Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đười ươi”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 39: Dòng 39:
Danh từ ''uraŋutan'' dạng Java cổ xuất hiện sớm nhất trong cuốn ''[[Kakawin Ramayana]]'', một tác phẩm chuyển thể của thiên sư thi [[Ramayana]] tiếng Phạn (thế kỷ thứ 9 hoặc đầu thế kỷ thứ 10). Trong thư tịch tiếng Java cổ, từ ''uraŋutan'' được dùng để chỉ khỉ vượn chứ không phải chỉ người sống trong rừng. Danh từ này do vậy không có gốc gác Java mà chắc hẳn được mượn từ một [[Ngữ ngành Mã Lai|thứ tiếng Mã Lai]] sơ kỳ nào đó. Rốt cuộc, cách gọi "orangutan" với ý nghĩa chỉ chi ''Pongo'' bắt nguồn từ [[cổ ngữ Mã Lai]].<ref name="sastrawan"/>
Danh từ ''uraŋutan'' dạng Java cổ xuất hiện sớm nhất trong cuốn ''[[Kakawin Ramayana]]'', một tác phẩm chuyển thể của thiên sư thi [[Ramayana]] tiếng Phạn (thế kỷ thứ 9 hoặc đầu thế kỷ thứ 10). Trong thư tịch tiếng Java cổ, từ ''uraŋutan'' được dùng để chỉ khỉ vượn chứ không phải chỉ người sống trong rừng. Danh từ này do vậy không có gốc gác Java mà chắc hẳn được mượn từ một [[Ngữ ngành Mã Lai|thứ tiếng Mã Lai]] sơ kỳ nào đó. Rốt cuộc, cách gọi "orangutan" với ý nghĩa chỉ chi ''Pongo'' bắt nguồn từ [[cổ ngữ Mã Lai]].<ref name="sastrawan"/>
[[File:Man-of-the-Woods.jpg|thumb|upright|left|alt=Orangutan sketch by George Edwards|Bản phác thảo "The Man of the Woods" bởi [[George Edwards (nhà tự nhiên học)|George Edwards]], 1758]]
[[File:Man-of-the-Woods.jpg|thumb|upright|left|alt=Orangutan sketch by George Edwards|Bản phác thảo "The Man of the Woods" bởi [[George Edwards (nhà tự nhiên học)|George Edwards]], 1758]]

==Phát sinh chủng loại==
{{see also|Tổ tiên chung cuối cùng của đười ươi và con người}}
Đười ươi được mô tả khoa học lần đầu tiên vào năm 1758 trong tác phẩm ''[[Systema Naturae]]'' của [[Carl Linnaeus]] với danh pháp ''Homo Sylvestris''.<ref name="cribb" />{{rp|20}} Nó được đổi tên thành ''Simia pygmaeus'' vào năm 1760 bởi học trò của ông là [[Christian Emmanuel Hopp]] rồi lại được đổi tiếp thành ''Pongo'' bởi Lacépède vào năm 1799.<ref name="cribb" />{{rp|24–25}} Quần thể đười ươi trên hai đảo được đề xuất là các loài riêng biệt sau khi ''P. abelii'' được nhà tự nhiên học người Pháp [[René Lesson]] mô tả vào năm 1827.<ref name="Lesson1827">{{cite book|last= Lesson| first= René-Primevère |author-link= René Lesson|title= Manuel de mammalogie ou Histoire naturelle des mammifères|url= https://archive.org/details/manueldemammalo00lessgoog|page= [https://archive.org/details/manueldemammalo00lessgoog/page/n85 32]|year=1827|language= fr|publisher= Roret, Libraire}}</ref> Nghiên cứu phân tử từ năm 1996 được công bố vào năm 2001 đã xác nhận ''P. abelii'' là một loài chính đáng,<ref name="XuArnason1996">{{cite journal|last1= Xu|first1= X.|last2= Arnason|first2= U.|title= The mitochondrial DNA molecule of sumatran orangutan and a molecular proposal for two (Bornean and Sumatran) species of orangutan|journal= [[Journal of Molecular Evolution]]|volume= 43|issue= 5|year= 1996|pages= 431–37|doi= 10.1007/BF02337514|pmid= 8875856|bibcode= 1996JMolE..43..431X|s2cid= 3355899}}</ref><ref name=Payne />{{rp|53}}<ref name= "curbio"/> và ba quần thể tách biệt tại Borneo được chia thành các phân loài (''P. p. Pygmaeus'', ''P. p. morio'' và ''P. p. wurmbii'').<ref name=Asian>{{cite journal | last1 = Bradon-Jones | first1 = D. | last2 = Eudey | first2 = A. A. | last3 = Geissmann | first3 = T. | last4 = Groves | first4 = C. P. | last5 = Melnick | first5 = D. J. | last6 = Morales | first6 = J. C. | last7 = Shekelle | first7 = M. | last8 = Stewart | first8 = C. B. | year = 2004 | title = Asian primate classification | url = http://www.gibbons.de/main/papers/pdf_files/2004asianprimates.pdf | journal = [[International Journal of Primatology]] | volume = 25 | pages = 97–164 | doi = 10.1023/B:IJOP.0000014647.18720.32 | s2cid = 29045930 | access-date = 1 May 2011 | archive-date = 6 December 2010 | archive-url = https://web.archive.org/web/20101206230755/http://www.gibbons.de/main/papers/pdf_files/2004asianprimates.pdf | url-status = live }}</ref> Mô tả khoa học năm 2017 về loài thứ ba ''P. tapanuliensis'' từ [[Sumatra]] phía nam [[Hồ Toba]] đã hé lộ một điều khá thú vị: chúng có quan hệ họ hàng gần với loài ''P. pygmaeus'' hơn là ''P. abelii''.<ref name= "curbio">{{Cite journal|last1=Nater|first1=A.|last2=Mattle-Greminger|first2=M. P.|last3=Nurcahyo|first3=A.|last4=Nowak|first4=M. G.|display-authors=etal|date=2 November 2017|title=Morphometric, Behavioral, and Genomic Evidence for a New Orangutan Species|journal=Current Biology|volume=27|issue=22|pages=3487–3498.e10|doi=10.1016/j.cub.2017.09.047|pmid=29103940|doi-access=free}}</ref>

