Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hoàng Cầm (tướng)”
n →top: clean up, General fixes, replaced: , → , |
Không có tóm lược sửa đổi Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động |
||
Dòng 46: | Dòng 46: | ||
| kế nhiệm 6 = [[Nguyễn Minh Châu (thượng tướng)|Nguyễn Minh Châu]] |
| kế nhiệm 6 = [[Nguyễn Minh Châu (thượng tướng)|Nguyễn Minh Châu]] |
||
| chức vụ 7 = Sư đoàn trưởng [[Sư đoàn 9, Quân đội nhân dân Việt Nam|Sư đoàn |
| chức vụ 7 = Sư đoàn trưởng [[Sư đoàn 9, Quân đội nhân dân Việt Nam|Sư đoàn 312]] |
||
| bắt đầu 7 = [[1964]] |
| bắt đầu 7 = [[1964]] |
||
| kết thúc 7 = [[1970]] |
| kết thúc 7 = [[1970]] |
Phiên bản lúc 16:26, ngày 13 tháng 12 năm 2020
Hoàng Cầm (1920-2013) là một tướng lĩnh quân sự cao cấp, quân hàm thượng tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Nguyên Tổng Thanh tra Quân đội, Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, Phó Chủ tịch Ủy ban Quân quản Sài Gòn - Gia Định, Tư lệnh Quân khu 4. Huân chương Hồ Chí Minh.
Thuở thiếu thời cho đến Cách mạng Tháng Tám
Ông tên thật là Đỗ Văn Cầm, sinh ngày 30 tháng 4 năm 1920 trong một gia đình nông dân nghèo, quê Cao Sơn, Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Cha ông là cụ Đỗ Văn Trang (1879-1932) và mẹ ông là cụ bà Vũ Thị Tởn (1878-1923). Ông sớm mồ côi cả cha lẫn mẹ từ năm 12 tuổi, sau đó phải lưu lạc để kiếm sống từ quê nhà lên Hà Nội. Năm 21 tuổi, ông đi lính khố xanh cho chính quyền thuộc địa Pháp để kiếm sống và tham gia quân đồn trú ở Lai Châu. Sau 2 năm thì được chuyển về Hà Nội và ông đào ngũ, nhờ đó thoát nạn trong vụ đảo chính của Nhật vào ngày 9 tháng 3 năm 1945.
Chiến tranh chống thực dân Pháp (1945-1954)
Được sự vận động của cán bộ Việt Minh, tháng 7 năm 1945 ông tham gia Đoàn Thanh niên Cứu quốc Hà Nội. Khi Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông tham gia Cứu quốc quân Hà Nội và lấy tên mới là Hoàng Cầm theo phong trào đổi tên mới để bước vào cuộc đời mới bấy giờ. Theo bài trả lời phỏng vấn của nhà báo Phan Hoàng (tạp chí Kiến thức ngày nay) thì do không đi học và mù chữ, ông chỉ dự định "tham gia quân đội một thời gian rồi quay về quê kiếm vốn buôn bán làm ăn".
Từ năm 1946 đến năm 1949, ông làm cán bộ chỉ huy từ cấp tiểu đội đến đại đội ở Trung đoàn 148, tham gia mặt trận Sơn La. Theo phong trào xóa mù chữ và yêu cầu bắt buộc đối với cấp chỉ huy, ông bắt đầu tham gia lớp học bình dân học vụ. Năm 1947, ông bị thương trong một trận đánh ở Đà Bắc và kể từ đó ông viết bằng tay trái.
Năm 1949, ông được điều về Trung đoàn 209 (còn có tên Trung đoàn Sông Lô, một trong những trung đoàn Chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam), làm tiểu đoàn phó, rồi tiểu đoàn trưởng, tham gia trận đánh Đông Khê trong Chiến dịch Biên giới 1950. Trong trận Điện Biên Phủ, ông là trung đoàn trưởng Trung đoàn 209, chỉ huy đánh chiếm sở chỉ huy cứ điểm Điện Biên Phủ.
Chiến tranh chống Mỹ (1954-1975)
• Sau trận Điện Biên Phủ, ông được đề bạt giữ chức Đại đoàn phó kiêm tham mưu trưởng Đại đoàn 312. Cuối năm 1954, ông được cử giữ chức Đại đoàn trưởng kiêm Chính ủy thay cho ông Lê Trọng Tấn và Trần Độ.
• Sau 1954, Đại đoàn được cải tổ phiên chế thành Sư đoàn 312 và ông trở thành Sư đoàn trưởng. Năm 1960, ông được phong hàm Đại tá.
• Năm 1964, ông được cử vào Nam, nhận chức vụ Sư đoàn trưởng Sư đoàn 9, sư đoàn chủ lực của Quân Giải phóng. Sau đó, ông được cử giữ chức Phó tư lệnh kiêm tham mưu trưởng Quân Giải phóng, dưới quyền Trung tướng Tư lệnh Trần Văn Trà. Ông làm chỉ huy ở bộ tư lệnh Miền suốt thời gian lực lượng bộ đội chủ lực Miền đóng ở Nam bộ, rồi Campuchia, tham gia chiến dịch Nguyễn Huệ năm 1972.
• Ngày 20 tháng 7 năm 1974, Quân đoàn 4 (còn gọi là Binh đoàn Cửu Long) được thành lập trên cơ sở của Đoàn 301, ông được cử làm tư lệnh. Ông là người chỉ huy quân đoàn này đánh vào Xuân Lộc, khai thông con đường phía đông cho quân đoàn 2 tiến vào.
Chiến tranh biên giới Tây Nam
Sau khi Ủy ban quân quản Sài Gòn được thành lập, ông được cử làm Phó chủ tịch ủy ban quân quản. Năm 1978, xung đột biên giới Tây Nam Việt Nam nổ ra, ông được cử làm chỉ huy lực lượng quân đoàn 4 tấn công vào hoàng cung Campuchia.
Đời tư
- Ông lập gia đình với bà Thành Kiều Vượng năm 1955 và có với nhau 5 người con.
- Ông đã từ trần hồi 14 giờ 30 phút ngày 19/8/2013, tại Bệnh viện quân y 175, thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 93 tuổi.
Lịch sử thụ phong quân hàm
- Thiếu tướng năm 1974
- Trung tướng năm 1982
- Thượng tướng năm 1984
- (1982-1986): Trung tướng, Tư lệnh Quân khu 4.
- (1987-1992): Thượng tướng, Tổng thanh tra quân đội.
Khen thưởng
Ông được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng nhiều huân chương cao quý:
- Huân chương Hồ Chí Minh,
- 4 Huân chương Quân công
- và nhiều huân, huy chương cao quý khác.