Lê Trọng Tấn
Lê Trọng Tấn Ba Long | |
---|---|
![]() | |
Chức vụ | |
Nhiệm kỳ | 1980 – 5 tháng 12 năm 1986 |
Tiền nhiệm | Văn Tiến Dũng |
Kế nhiệm | Lê Đức Anh |
Nhiệm kỳ | tháng 3 năm 1961 – 1980 |
Tổng Tham mưu trưởng | Văn Tiến Dũng |
Viện trưởng Học viện Quân sự Cao cấp | |
Nhiệm kỳ | 1976 – tháng 2 năm 1977 |
Khu trưởng Khu 13 | |
Nhiệm kỳ | 23 tháng 8 năm 1947 – |
Trung đoàn trưởng Trung đoàn 39 | |
Nhiệm kỳ | – 23 tháng 8 năm 1947 |
Thông tin chung | |
Quốc tịch | ![]() |
Sinh | [1] Hoài Đức, Hà Tây, Liên bang Đông Dương | 1 tháng 10, 1914
Mất | 5 tháng 12, 1986 Hà Nội, Việt Nam | (72 tuổi)
Binh nghiệp | |
Thuộc | ![]() |
Năm tại ngũ | 1945–1986 |
Cấp bậc | |
Chỉ huy |
|
Tham chiến | |
Khen thưởng | ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
Lê Trọng Tấn (1 tháng 10 năm 1914 – 5 tháng 12 năm 1986), tên thật là Lê Trọng Tố, là một Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông từng là Viện trưởng Học viện Quân sự Cao cấp, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam. Ông là vị Đại tướng Việt Nam lớn tuổi nhất vào thời điểm thụ phong: 70 tuổi 352 ngày, và cũng là vị Đại tướng giữ quân hàm hiện dịch ngắn nhất: 1 năm, 343 ngày.[cần dẫn nguồn]
Thân thế[sửa | sửa mã nguồn]
Ông tên thật là Lê Trọng Tố, sinh ngày 1 tháng 10 năm 1914, tại làng Nghĩa Lộ, thôn An Định (cũ), xã Yên Nghĩa, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay là phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông, Hà Nội). Theo cuốn "Họ Trịnh và Thăng Long" (Nhà xuất bản Văn hoá Dân tộc, 2000) của hai nhà nghiên cứu Bỉnh Di và Trịnh Quang Vũ ở trang 111 đã khẳng định đại tướng là hậu duệ của dòng chúa Trịnh Căn.
Cha của ông có biệt danh là cụ Đồ Lê (hay Năng), người đã từng tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục. Khi phong trào bị đàn áp, cụ về làng Thanh Nhàn mở lớp dạy chữ Nho. Năm 1926, cụ Đồ Lê và Nhượng Tống đã tổ chức lễ truy điệu Phan Châu Trinh tại đền Hai Bà Trưng ở làng Đồng Nhân.
Xuất thân từ một gia đình nhà giáo, thời niên thiếu, ông theo học trường Bưởi tại Hà Nội. Vốn học giỏi, lại say mê võ nghệ và bóng đá, ông từng tham gia đội bóng Eclair (Tia chớp) ở vị trí tiền vệ. Do thành tích bóng đá, ông được tuyển vào đội bóng đá của không quân Pháp và nhập ngũ vào lực lượng lính khố đỏ, phục vụ tại đơn vị đồn trú gần sân bay Tông (Sơn Tây)[2]. Do ông từng đeo đến đeo lon đội (tương đương với cấp hàm Hạ sĩ), nên dân làng Yên Nghĩa (gần sân bay Tông), thường gọi ông là "Đội Tố". Bà Bích Vân tức Hoàng Ngân khi đó đang phụ trách công tác phụ vận kiêm binh vận của Xứ ủy Bắc Kỳ và một số nhân mối khác được giao nhiệm vụ binh vận Đội Tố và đã thành công. Tham gia Việt Minh từ năm 1944 và là ủy viên quân sự Ủy ban khởi nghĩa của tỉnh Hà Đông từ tháng 8 năm 1945, sau Cách mạng tháng Tám, ông trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương.
Tham gia công tác quân sự cách mạng[sửa | sửa mã nguồn]
Khi Chiến tranh Đông Dương bùng nổ năm 1946, ông tham gia công tác quân sự. Từ 1945 đến 1950, là trung đoàn phó rồi trung đoàn trưởng các trung đoàn: Sơn La, Sơn Tây, quyền khu trưởng Khu XIV, khu phó Liên khu X. Khi Quân đội nhân dân Việt Nam thành lập các đại đoàn chủ lực, ông trở thành Đại đoàn trưởng đầu tiên của đại đoàn 312-đại đoàn Chiến thắng (nay là Sư đoàn) ở tuổi 36. Trong trận Điện Biên Phủ, đại đoàn 312 do ông chỉ huy đã đánh trận mở màn vào cao điểm Him Lam (13 tháng 3 năm 1954) và kết thúc chiến dịch vào ngày 7 tháng 5 năm 1954, bắt sống tướng Christian de Castries và ban chỉ huy tập đoàn cứ điểm.