[[File:Bornean, Sumatran & Tapanuli orangs (horizontal).jpg|thumb|upright=1.5|right|alt= Head shots of male Bornean, Sumatran and Tapanuli orangutans|Đười ươi đực có "bờm" từ [[Đười ươi Borneo|Borneo]], [[Đười ươi Sumatra|Sumatra]] và [[Đười ươi Tapanuli|Tapanuli]]]]

Bộ gen đười ươi Sumatra được giải trình tự vào tháng 1 năm 2011.<ref name="Locke2011">{{Cite journal | last1 = Locke | first1 = D. P. | last2 = Hillier | first2 = L. W. | last3 = Warren | first3 = W. C. | last4 = Worley | first4 = K. C. | last5 = Nazareth | first5 = L. V. | last6 = Muzny | first6 = D. M. | last7 = Yang | first7 = S. P. | last8 = Wang | first8 = Z. | last9 = Chinwalla | first9 = A. T. | last10 = Minx | doi = 10.1038/nature09687 | first10 = P. | last11 = Mitreva | first11 = M. | last12 = Cook | first12 = L. | last13 = Delehaunty | first13 = K. D. | last14 = Fronick | first14 = C. | last15 = Schmidt | first15 = H. | last16 = Fulton | first16 = L. A. | last17 = Fulton | first17 = R. S. | last18 = Nelson | first18 = J. O. | last19 = Magrini | first19 = V. | last20 = Pohl | first20 = C. | last21 = Graves | first21 = T. A. | last22 = Markovic | first22 = C. | last23 = Cree | first23 = A. | last24 = Dinh | first24 = H. H. | last25 = Hume | first25 = J. | last26 = Kovar | first26 = C. L. | last27 = Fowler | first27 = G. R. | last28 = Lunter | first28 = G. | last29 = Meader | first29 = S. | last30 = Heger | first30 = A. | title = Comparative and demographic analysis of orang-utan genomes | journal = [[Nature (journal)|Nature]] | volume = 469 | issue = 7331 | pages = 529–33 | year = 2011 | pmid = 21270892| pmc =3060778 | display-authors = 29 | bibcode = 2011Natur.469..529L }}</ref><ref name=nature>{{cite journal |doi=10.1038/news.2011.50 |title=Orang-utans join the genome gang |journal=Nature |last=Singh |first=Ranjeet |url=http://www.nature.com/news/2011/110126/full/news.2011.50.html |date=26 January 2011 |access-date=27 January 2011 |archive-date=27 January 2011 |archive-url=https://web.archive.org/web/20110127224645/http://www.nature.com/news/2011/110126/full/news.2011.50.html |url-status=live }}</ref> Nối tiếp con người và tinh tinh, đười ươi Sumatra đã trở thành loài vượn lớn thứ ba có được "vinh dự" đó. Theo sau, đười ươi Borneo cũng được giải trình tự bộ gen. Người ta phát hiện ra rằng mức [[đa dạng di truyền]] của đười ươi Borneo (''P. pygmaeus'') thấp hơn hẳn so với đười ươi Sumatra (''P. abelii'') mặc dù quần thể trên đảo Borneo đông đảo gấp 6 hoặc 7 lần quần thể trên đảo Sumatra. Các nhà nghiên cứu hy vọng những dữ liệu quý giá này có thể hỗ trợ nỗ lực bảo tồn chi đười ươi có nguy cơ tuyệt chủng và góp phần làm sáng tỏ thêm các căn [[bệnh di truyền]] của loài người chúng ta.<ref name=nature /> Giống với [[khỉ đột]] và [[tinh tinh]], đười ươi sở hữu 48 [[Mức bội thể|lưỡng bội]] [[nhiễm sắc thể]], nhiều hơn [[Nhiễm sắc thể số 2|con số 46 ở loài người]].<ref name="RijksenMeijaard1999"/>{{rp|9}}

