay
Sử dụng bởi Liên Xô
 Việt Nam
 Trung Quốc
 Lào
 Campuchia
 Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên
 Cuba
Lược sử chế tạo
Người thiết kếMikhail N Loginov
Năm thiết kế1938
Nhà sản xuấtNhà máy Pháo binh số 8(Liên Xô)
Giai đoạn sản xuất1939–1951(Liên Xô)
Số lượng chế tạo20000 khẩu do Liên Xô sản xuất trong thời kì Chiến tranh Vệ Quốc(1941-1945)
Các biến thể1 nòng,2 nòng(phiên bản phòng không bộ binh),V-11 2 nòng(Hải quân)
Thông số
Khối lượng2.100 kg
Kíp chiến đấuKhoảng 4-8 người

Đạn pháo37×250 mm. R
Cỡ đạn37 mm
Cơ cấu hoạt độngNạp đạn nhờ lực giật
Góc nâng-5° đến 85°
Xoay ngangXoay 360°
Tốc độ bắnLý thuyết: 160-170 viên/phút
Thực tế: 80-100 viên/phút
Sơ tốc đầu nòng880 m/s
Tầm bắn hiệu quả4 km (trên mặt đất), 3 km (trên không)
Tầm bắn xa nhất9,5 km (trên mặt đất), 6,7 km (trên không)
Chế độ nạpKẹp đạn 5 viên hoặc hộp đạn 10 viên (với phiên bản V-11 của hải quân)

61-K (tiếng Nga: 37-мм автоматическая зенитная пушка образца 1939 года (61-К)) là một loại pháo phòng không có cỡ nòng 37 mm do Liên Xô sản xuất từ năm 1939, được dùng chủ yếu để phòng không mặc dù chúng có thể được dùng như một pháo bộ binh bắn thẳng. Tham chiến lần đầu tiên trong Thế chiến thứ hai, nó phục vụ chủ yếu ở mặt trận Xô-Đức và đã bắn hạ 14.657 máy bay của phe Phát xít [1]. 61-K được cho là ngang hàng với khẩu Bofors 40 mm của Thụy Điển - thường được Anh - Mỹ sử dụng. Sau này nó được dùng làm mẫu súng phát triển thành phiên bản súng phòng không S-60 AZP 57 mm. Ký hiệu của Phương Tây và sau này là của NATO đối với 61-K là M1939.

Phát triển

61-K 37 mm được trưng bày tại Sevastopol

Vào năm 1935, Hải quân Liên Xô nhận được một số khẩu Bofors 25 mm model 1933 vào năm 1935. Trên cơ sở cấu tạo của súng này, họ bắt đầu thiết kế phiên bản 45 mm mang tên 49-K với tổ thiết kế gồm M.N. Loginov, I.A. LyaminL.V. Lyuliev. Tuy việc thiết kế thành công nhưng quân đội lại không muốn sử dụng loại súng này vì tầm hoạt động của khẩu pháo tự động 45 mm quá nhỏ còn phạm vi chiến trường lại quá rộng.

Vào tháng 1 năm 1938, Nhà máy Pháo binh số 8 tại Kaliningrad bắt đầu thiết kế một khẩu pháo phòng không tương tự 49-K nhưng dùng cỡ đạn 37 mm nhằm gia tăng tầm hoạt động. Chỉ 9 tháng sau, tháng 10 năm 1938, 61-K bắn thử lần đầu. Toàn bộ thời gian thiết kế và đưa vào sản xuất chỉ mất có hơn 1 năm vì khẩu 49-K đã hoàn toàn hoàn thiện, chỉ cần thay cỡ đạn 45 mm thành 37 mm để nó trở thành 61-K.