- Từ tháng 12 năm 1954 đến năm 1960 ông là Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân. Năm 1959, ông được phong hàm Đại tá.
- Từ tháng 3 năm 1961 đến năm 1969 là Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Năm 1964, tướng Lê Trọng Tấn nhận nhiệm vụ Phó tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam, Uỷ viên Quân uỷ Miền với bí danh "Ba Long". Ông chính là một trong những người tham gia tổ chức chiến dịch Mậu Thân 1968 cùng với Hoàng Văn Thái.
- Năm 1970 - 1979, ông là Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam kiêm Tư lệnh Mặt trận Đường 9, đặc phái viên Bộ tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam bên cạnh Bộ chỉ huy Quân giải phóng nhân dân Lào, tham gia chỉ đạo chiến dịch Cánh Đồng Chum.Tướng Lê Trọng Tấn phán một câu xanh rờn: “Đánh trận này, ba đời sau Thái Lan còn sợ!”.
- Năm 1972, ông được cử làm Tư lệnh Chiến dịch Trị Thiên.
- Năm 1973, là Phó Tổng Tham mưu trưởng kiêm Tư lệnh Quân đoàn I Quyết thắng, quân đoàn đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.
- Tháng 3 năm 1975, ông làm Tư lệnh Chiến dịch Huế – Đà Nẵng.
- Tháng 4 năm 1975, ông được cử làm Phó Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh kiêm Tư lệnh cánh quân phía đông (gồm quân đoàn 2, quân đoàn 4, sư đoàn 3) tấn công vào Sài Gòn. Chính Lữ đoàn xe tăng 203, quân đoàn 2 thuộc cánh quân của ông đã tiến vào dinh Độc Lập đầu tiên.
- Từ năm 1976 đến tháng 2 năm 1977 ông là Phó Tổng Tham mưu trưởng kiêm Viện trưởng Học viện quân sự cao cấp.
- Từ tháng 12 năm 1978 đến tháng 2 năm 1979 ông chỉ huy các lực lượng vũ trang trong chiến tranh biên giới Tây Nam và đánh quân Khmer Đỏ của Pol Pot ở Campuchia.
- Từ năm 1980 đến năm 1986 ông là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam[3].
- Năm 1984, Bộ Chính trị chỉ định làm Uỷ viên Hội đồng Quân sự Bộ Quốc phòng [4].
- Theo kết quả bầu chọn tại Đại hội Toàn quân để bầu sĩ quan cao cấp tham dự Đại hội Đảng VI, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và ông đứng đầu danh sách 77 người tham dự Đại hội Đảng của Bộ Quốc phòng. Trong khi đó, Văn Tiến Dũng, Đặng Vũ Hiệp, Lê Ngọc Hiền không lọt vào danh sách này
- Ông là Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IV và V (từ 1976 đến 1986), đại biểu Quốc hội khóa VII.
Qua đời[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày 5 tháng 12 năm 1986 ông mất tại Hà Nội. Ngay trước Đại hội lần thứ sáu của Đảng, mà nhiều người dự đoán rằng rất có thể ông sẽ nhậm chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Khi Đại tướng Lê Đức Anh từ Campuchia về Nhà khách T66 của Bộ quốc phòng, khi đại biểu từ khắp các tỉnh thành trong cả nước đã tập trung về Hà Nội để dự đại hội, Tướng Lê Trọng Tấn từ một cuộc họp ở Trung ương đi thẳng đến số 6 Nguyễn Cảnh Chân gặp Lê Đức Thọ. Không ai biết rõ những gì đã xảy ra trong cuộc gặp chóng vánh này. Từ Nguyễn Cảnh Chân, Tướng Tấn lên xe về nhà riêng, 36C Lý Nam Đế. Khi đang nói chuyện với em vợ là tướng Lê Ngọc Hiền, ông gục xuống bàn. Ông mất ngày 5 tháng 12 năm 1986 tại Hà Nội.
Thông tin tham khảo: Nguyên nhân Đại tướng Lê Trọng Tấn, tổng tham mưu trưởng đột tử:
- Nhân sự trước ngày khai mạc Đại Hội VI, ngày 18/12/1986: Đại tướng Văn Tiến Dũng- Bộ trưởng quốc phòng, đại biểu dự khuyết Đại Hội VI. Thời gian này dư luận bàn tán, sau Đại Hội, Lê Trọng Tấn sẽ là Bộ Trưởng Bộ quốc phòng; Lê Đức Anh là Tổng tham mưu trưởng.