Theo [[Đồng hồ phân tử|bằng chứng phân tử]] xét ở liên họ [[Hominoidea]], [[Họ Vượn|các loài vượn]] bắt đầu phân hóa vào thời kỳ đầu [[thế Miocen]] khoảng 24,1-19,7 triệu năm trước (mya), và đười ươi đã tách khỏi dòng dõi vượn lớn châu Phi vào khoảng 19,3-15,7 mya. Israfil và đồng nghiệp (2011) ước tính dựa trên [[Lô-cut gen|lô-cút]] [[ti thể]], [[Nhiễm sắc thể Y|liên kết Y]] và [[Nhiễm sắc thể X|liên kết X]] rằng đười uơi Sumatra và Borneo phân tách vào khoảng 4,9-2,9 mya.<ref name=Israfil_et_al>{{Cite journal|last1=Israfil |first1=H. |last2=Zehr |first2=S. M. |last3=Mootnick |first3=A. R. |last4=Ruvolo |first4=M. |last5=Steiper |first5=M. E. |title=Unresolved molecular phylogenies of gibbons and siamangs (Family: Hylobatidae) based on mitochondrial, Y-linked, and X-linked loci indicate a rapid Miocene radiation or sudden vicariance event |doi=10.1016/j.ympev.2010.11.005 |journal=[[Molecular Phylogenetics and Evolution]] |volume=58 |issue=3 |pages=447–55 |year=2011 |pmid=21074627 |pmc=3046308 |url=http://www.gibboncenter.org/publications/MolecularPhylogeneticsIsrafil_etal_2011_MPE.pdf |url-status=dead |archive-url=https://web.archive.org/web/20120510084118/http://www.gibboncenter.org/publications/MolecularPhylogeneticsIsrafil_etal_2011_MPE.pdf |archive-date=10 May 2012 }}</ref>{{rp|at=Fig. 4}} Trái lại, nghiên cứu bộ gen năm 2011 cho rằng hai loài này phân tách vào khoảng 400.000 năm trước, gần đây hơn những gì ta từng nghĩ. Ngoài ra, bộ gen của đười ươi được phát hiện trải qua sự tiến hóa chậm hơn nhiều so với ADN của tinh tinh và con người [21] Một nghiên cứu bộ gen năm 2017 chỉ ra rằng dòng Borneo và Tapanuli tách khỏi dòng Sumatra từ khoảng 3,4 mya rồi tiếp tục chia tách từ khoảng 2,4 mya. Đười ươi di cư từ Sumatra sang Borneo, vì trong [[Băng hà Đệ Tứ|thời kỳ băng hà gần đây]] mực nước biển xuống thấp khiến phát lộ [[Sundaland]] kết nối các đảo ở Đông Nam Á. Phạm vi hiện tại của đười ươi Tapanuli được cho là rất gần với nơi mà tổ tiên chúng lần đầu đặt chân đến Indonesia từ lục địa Châu Á.<ref name="curbio" /><ref name="NatGeo 2017">{{Cite news|url=https://news.nationalgeographic.com/2017/11/new-orangutan-species-sumatra-borneo-indonesia-animals/|title=New Species of Orangutan Is Rarest Great Ape on Earth|last=Goldman|first=Jason G.|date=2 November 2017|access-date=6 November 2017|publisher=National Geographic Society|archive-date=23 July 2018|archive-url=https://web.archive.org/web/20180723230041/https://news.nationalgeographic.com/2017/11/new-orangutan-species-sumatra-borneo-indonesia-animals/|url-status=live}}</ref>

{| class="wikitable" style="margin:1em auto 1em auto; width:750pt;"
|-
! scope=col| Phân loại chi ''Pongo''<ref name=MSW3>{{MSW3 Groves|pages=183–84|id=12100803}}</ref>
! scope=col| Cây phát sinh liên họ Hominoidea<ref name=Israfil_et_al />{{rp|at=Fig. 4}}
|-
|'''Chi ''Pongo'''''
* [[Đười ươi Borneo]] (''Pongo pygmaeus'')
** ''Pongo pygmaeus pygmaeus'' – quần thể phía tây bắc
** ''Pongo pygmaeus morio'' – quần thể phía đông
** ''Pongo pygmaeus wurmbii'' – quần thể phía tây nam
* [[Đười ươi Sumatra]] (''Pongo abelii'' – phía tây bắc của [[Hồ Toba]])
* [[Đười ươi Tapanuli]] (''Pongo tapanuliensis'' – phía nam của Hồ Toba)
|
{{Clade
|label1=&nbsp;Hominoidea
|1={{Cladex
|1={{Cladex
|1={{Cladex
|1={{Cladex
|1=[[Người]]&nbsp;(chi&nbsp;''[[Homo]]'')
|2=[[Pan (chi)|Tinh tinh]]&nbsp;(chi&nbsp;''Pan'')
}}
|2=[[Khỉ đột]]&nbsp;(chi ''Gorilla'')
}}
|2='''Đười ươi&nbsp;(chi ''Pongo'')'''
}}
|2=[[Họ Vượn|Vượn]]&nbsp;(họ&nbsp;Hylobatidae)
}}
}}
|}
[[File:Sivapithecus sivalensis.JPG|thumb|right|upright|alt=Partial fossil skull of ape|Hộp sọ hóa thạch của ''Sivapithecus sivalensis'', họ hàng đã tuyệt chủng của đười ươi]]


==Đặc điểm==
==Đặc điểm==

Phiên bản lúc 13:51, ngày 13 tháng 6 năm 2022

Đười ươi
Khoảng thời gian tồn tại:
Canh Tân sớm-hiện nay
2.58–0 triệu năm trước đây
220px
Đười ươi Borneo
(Pongo pygmaeus)
Phân loại khoa học e
Giới: Animalia
Ngành: Chordata
Lớp: Mammalia
Bộ: Primates
Phân bộ: Haplorhini
Thứ bộ: Simiiformes
Họ: Hominidae
Phân họ: Ponginae
Chi: Pongo
Lacépède, 1799
Loài điển hình
Pongo pygmaeus
Lacépède, 1799
(Simia satyrus Linnaeus, 1760)
Các loài
220px
Phạm vi sinh sống của 3 loài đười ươi tồn tại
Các đồng nghĩa
  • Faunus Oken, 1816
  • Lophotus Fischer, 1813
  • Macrobates Billberg, 1828
  • Satyrus Lesson, 1840

Đười ươi (Danh pháp khoa học: Pongo) là tên gọi một chi vượn lớn bản địa của các khu rừng nhiệt đới thuộc IndonesiaMalaysia. Hiện nay phạm vi cư trú của đười ươi chỉ quanh quẩn tại các đảo BorneoSumatra, song vào thế Canh Tân chúng đã từng sinh sống khắp khu vực Đông Nam Ámiền Nam Trung Quốc. Đười ươi từng được coi chỉ bao gồm một loài duy nhất, tuy nhiên vào năm 1996 giới khoa học đã chia chúng thành hai loài: đười ươi Borneo (P. pygmaeus, với ba phân loài) và đười ươi Sumatra (P. abelii). Loài thứ ba gọi là đười ươi Tapanuli (P. tapanuliensis) được xác định vào năm 2017. Đười ươi là nhánh duy nhất còn tồn tại của phân họ Ponginae, đã phân tách di truyền với các hominid khác (khỉ đột, tinh tinhcon người) vào khoảng giữa 19,3-15,7 triệu năm trước.