Năm 1939, các mẫu 61-K đầu tiên được sản xuất trên quy mô nhỏ rồi sau đó đến năm 1940 thì việc sản xuất được mở rộng ra trên quy mô lớn. Nhiều phiên bản 61-K được sản xuất như phiên bản pháo 1 nòng, pháo 1 nòng có tấm chắn đạn, pháo 2 nòng, phiên bản 70-K của Hải quân... Chúng cũng được xuất khẩu đến nhiều nước trên thế giới cùng một số biến thể khác nhau.

Phiên bản mặt đất

61-K trong Thế chiến Thứ hai

Sau khi nghiên cứu và bắt đầu đưa vào sản xuất thì ngay lập tức 61-K bắt đầu được biên chế. Một tổ súng phòng không thường có tám người (có thể giảm tùy theo tình hình chiến sự hoặc thiếu người), có thể mang theo 200 viên đạn mỗi súng. Đạn được đóng thành 5 viên 1 băng. 61-K có thể quay 360° và có thể hạ thấp nòng xuống -5°, cao nhất là 85°, tầm bắn trung bình là 8,5 km. Tính đến năm 1945, đã có gần 20.000 khẩu 61-K được chế tạo tại Liên Xô. Sau này chúng còn được sản xuất tại Ba Lan, Trung QuốcBắc Triều Tiên.

Phiên bản Hải quân

Phiên bản Hải quân của 61-K là súng phòng không 70-K 37 mm, sau khi sản xuất, chúng bắt đầu thay thế các khẩu 21-K 45 mm trên các tàu chiến của Liên Xô, nhưng việc thay thế chưa hoàn thành thì Quân đội Phát xít Đức bắt đầu tấn công Liên Xô. Chỉ có loại tàu trục lôi hạm T-301 là được trang bị 70-K đầy đủ. Phiên bản V70-K còn được sản xuất đến năm 1955 thì ngừng lại. Tổng cộng có 3.113 khẩu được sản xuất. Sau này, Liên Xô tiếp tục sản xuất phiên bản hiện đại hóa của nó là V-11M.

ZSU-37

ZSU-37 là phiên bản pháo phòng không tự hành của 61-K, được phát triển sau Thế thứ hai. Hệ thống bao gồm tháp pháo là khẩu pháo phòng không 61-K được đặt trên thân xe pháo tự hành chống tăng SU-76.

Lịch sử hoạt động

61-K từng được sử dụng trong Thế chiến thứ hai, Chiến tranh Triều Tiên, Chiến tranh Việt Nam, Nội chiến Lào, Nội chiến Campuchia và nó đã rất hiệu quả trong việc tạo hỏa lực phòng không tầm thấp đến tầm trung, kể cả việc hỗ trợ hỏa lực mặt đất.

Thế chiến thứ hai

61-K chính thức được sử dụng tại Mặt trận Xô-Đức năm 1941. Ở trạng thái chiến đấu, nó tạo một màn hỏa lực dày đặc từ 0m đến độ cao 6.000 mét. Bấy giờ, gần như tất cả máy bay của phát xít Đức đều nằm trong tầm bắn của 61-K. Nó phối hợp cùng các loại pháo 40 mm, 45 mm, súng máy DShK 12,7 mm lập bức tường phòng không đa tầm hiệu quả. Tổng cộng đã có 14.657 máy bay các loại của Đức Quốc xã bị bắn hạ bởi pháo 37 mm.

Chiến tranh Triều Tiên

Trong Chiến tranh Triều Tiên, 61-K 37 mm được sử dụng nhằm bảo vệ các khu vực chỉ huy, căn cứ, kho tàng vật chất của quân Trung Quốc, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều TiênLiên Xô. Nó phối hợp cùng các máy bay tiêm kích MiG-15 của không quân đã bẻ gãy nhiều cuộc tấn công của máy bay Hoa Kỳ như F-86 Sabre, F9F Panther, F4U Corsair và máy bay ném bom tầm trung như B-25.