- Thông tin từ một cuộc gọi, khoảng 16h ngày 5/12/1986, tôi (Nguyễn Văn Hữu) nhận tin điện thoại tại phòng làm việc của Đại tướng Lê Đức Anh - Trạm 66, Nội dung thông tin " Đồng chí báo ngay cho anh Sáu Nam (Lê Đức Anh), bên ban tổ chức Trung ương điều động một Sỹ quan cấp hàm Đại úy- Đại biểu chính thức đi công tác Angola ngay sáng mai, đồng chí báo ngay lập tức để anh Sáu Nam có ý kiến" . Tôi báo ngay cho ông Lê Đức Anh, khoảng 30 giây sau, ông nói "Cậu báo ngay cho anh Tấn". Tôi gọi ngay sau đó và đầu dây bên kia nhận thông tin này, nhưng tôi không rõ có phải ông Tấn nhận tin hay người trực máy.
- 18 giờ cùng ngày, tôi nghe tin ông Tấn đột tử vào bệnh viện 108.
- Trưa ngày 6/12/1986, anh Sáu Ngọc (thư ký Lê Đức Anh) nói với tôi " căng thẳng quá! Nghe nói 2 ông Tấn và Thọ gặp nhau to tiếng, động bàn". Có thể ông Lê Đức Thọ giới tư cách trưởng ban tổ chức Trung ương điều động 1 Đại biểu chính thức quân đội đi Angola trước ngày khai mạc Đại hội, nhằm đưa Văn Tiến Dũng lên đại biểu chính thức, nhưng không trao đổi ý kiến với ông Lê Trọng Tấn, có thể sự thiếu tôn trọng khiến hai ông gặp nhau căng thẳng và gây ra cái chết buồn đối với gia đình ông Tấn.
- Bác sĩ Bùi Tiến Đông, người chăm sóc sức khỏe cho ông Lê Trọng Tấn nói" Có thể ông bị biến cố Túi phồng động mạch chủ ngực" nên gây ra đột tử
Lịch sử thụ phong quân hàm[sửa | sửa mã nguồn]
Năm thụ phong | 1958 | 1961 | 1974 | 1980 | 1984 | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Cấp bậc | Đại tá | Thiếu tướng | Trung tướng | Thượng tướng | Đại tướng | ||||||
Tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]
Những nhận xét[sửa | sửa mã nguồn]
- Lê Trọng Tấn được coi là một trong những tướng đánh trận giỏi nhất Việt Nam. Ông luôn được tin cậy giao các nhiệm vụ hệ trọng trên chiến trường, là Tư lệnh của các chiến dịch lớn nhất, quan trọng nhất như Bình Giã, Đồng Xoài, Bàu Bàng - Dầu Tiếng, Đường 9 Nam Lào, Trị Thiên 1972,... Ông nổi tiếng là con người tài năng, cương trực, quyết đoán, "trí - dũng - nhân - chính - liêm - trung".[5]
- Ông được Đại tướng Võ Nguyên Giáp coi là "người chỉ huy kiên cường, lỗi lạc, người bạn chiến đấu chí thiết".[6]
Trong một nhận xét khác có tính khẳng định hơn, Võ Nguyên Giáp nhận định:
- "...(Lê Trọng Tấn) là một trong những vị tướng giỏi nhất Việt Nam qua các thời đại.[5]
- Trong cuộc phỏng vấn về xếp hạng tướng lĩnh Việt Nam hiện đại, Thượng tướng Hoàng Minh Thảo đã đánh giá: "Tất nhiên đầu tiên là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Thứ hai là tướng Lê Trọng Tấn. Thứ ba là tướng Hoàng Văn Thái và thứ tư là tướng Nguyễn Hữu An..."[7]
Đời sống riêng[sửa | sửa mã nguồn]
- Gia đình ông có 3 anh em trai: Lê Mạnh Hồ (cả), Lê Trọng Tố (chính ông) và Lê Quý Giả (sau này lấy bí danh là Trịnh Quý Đông, làm Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Hưng Yên, Đại biểu Quốc hội khóa I, Trưởng phòng Giáo tài Đại học Y Dược Hà Nội).
- Phu nhân của ông là bà Nguyễn Thị Minh Sơn.