Trong số các họ hàng vượn lớn, đười ươi khác biệt ở chỗ chúng phần lớn vẫn sống trên cây. Chúng có cánh tay dài và đôi chân ngắn (so với cơ thể). Bộ lông chúng rậm rạp màu đỏ-nâu bao phủ gần kín cơ thể. Cân nặng của cá thể đực cái lần lượt vào khoảng 75 kg (165 lb) và 37 kg (82 lb). Những con đực trưởng thành đầu đàn sở hữu những miếng đệm má lớn và có khả năng tạo ra những tiếng kêu dài nhằm thu hút con cái hoặc đe dọa kẻ thù; những con đực trẻ cấp thấp trông gần giống những con cái trưởng thành hơn. Đười ươi là sinh vật đơn độc nhất trong số các vượn lớn, thực vậy, mối quan hệ xã hội nội loài chủ yếu chỉ diễn ra giữa mẹ và đàn con của nó. Trái cây là thành phần quan trọng nhất trong chế độ ăn của đười ươi; ngoài ra thì chúng ăn được cả thực vật, vỏ cây, mật ong, côn trùng và trứng chim. Chúng có thể sống thọ hơn 30 năm trong môi trường tự nhiên lẫn nuôi nhốt.

Đười ươi thuộc hàng thông minh nhất trong số các loài linh trưởng. Chúng biết sử dụng công cụ phức tạp và biết xây dựng những chiếc tổ ngủ đêm khá công phu từ cành và lá. Đười ươi bắt đầu xuất hiện trong văn học và nghệ thuật của loài người, đặc biệt là trong các tác phẩm bình luận về xã hội loài người, từ khoảng thế kỷ thứ 18. Nhiều nghiên cứu khoa học về trí thông minh của chúng đã được thực hiện. Nhà linh trưởng học Birutė Galdikas là người tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu điền dã các loài vượn lớn và các cơ sở nuôi nhốt đười ươi đã được mở cửa trên khắp thế giới từ khoảng đầu thế kỷ 19.

Cả ba loài đười ươi đều được xếp vào diện cực kỳ nguy cấp, nguyên nhân bởi các hoạt động của con người như săn trộm (để làm thịt rừng hoặc để ngăn chúng phá mùa màng), phá rừng (để trồng và khai thác dầu cọ), và buôn bán thú nuôi bất hợp pháp. Nhiều tổ chức bảo tồn thiên nhiêncứu hộ động vật hiện nay vẫn đang nỗ lực bảo vệ sự sống còn của đười ươi trong hoang dã.

Ngữ nguyên

Không rõ từ "đười ươi" trong tiếng Việt bắt nguồn từ đâu.

Trong tiếng Anh, đười ươi được gọi là "orangutan" (các cách viết khác bao gồm: orang-utan, orang utan, orangutang, hay ourang-outang[1]) phiên âm hai từ tiếng Mã Laiorang, nghĩa là "người", và hutan, nghĩa là "rừng".[2][3] Dân địa phương sử dụng danh từ trên để chỉ người sống trong rừng song theo thời gian thì ngữ nghĩa của nó dần biến đổi thành ý chỉ con vật như hiện nay.[2][4]

Danh từ uraŋutan dạng Java cổ xuất hiện sớm nhất trong cuốn Kakawin Ramayana, một tác phẩm chuyển thể của thiên sư thi Ramayana tiếng Phạn (thế kỷ thứ 9 hoặc đầu thế kỷ thứ 10). Trong thư tịch tiếng Java cổ, từ uraŋutan được dùng để chỉ khỉ vượn chứ không phải chỉ người sống trong rừng. Danh từ này do vậy không có gốc gác Java mà chắc hẳn được mượn từ một thứ tiếng Mã Lai sơ kỳ nào đó. Rốt cuộc, cách gọi "orangutan" với ý nghĩa chỉ chi Pongo bắt nguồn từ cổ ngữ Mã Lai.[2]

Orangutan sketch by George Edwards
Bản phác thảo "The Man of the Woods" bởi George Edwards, 1758

Phát sinh chủng loại

Đười ươi được mô tả khoa học lần đầu tiên vào năm 1758 trong tác phẩm Systema Naturae của Carl Linnaeus với danh pháp Homo Sylvestris.[5]:20 Nó được đổi tên thành Simia pygmaeus vào năm 1760 bởi học trò của ông là Christian Emmanuel Hopp rồi lại được đổi tiếp thành Pongo bởi Lacépède vào năm 1799.[5]:24–25 Quần thể đười ươi trên hai đảo được đề xuất là các loài riêng biệt sau khi P. abelii được nhà tự nhiên học người Pháp René Lesson mô tả vào năm 1827.[6] Nghiên cứu phân tử từ năm 1996 được công bố vào năm 2001 đã xác nhận P. abelii là một loài chính đáng,[7][8]:53[9] và ba quần thể tách biệt tại Borneo được chia thành các phân loài (P. p. Pygmaeus, P. p. morioP. p. wurmbii).[10] Mô tả khoa học năm 2017 về loài thứ ba P. tapanuliensis từ Sumatra phía nam Hồ Toba đã hé lộ một điều khá thú vị: chúng có quan hệ họ hàng gần với loài P. pygmaeus hơn là P. abelii.[9]