Chiến tranh Đông Dương

Những khẩu súng phòng không 61-K ở phía sau cùng những khẩu DShK ở phía trước của Việt Minh sử dụng tại Điện Biên

Sau Chiến dịch Biên giới thu đông 1950, Quân đội Nhân dân Việt Nam bắt đầu có được những viện trợ quý giá từ chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, trong đó có những khẩu đội súng phòng không 12,7mm. Không lâu sau, tháng 5 năm 1951, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã thành lập Đại đội 612, đơn vị phòng không đầu tiên sử dụng 4 khẩu 61-K 37mm loại 1 nòng có tấm chắn. Ngày 1 tháng 4 năm 1953, Trung đoàn Pháo cao xạ 367 được thành lập có khí tài là những khẩu pháo cao xạ 61-K 37 mm viện trợ từ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được biên chế thành 6 tiểu đoàn. Đến đầu năm 1953, phía Việt Minh đã có 8 tiểu đoàn phòng không, với 500 súng máy phòng không 12,7mm và 6 tiểu đoàn pháo cao xạ 61-K 37mm. Đến Chiến dịch Điện Biên Phủ, lực lượng phòng không của Việt Minh đã kết hợp hỏa lực của súng phòng không 61-K cùng súng máy DShK 12,7 mm đã bắn rơi 50 máy bay, 2 trực thăng, gây hư hại cho gần 100 chiếc khác, góp phần giảm ưu thế tác chiến từ trên không của quân Pháp, đóng cửa khả năng tiếp viện cho quân Liên hiệp Pháp đồn trú tại Điện Biên Phủ.

Chiến tranh Việt Nam

Vào thời kỳ những năm 1956-1960, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt đầu nhận được nhiều súng phòng không 61-K với nhiều phiên bản khác nhau từ Liên Xô. Hàng chục đơn vị pháo phòng không kết hợp súng 12,7 mm, 14,5 mm, 57 mm cùng 37 mm, 20 mm đã được thành lập, được bố trí khắp miền bắc và dọc theo tuyến đường Trường Sơn. Các đơn vị này đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc bảo vệ các cơ quan, căn cứ quân sự và các khu công nghiệp ở miền bắc cùng những binh trạm ở Trường Sơn, ví dụ như trung đoàn pháo phòng không 218. Từ khi thành lập (21 tháng 3 năm 1958) đến khi kết thúc chiến tranh, đơn vị không chỉ tham gia phòng không mà còn hỗ trợ hỏa lực mặt đất. Trung đoàn tham gia đánh 1.977 trận bắn rơi 320 máy bay Mỹ, bắn chìm một tàu biệt kích, phá hủy một giàn radar, một kho xăng, phối hợp cùng bộ binh tiêu diệt 2.000 quân đối phương. Ngoài ra, 61-K cũng cực kỳ hữu ích khi dùng để chống bộ binh, ví dụ điển hình là vào cuối năm 1972, tiểu đội bảo vệ trận địa 4 khẩu pháo 61-K của Đoàn 559, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã sử dụng pháo 37 mm tấn công bộ binh của địch trong chiến dịch Không Sê Đôn tại Lào.[2]

Hiện nay

Pháo 61-K 37 mm vẫn còn được sử dụng trong lực lượng phòng không của nhiều quốc gia trên thế giới. Chúng vẫn còn hữu ích trong việc tiêu diệt các mục tiêu bay tầm thấp, tầm trung và đánh chặn tên lửa đạn đạo tầm thấp. Hiện nay, 61-K đang được nhiều quân đội trên thế giới hiện đại hóa để có thể đáp ứng được với chiến tranh hiện đại.[3]