- Ông có con trai duy nhất là Lê Đông Hải, Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam, Giáo sư Tiến sĩ kỹ thuật quân sự, nguyên viện trưởng Viện Kỹ thuật Quân sự 2 tại Thành phố Hồ Chí Minh, nghỉ hưu năm 2004. Lê Đông Hải học trường thiếu sinh quân từ nhỏ, sau đó trở thành quân nhân làm việc trong Đại đoàn 312 do chính Đại tướng Lê Trọng Tấn làm chỉ huy. Ngày 10 tháng 9 năm 1954, ông được nhà nước cử đi học ở Moskva (Liên Xô). Giáo sư Tiến sĩ Lê Đông Hải đã được nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng nhất.[8] và giải thưởng quốc gia.
- Cho tới lúc mất, ông chưa bao giờ sở hữu nhà riêng.[5]
Vinh danh[sửa | sửa mã nguồn]
Ông đã được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng:
- Huân chương Sao vàng (truy tặng năm 2007)
- 2 Huân chương Hồ Chí Minh
- Huân chương Quân công hạng nhất
- Huân chương Quân công hạng ba
- Huân chương Chiến thắng hạng nhất
- Huân chương Kháng chiến hạng nhất
- Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng nhất, nhì, ba
- Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng nhất, nhì, ba
- Huy chương Quân kì quyết thắng
và nhiều huân, huy chương khác.[9]
- Tên ông được đặt cho một số tuyến đường phố tại Việt Nam. Hà Nội có tới ba đường Lê Trọng Tấn đều là hai đường lớn nằm gần nhau ở quận Thanh Xuân[10] và Hà Đông,[11] và Hoài Đức. Ở các địa phương khác có đường mang tên ông:
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ “Đại tướng Lê Trọng Tấn: Hai trận đánh xứng đáng hai lần anh hùng”. Báo Quân khu 7. ngày 1 tháng 10 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2017.
- ^ Đây không phải trường hợp cá biệt. Thượng tướng Hoàng Cầm cũng từng đi lính khố xanh và đến năm 1945 mới vào Đảng cộng sản, Trung tướng Nguyễn Bình vốn là người của Việt Nam Quốc dân Đảng, năm 1946 mới vào Đảng cộng sản.
- ^ Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, tr. 599, nxb QĐND 2004
- ^ Quyết định số: 8/07/NQNS-TW, ngày 18-5-1984 của Bộ Chính trị, Về việc chỉ định hội đồng Quân sự Bộ Quốc phòng (gồm các đ/c: Văn Tiến Dũng, Chu Huy Mân, Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Lê Đức Anh, Bùi Phùng, Lê Ngọc Hiền, Đặng Vũ Hiệp)
- ^ a b c Chuyện ít biết về các bậc lão thành cách mạng - Kỳ 6
- ^ Tiểu sử Đại tướng Lê Trọng Tấn[liên kết hỏng]
- ^ “Thượng tướng Hoàng Minh Thảo: Vẫn nguyên vẹn người lính thời binh lửa”. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2011.
- ^ Chuyện ít biết về các bậc lão thành cách mạng - Kỳ 6
- ^ “Tiểu sử Đại tướng Lê Trọng Tấn”. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2013.
- ^ 20°59′39″B 105°49′52″Đ / 20,9942841°B 105,831231°Đ
- ^ 20°58′17″B 105°44′57″Đ / 20,9713682°B 105,7490729°Đ
- ^ 16°23′46″B 107°41′53″Đ / 16,3960695°B 107,6981943°Đ
- ^ 16°02′17″B 108°11′24″Đ / 16,0379284°B 108,19011°Đ
- ^ 10°48′36″B 106°36′50″Đ / 10,8099223°B 106,6138394°Đ
- ^ 9°18′28″B 105°43′51″Đ / 9,3076561°B 105,7307935°Đ
- ^ 10°21′56″B 105°25′43″Đ / 10,3656647°B 105,4285807°Đ
- ^ 20°39′49″B 106°03′27″Đ / 20,6635152°B 106,0575794°Đ
- ^ 20°09′32″B 105°55′38″Đ / 20,1590199°B 105,9271568°Đ
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
- Vị Đại tướng không có nhà riêng Lưu trữ 2007-11-23 tại Wayback Machine trang này có một số thông tin liên quan tới bài viết này.
- Bức ảnh Tướng Lê Trọng Tấn tìm thấy ở căn cứ giặc
- Điện Biên Phủ
- Nguyễn Văn Hữu
- Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam
- Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam
- Sinh năm 1914
- Mất năm 1986
- Người Hà Tây
- Học sinh trường Bưởi
- Cựu binh Quân đội Thuộc địa Pháp
- Học viện Quốc phòng Việt Nam
- Giám đốc Học viện Quốc phòng Việt Nam
- Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam
- Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa VII
- Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
- Huân chương Sao Vàng
- Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
- Quân nhân trong Chiến tranh Việt Nam
- Tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam thụ phong thập niên 1980