Head shots of male Bornean, Sumatran and Tapanuli orangutans
Đười ươi đực có "bờm" từ Borneo, SumatraTapanuli

Bộ gen đười ươi Sumatra được giải trình tự vào tháng 1 năm 2011.[11][12] Nối tiếp con người và tinh tinh, đười ươi Sumatra đã trở thành loài vượn lớn thứ ba có được "vinh dự" đó. Theo sau, đười ươi Borneo cũng được giải trình tự bộ gen. Người ta phát hiện ra rằng mức đa dạng di truyền của đười ươi Borneo (P. pygmaeus) thấp hơn hẳn so với đười ươi Sumatra (P. abelii) mặc dù quần thể trên đảo Borneo đông đảo gấp 6 hoặc 7 lần quần thể trên đảo Sumatra. Các nhà nghiên cứu hy vọng những dữ liệu quý giá này có thể hỗ trợ nỗ lực bảo tồn chi đười ươi có nguy cơ tuyệt chủng và góp phần làm sáng tỏ thêm các căn bệnh di truyền của loài người chúng ta.[12] Giống với khỉ độttinh tinh, đười ươi sở hữu 48 lưỡng bội nhiễm sắc thể, nhiều hơn con số 46 ở loài người.[13]:9

Theo bằng chứng phân tử xét ở liên họ Hominoidea, các loài vượn bắt đầu phân hóa vào thời kỳ đầu thế Miocen khoảng 24,1-19,7 triệu năm trước (mya), và đười ươi đã tách khỏi dòng dõi vượn lớn châu Phi vào khoảng 19,3-15,7 mya. Israfil và đồng nghiệp (2011) ước tính dựa trên lô-cút ti thể, liên kết Yliên kết X rằng đười uơi Sumatra và Borneo phân tách vào khoảng 4,9-2,9 mya.[14](Fig. 4) Trái lại, nghiên cứu bộ gen năm 2011 cho rằng hai loài này phân tách vào khoảng 400.000 năm trước, gần đây hơn những gì ta từng nghĩ. Ngoài ra, bộ gen của đười ươi được phát hiện trải qua sự tiến hóa chậm hơn nhiều so với ADN của tinh tinh và con người [21] Một nghiên cứu bộ gen năm 2017 chỉ ra rằng dòng Borneo và Tapanuli tách khỏi dòng Sumatra từ khoảng 3,4 mya rồi tiếp tục chia tách từ khoảng 2,4 mya. Đười ươi di cư từ Sumatra sang Borneo, vì trong thời kỳ băng hà gần đây mực nước biển xuống thấp khiến phát lộ Sundaland kết nối các đảo ở Đông Nam Á. Phạm vi hiện tại của đười ươi Tapanuli được cho là rất gần với nơi mà tổ tiên chúng lần đầu đặt chân đến Indonesia từ lục địa Châu Á.[9][15]

Phân loại chi Pongo[16] Cây phát sinh liên họ Hominoidea[14](Fig. 4)
Chi Pongo
 Hominoidea




 Người (chi Homo)



 Tinh tinh (chi Pan)




 Khỉ đột (chi Gorilla)




 Đười ươi (chi Pongo)




 Vượn (họ Hylobatidae)


Partial fossil skull of ape
Hộp sọ hóa thạch của Sivapithecus sivalensis, họ hàng đã tuyệt chủng của đười ươi

Đặc điểm

Cấu tạo

Người ta xác định tầm vóc những con đười ươi trưởng thành bằng sải tay của chúng khi giang rộng, thường đạt đến 2 mét. Đười ươi đực đứng thẳng trên hai chân cao 1 mét rưỡi, tay vẫn có thể chạm đất. Tay và chân chúng rất khoẻ mạnh với các đốt trên ngón có thể uốn cong vào để cầm nắm, có ý nghĩa rất quan trọng trong cuộc sống của loài linh trưởng, cho phép chúng đeo bám chắc chắn để đánh đu như các diễn viên xiếc vì đến 90% thời gian trong đời chúng sống ở trên cây.[17] Những con đười ươi đực có thể sinh con đẻ cái ở tuổi xấp xỉ 15, nhưng để chinh phục được một con cái thì con đực còn cần có một đặc trưng phụ về giới tính nữa là phải có những hàng lông dày dặn ở ngực và dễ nhận ra hơn nữa là những túm lông hai bên má. Những con đười ươi đực sống tại Borneo khác với đười ươi đực sống ở Sumatra, có thể độc quyền sở hữu những đười ươi cái hàng tuần trong một thời gian nhất định.[18]

Tập tính

Đười ươi mẹ và con

Cả đời, đười ươi gắn liền với cây cối. Đêm nào chúng cũng vơ cành cây và lá cây làm tổ để ngủ qua đêm với thời gian không đầy 5 phút rồi cuốn quanh mình để ngủ. Đười ươi ăn, nghỉ và ngủ trên những cây cổ thụ, lấy những cành cây có lá rộng kết thành tổ để ngủ và trú ẩn dưới những trận mưa rào nhiệt đới. Khi ăn uống, thường chúng không cần xuống mặt đất vì thức ăn của chúng là hoa quả, côn trùng, đọt lá non và nước uống chúng lấy từ những bọng cây quen thuộc.[19]