Đặc tính kỹ thuật

Thiết kế M1939 70K
(Phiên bản Hải quân)
V-11-M
(Phiên bản Hải quân)
45 mm
(Phiên bản Hải quân)
Số lượng hộp đạn đưa vào súng 1 1 2 4 hoặc 2
Cỡ nòng 37 mm
(1.45 in)
45 mm
(1.77 in)
Sơ tốc 880 m/s
(2,887 ft/s)
900 m/s
(2,953 ft/s)
Khối lượng 2,100 kg
(4,630 lbs)
1,750 kg
(3,858 lbs)
3,450 kg
(7,606 lbs)
không rõ
Chiều dài 5.5 m
(18 ft)
3.8 m
(12.46 ft)
3.8 m
(12.46 ft)
6 m
(19.68 ft)
Chiều rộng 1.79 m
(5.87 ft)
2.2 m
(7.21 ft)
2.75 m
(9 ft)
Cao 2.11 m
(7 ft)
2.2 m
(7.21 ft)
1.8 m
(6 ft)
Góc ngẩng +85 đến
-5 độ
+85 đến
-10 độ
+85 đến
-10 độ
+90 đến
0 độ
Tốc độ xoay ? 20 độ / giây 17 độ / giây không rõ
Tốc độ bắn mỗi hộp đạn

(theo lý thuyết)
160 đến 170 viên/phút 160 đến 170 viên/phút 160 đến 170 viên/phút 160 đến 170 viên/phút

(thực tế)
80 viên/phút 100 viên/phút
Tầm bắn xa nhất
(Trên mặt đất)
9,500 m
(5.90 mi)
?
Tầm bắn hiệu quả
(Trên mặt đất)
4,000 m
(2.48 mi)
9,000 m
Tầm bắn lớn nhất
(Trên không)
6,700 m
(21,981 ft)
?
Tầm bắn hiệu quả
(Trên không)
3,000 m
(9,842 ft)
6,000 m
Kíp chiến đấu 8 6 3 4

Các quốc gia sử dụng

61-K được trưng bày tại Warszawa, Ba Lan
Pháo 61-K phiên bản K-65 2 nòng của Trung Quốc

 Afghanistan
 Albania
 Algérie
 Angola
 Bangladesh
 Bulgaria[4]
 Campuchia
 Cameroon
 Cuba
 Ai Cập
 Ethiopia
Cộng hòa Dân chủ Đức Đông Đức
 Phần Lan
 Gabon
 Guinée
 Guinea-Bissau
 Indonesia
 Iraq
 Israel
 Lào
 Mali
 Mauritanie
 Mông Cổ
 Maroc
 Mozambique
 Nicaragua
 Bắc Triều Tiên
 Pakistan
 Trung Quốc
 Ba Lan
 Cộng hoà Congo
 România
 Somalia
 Liên Xô
 Sudan
 Syria
 Tanzania
 Thái Lan
 Togo
 Tunisia
 Uganda
Việt Nam
 Yemen
Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư Nam Tư
 Zaire
 Zambia
 Zimbabwe

Thông số loại đạn mà 61-K sử dụng

Vị trí nạp đạn

FRAG-T loại 1

  • Đường kính: 37 mm
  • Nước sản xuất: Liên Xô
  • Tên: OR-167
  • Kíp nổ: MG-8 hoặc MG-37 PD
  • Khối lượng: 1,43 kg
  • Lượng thuốc nổ: 35 g
  • Sơ tốc: 880 m/s
  • Độ xuyên giáp: Không rõ[5]

FRAG-T loại 2

  • Đường kính: 37 mm
  • Nước sản xuất: Liên Xô
  • Tên: OR-167N
  • Kíp nổ: B-37 PD hoặc MG-37 PD
  • Khối lượng: 1,43 kg
  • Lượng thuốc nổ: 40 g
  • Sơ tốc: 880 m/s
  • Độ xuyên giáp: Không rõ

AP-T

  • Đường kính: 37 mm
  • Nước sản xuất: Liên Xô
  • Tên: BR-167
  • Kíp nổ: Không rõ
  • Khối lượng: 1,47 kg
  • Lượng thuốc nổ: Không rõ
  • Sơ tốc: 880 m/s
  • Độ xuyên giáp: 37–47 mm, 50–100 cm
Vị trí tác chiến