Trong rừng, đười ươi cũng làm tổ để trú ngụ, tổ những con đười ươi thường nằm dưới tán rừng, ở độ cao 10 –20 m. Tổ của chúng thường có chiều dài khoảng 1,2 – 1,5 m, rộng chưa đến 1 m. Chúng chỉ mất thời gian ngắn để hoàn thành cái tổ với nguyên liệu đơn giản là cành cây, nhưng khá chắc chắn. Những con đười ươi thường chỉ sử dụng tổ để ngủ duy nhất trong đêm.[20] Đười ươi cũng như các loài linh trưởng khác đều có bản năng sợ nước vì lo ngại những loài sát thủ như cá sấu. Do đó việc chúng xuống sông tắm có thể được coi như một dấu hiệu của sự tiến hóa quan trọng. Đàn đười ươi tắm sông là rất hiếm. Không chỉ tắm nước sông, một số con còn đầm mình trong bùn. Một số con treo mình lên những cành cây vươn ra sông để không bị ướt toàn thân.[21]

Trong khi các loài linh trưởng khác truyền từ cành này sang cành khác vất vả kiếm ăn thì loài dã nhân to lớn và khôn ngoan này ngồi một chỗ nào đó, chờ đợi hoa quả hiện ra trước mắt mình và chỉ việc giơ tay ngắt lấy bỏ vào miệng, tổ tiên chúng truyền lại kinh nghiệm quan sát thiên nhiên để biết mùa nào thức ấy, đến mùa chuyển nơi ở để có sẵn thức ăn. Đười ươi con chỉ có mẹ, vừa là người nuôi dưỡng, vừa là người thầy của mình. Từ năm này qua năm khác, đười ươi mẹ dạy con thuộc lòng đường đi lối lại trong khu rừng, biết vào thời gian nào quả gì chín, mọc ở đâu trong cánh rừng nhiệt đới nguyên sinh rậm rạp, đối phó những nguy hiểm gặp phải. Đười ươi thường sống đơn lẻ. Hiếm khi những con đười ươi cái mang theo bầy con, gặp những con đười ươi cái khác lại làm quen, dù trên cùng một cây ăn quả. Những con đười ươi đực gặp nhau thì lập tức thành thù địch, hò hét om sòm, vang xa đến 2 kilomet.[17]

Xã hội

Trong tự nhiên, đười ươi cũng có cấu trúc xã hội phức tạp với các thứ bậc và có sự tranh giành thứ bậc. Có những con đười ươi sử dụng chiến lược hoãn dậy thì để tranh giành làm thủ lĩnh. Những con đười ươi Sumatra mới kiên trì áp dụng một giải pháp rất độc đáo: chúng chưa dậy thì vội mà dành mọi sức lực để biến mình thành lực lưỡng, đô con, đủ sức để chiến đấu với bọn lớn hơn đã. Và sau khi đạt được mục đích này rồi chúng mới tính đến chuyện dậy thì, ve vãn bạn gái và phấn đấu lên làm thủ lĩnh.[18] Những chú đười ươi trên đảo Sumatra hoãn dậy thì để tập trung vào việc rèn luyện thể lực cho tới khi đánh bại được con đực thủ lĩnh. Khi chưa có sức lực ngang ngửa với con khỏe nhất thì các đám lông hai bên má của chúng cũng bị hoãn cả việc mọc ra. Đôi khi lâu hơn 10 năm. Không một loài linh trưởng nào khác kể cả đười ươi Borneo có tập tính này.[18]

Đười ươi cái thật thông minh và rất có ý thức tự lập. Hầu như cả đời chúng sống ở trên cây. Mỗi ngày chúng lại làm cho mình một chiếc “tổ” mới bằng cành và lá cây, nghĩa là trong đời chúng đã cần cù xây đến 30.000 chiếc “tổ”. Chúng cũng chẳng bao giờ đặt con xuống mà đeo con trên lưng khi con còn nhỏ. Chúng nuôi con ròng rã suốt 6-7 năm trời. Đó là loài nuôi con lâu nhất trong tất cả các loài trên Trái đất. Đười ươi đực sau chuyện cặp kè, mất hút luôn, chẳng để ý gì đến con cái. Và bọn đười ươi đực vừa lớn lên cũng thế. Khi gặp cô bạn gái vừa mắt, chúng rời bỏ mẹ liền, trong khi đười ươi cái con ở lại với mẹ lâu hơn, dường như để học kỹ thuật làm mẹ sau này những bà mẹ chuyên nuôi con một mình.

Hành vi

Là loài động vật giống như con người, những con đười ươi rất thông minh, đây là loài linh trưởng được xem là một trong những loài thông minh nhất trong các loài động vật. Chúng biết làm nhà của mình trong các khu rừng nhiệt đới Đông Nam Á,[22] Chúng đã tham gia rất nhiều các thí nghiệm liên quan đến trí thông minh.[23] Trong môi trường nuôi nhốt, đười ươi cũng có những hành vi khác lạ, có những con đười ươi học cách sử dụng máy tính bảng Ipad để nhận biết các bộ phận trên cơ thể và thức ăn. Đười ươi thông minh, chúng thật sự muốn giao tiếp với con người nhưng tiếc là không phát triển được dây thanh và thanh quản.[24] Có những con đười ươi tinh nghịch đã dường như tìm cách tự tử ngay trước mắt con người.[25] Những quan sát cho thấy, đười ươi thật sự có tính cách tương tự như con người,[26] giống như con người, hiện tượng khủng hoảng tâm lý cũng xuất hiện ở đười ươi khi chúng bước vào giai đoạn giữa của cuộc đời.[27]

Người ta từng chứng kiến hai con đười ươi cái ăn thịt con của chúng tại Indonesia mà chưa từng chứng kiến hành vi này ở bất kỳ động vật linh trưởng nào và trước đây người ta chưa bao giờ chứng kiến cảnh đười ươi ăn thịt con. Đa số đười ươi bán hoang dã từng chứng kiến cảnh tượng đau lòng, như cái chết của mẹ chúng. Những kẻ săn trộm thường bắt đười ươi khi chúng mới được vài tháng tuổi. Đười ươi mẹ không bao giờ chịu rời con nên thường bị giết chết. Vì thế mà khi sống trong môi trường nuôi nhốt đười ươi con rơi vào cảnh cô lập.[28] Ngoài ra, có một con đười ươi tại Malaysia thường xuyên rơi vào trạng thái uể oái, cáu giận nếu không được hút thuốc lá; hút thuốc không phải là hành vi bình thường đối với đười ươi.[29]

Phân loài

Có ba loài còn sinh tồn, và chúng đều đang ở tình trạng nguy cấp: Đười ươi Borneo (Pongo pygmaeus), Pongo tapanuliensisĐười ươi Sumatra (Pongo abelii). Đười ươi Borneo là loài bản địa của đảo Borneo. Cùng với đười ươi Sumatra có kích thước nhỏ hơn một chút, nó thuộc về chi duy nhất của vượn dạng người loại lớn có nguồn gốc ở châu Á. Đười ươi Borneo có vòng đời của khoảng 35 đến 40 năm trong tự nhiên, những con đực nặng trên 75 kg trung bình (165 lb), từ 50–100 kg (110-200 lb), và 1,2-1,4 m (4-4,7 ft); con cái trung bình 38,5 kg (82 lb), dao động 30–50 kg (66-110 lb), và 1-1,2 m (3,3–4 ft).[30][31]

Đười ươi Borneo sống trong rừng lá rộng ẩm nhiệt đới và cận nhiệt đới ở vùng đất thấp Borneo, cũng như khu vực miền núi lên đến 1.500 mét (4.900 ft) trên mực nước biển.[32] Loài này sống trên khắp tán rừng nguyên sinh và thứ sinh, và di chuyển khoảng cách lớn để tìm trái cây.[32]

Nó có thể được tìm thấy trong hai tiểu bang của Malaysia SabahSarawak, và ba trong bốn tỉnh của Indonesia ở đảo Kalimantan. Do sự phá hủy môi trường sống, sự phân bố loài này bây giờ là rất loang lổ khắp hòn đảo, các loài trở nên hiếm hoi tại phía đông nam đảo, cũng như trong các khu rừng giữa sông Rejang ở trung tâm Sarawak và sông Padas ở phía Tây Sabah.

Đười ươi Sumatra chỉ sinh sống ở đảo Sumatra. Chúng có kích thước 1,4 mét (4,6 ft) và trọng lượng 90 kilôgam (200 lb) trung bình ở con đực. Con cái nhỏ hơn với kích thước trung bình 90 xentimét (3,0 ft) và nặng 45 kilôgam (99 lb). So với đười ươi Borneo loài này ốm hơn và có khuôn mặt dài hơn; lông của chúng có màu đỏ nhạt. Đây là loài có nguy cơ tuyệt chủng cao.[33] 100 năm trước trên đảo Borneo có khoảng 300.000 cá thể đười ươi. Nhưng giờ đây con số này chỉ còn xấp xỉ 30 đến 40.000 con và người ta lo ngại đười ươi trong môi trường tự nhiên sẽ tuyệt chủng nếu tốc độ chặt rừng chồng cọ không được kiểm soát.[21]

Truyền thuyết

Có truyền thuyết về một dã nhân sống ở Sumatra mà dân địa phương gọi đười ươi Pendek (Orang Pendek) phần nào giống như một người Tuyết (Yeti), có điều nó không to lớn lắm. Sống rất sâu trong những khu rừng nguyên thuỷ của đảo Sumatra nó vừa giống khỉ vừa giống người (thân hình nhỏ bé, sức mạnh phi thường), nó nhút nhát, tránh tiếp xúc với người. Những người thực dân Hà Lan cai trị ở đây hồi đầu thế kỷ mô tả đó là sinh vật lông ngắn, không giống đười ươi hay vượn nhưng khá giống người và có khả năng đi thẳng đứng.

Tham khảo

  • Douglas Harper. ""Orangutan" entry in Etymology Online". Truy cập 2012-05-04.
  • Dellios, Paulette. 2008 A lexical odyssey from the Malay World. Journal of Pidgin and Creole Languages 23:1
  • Mahdi, Waruno. 2007. Malay words and Malay things: lexical souvenirs from an exotic archipelago in German publications before 1700. Otto Harrassowitz Verlag, pp 170 – 181
  • Peter Tan (1998). Malay loan words across different dialects of English. English Today, 14, pp 44–50
  • Cannon, Garland. 1992. Malay(sian) Borrowings in English, American Speech Vol. 67, No. 2, pp. 134–162
  • Groves, Colin (2002). "A history of gorilla taxonomy". Gorilla Biology: A Multidisciplinary Perspective, Andrea B. Taylor & Michele L. Goldsmith (editors) (Cambridge University Press) 3: 15–34. doi:10.2277/0521792819.
  • Payne, J; Prundente, C (2008). Orangutans: Behavior, Ecology and Conservation. New Holland Publishers. ISBN 0-262-16253-9.