HVAP

  • Đường kính: 37 mm
  • Nước sản xuất: Liên Xô
  • Tên: BR-167P
  • Kíp nổ: Không rõ
  • Khối lượng: Không rõ
  • Lượng thuốc nổ: Không rõ
  • Sơ tốc: 960 m/s
  • Độ xuyên giáp: 57 mm, 100 cm

HE

  • Đường kính: 45 mm (dùng cho các phiên bản pháo 45 mm nâng cấp từ 61-K hoặc không)
  • Nước sản xuất: Liên Xô
  • Tên: Không rõ
  • Kíp nổ: Không rõ
  • Khối lượng: 1,5 kg
  • Lượng thuốc nổ: Không rõ
  • Sơ tốc: 900 m/s
  • Độ xuyên giáp: Không rõ

[6] [7]

Biến thể

Do Norinco Trung Quốc sản xuất:

  • Type 55 (K-55): Sao chép y nguyên phiên bản 61-K 1939
  • Type 63 (K-63): Phiên bản 61-K 2 nòng đặt trên khung gầm Xe tăng T-34
  • Type 65 (K-65): Phiên bản 61-K 2 nòng
  • Type 74 (K-74): Phiên bản hiện đại hóa với tốc độ bắn lớn hơn
  • Type 74SD (K-74SD): Phiên bản hiện đại hóa có hệ thống điện tử
  • Type 79-III (K-79-III): Phiên bản hiện đại hóa với sơ tốc và góc ngẩng tốt hơn
  • Type 76 (K-76): Phiên bản hải quân 2 nòng
  • 793: Phiên bản hiện đại hóa 2 nòng với sơ tốc lớn hơn và giảm số người trong 1 kíp chiến đấu còn 5-6 người

Do Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên sản xuất: Tự sản xuất với giấy phép của Liên Xô

Hình ảnh

Chú thích

  1. ^ "ReferenceA" Shunkov V. N. - The Weapons of the Red Army (Vũ khí của Hồng quân Liên Xô)
  2. ^ Hạ nòng pháo 37mm, diệt bộ binh địch
  3. ^ Thiết bị kiểm tra huấn luyện xạ kích pháo phòng không 37mm
  4. ^ 257 khẩu 61-K đã được đưa tới Bungaria vào năm 1945-1948 - История на Зенитната артилерия и Зенитно-ракетните войски в Българската армия, София 1995, с. 102-103. (Lịch sử lực lượng pháo và tên lửa phòng không Quân đội Bulgarian, Sofia 1995, trang 102-103.)
  5. ^ Độ xuyên giáp chỉ xác định khi tiêu diệt mục tiêu bọc thép trên không như máy bay, trực thăng hoặc mặt đất như ô tô, các loại xe tăng có ERA hoặc giáp có thành phần đặc biệt như Uranium nghèo sẽ có độ xuyên của đạn 37 mm không giống với những thông tin ở trên.
  6. ^ Thông tin về các loại đạn của Nga
  7. ^ “The Russian Ammunition Page”.
  8. ^ Khẩu pháo 61-K mang tên chiến sĩ Việt Minh Tô Vĩnh Diện là do vào tháng 3 năm 1954, khi khẩu pháo đang được kéo vào trận địa nhằm tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ thì bị lăn xuống dốc, chính anh Tô Vĩnh Diện là người đã lấy thân mình chặn khẩu pháo và đã hy sinh ngay lúc đó, từ đó nó có tên là Tô Vĩnh Diện nhằm tưởng nhớ người anh hùng này. Khẩu pháo này đã được lực lượng phòng không của Quân đội Nhân dân Việt Nam sử dụng để bắn hạ 3 máy bay của quân Pháp. Hiện nó đang được trưng bày tại Bảo tàng Phòng không Không quân (Hà Nội).

Liên kết ngoài