Chú thích

  1. ^ “Orangutan”. Lexico. Oxford University Press. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2014.
  2. ^ a b c Sastrawan, Wayan Jarrah (2020). “The Word 'Orangutan': Old Malay Origin or European Concoction”. Bijdragen tot de Land-, Taal- en Volkenkunde. 176 (4): 532–41. doi:10.1163/22134379-bja10016. S2CID 228828226. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2021.
  3. ^ Harper, Douglas. “Orangutan”. Online Etymology Dictionary. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2012.
  4. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên mahdi
  5. ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên cribb
  6. ^ Lesson, René-Primevère (1827). Manuel de mammalogie ou Histoire naturelle des mammifères (bằng tiếng Pháp). Roret, Libraire. tr. 32.
  7. ^ Xu, X.; Arnason, U. (1996). “The mitochondrial DNA molecule of sumatran orangutan and a molecular proposal for two (Bornean and Sumatran) species of orangutan”. Journal of Molecular Evolution. 43 (5): 431–37. Bibcode:1996JMolE..43..431X. doi:10.1007/BF02337514. PMID 8875856. S2CID 3355899.
  8. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Payne
  9. ^ a b c Nater, A.; Mattle-Greminger, M. P.; Nurcahyo, A.; Nowak, M. G.; và đồng nghiệp (2 tháng 11 năm 2017). “Morphometric, Behavioral, and Genomic Evidence for a New Orangutan Species”. Current Biology. 27 (22): 3487–3498.e10. doi:10.1016/j.cub.2017.09.047. PMID 29103940.
  10. ^ Bradon-Jones, D.; Eudey, A. A.; Geissmann, T.; Groves, C. P.; Melnick, D. J.; Morales, J. C.; Shekelle, M.; Stewart, C. B. (2004). “Asian primate classification” (PDF). International Journal of Primatology. 25: 97–164. doi:10.1023/B:IJOP.0000014647.18720.32. S2CID 29045930. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 6 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2011.
  11. ^ Locke, D. P.; Hillier, L. W.; Warren, W. C.; Worley, K. C.; Nazareth, L. V.; Muzny, D. M.; Yang, S. P.; Wang, Z.; Chinwalla, A. T.; Minx, P.; Mitreva, M.; Cook, L.; Delehaunty, K. D.; Fronick, C.; Schmidt, H.; Fulton, L. A.; Fulton, R. S.; Nelson, J. O.; Magrini, V.; Pohl, C.; Graves, T. A.; Markovic, C.; Cree, A.; Dinh, H. H.; Hume, J.; Kovar, C. L.; Fowler, G. R.; Lunter, G.; Meader, S.; và đồng nghiệp (2011). “Comparative and demographic analysis of orang-utan genomes”. Nature. 469 (7331): 529–33. Bibcode:2011Natur.469..529L. doi:10.1038/nature09687. PMC 3060778. PMID 21270892.
  12. ^ a b Singh, Ranjeet (26 tháng 1 năm 2011). “Orang-utans join the genome gang”. Nature. doi:10.1038/news.2011.50. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2011.
  13. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên RijksenMeijaard1999
  14. ^ a b Israfil, H.; Zehr, S. M.; Mootnick, A. R.; Ruvolo, M.; Steiper, M. E. (2011). “Unresolved molecular phylogenies of gibbons and siamangs (Family: Hylobatidae) based on mitochondrial, Y-linked, and X-linked loci indicate a rapid Miocene radiation or sudden vicariance event” (PDF). Molecular Phylogenetics and Evolution. 58 (3): 447–55. doi:10.1016/j.ympev.2010.11.005. PMC 3046308. PMID 21074627. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 10 tháng 5 năm 2012.
  15. ^ Goldman, Jason G. (2 tháng 11 năm 2017). “New Species of Orangutan Is Rarest Great Ape on Earth”. National Geographic Society. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2017.
  16. ^ Groves, Colin (16 tháng 11 năm 2005). Wilson D. E. và Reeder D. M. (chủ biên) (biên tập). Mammal Species of the World . Nhà xuất bản Đại học Johns Hopkins. tr. 183–84. ISBN 0-801-88221-4.
  17. ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Dã nhân trong rừng rậm
  18. ^ a b c “Đười ươi hoãn 'dậy thì' để làm thủ lĩnh”. Truy cập 7 tháng 2 năm 2015.
  19. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Đảo Borneo – Malaysia
  20. ^ “Đười ươi làm tổ”. Truy cập 7 tháng 2 năm 2015.
  21. ^ a b “Hình ảnh hiếm về đười ươi tắm sông”. Truy cập 7 tháng 2 năm 2015.
  22. ^ “Hình ảnh động vật ngộ nghĩnh nhất năm 2010”. Truy cập 7 tháng 2 năm 2015.
  23. ^ “Phát hiện gây sốc về trí nhớ của khỉ”. Truy cập 7 tháng 2 năm 2015.
  24. ^ “(THVL) Mỹ: Đười ươi học giao tiếp bằng máy tính bảng IPad”. Truy cập 7 tháng 2 năm 2015.
  25. ^ “Đười ươi vờ tự tử trêu du khách - VietNamNet”. VietNamNet. Truy cập 7 tháng 2 năm 2015.
  26. ^ “(THVL) Hắc tinh tinh có tính cách giống con người”. Truy cập 7 tháng 2 năm 2015.
  27. ^ “Họ hàng của người cũng trải qua khủng hoảng trung niên - VnExpress”. VnExpress - Tin nhanh Việt Nam. Truy cập 7 tháng 2 năm 2015.
  28. ^ “Đười ươi ăn thịt con”. Truy cập 7 tháng 2 năm 2015.
  29. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Đười ươi nghiện thuốc lá
  30. ^ Wood, The Guinness Book of Animal Facts and Feats. Sterling Pub Co Inc (1983), ISBN 978-0-85112-235-9
  31. ^ “ADW: Pongo pygmaeus: Information”. Animaldiversity.ummz.umich.edu. ngày 28 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2009.
  32. ^ a b “Orangutans”. WWF. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2012.
  33. ^ Primate Info Net: Orangutan Pongo

Liên kết ngoài