Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Định An Quốc”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Task 3: Sửa lỗi chung (GeneralFixes1) (#TASK3QUEUE)
Dòng 32: Dòng 32:
Thời gian này vụ phun trào của [[núi Trường Bạch]] tiếp tục giáng những đòn mạnh vào lực lượng còn sống sót của người Bột Hải tại Định An Quốc (đời vua [[Liệt Vạn Hoa]]) dựa trên các ghi chép về sự di cư ồ ạt của người Bột Hải đến [[bán đảo Liêu Đông]] của [[nhà Liêu|Đại Khiết Đan quốc]] (đời vua [[Liêu Thái Tông|Gia Luật Đức Quang]]) và đến [[bán đảo Triều Tiên]] của [[Cao Ly]] (đời vua [[Cao Ly Thái Tổ]]).<ref>{{chú thích web |script-title=ko:발해멸망과 백두산 화산폭발 |trans-title=The Fall of Bohai and the Mt. |url=http://m.khan.co.kr/view.html?art_id=201205300951451 |website=Khan.co|date=30 May 2012 |language=ko}}</ref><ref>{{chú thích news |title=Eruption of Mt. Baekdu and collapse of Balhae |url=http://www.donga.com/en/article/all/20150403/410414/1/Eruption-of-Mt-Baekdu-and-collapse-of-Balhae |access-date=27 March 2020 |agency=[[Dong-a Ilbo]] |date=3 April 2015}}</ref>
Thời gian này vụ phun trào của [[núi Trường Bạch]] tiếp tục giáng những đòn mạnh vào lực lượng còn sống sót của người Bột Hải tại Định An Quốc (đời vua [[Liệt Vạn Hoa]]) dựa trên các ghi chép về sự di cư ồ ạt của người Bột Hải đến [[bán đảo Liêu Đông]] của [[nhà Liêu|Đại Khiết Đan quốc]] (đời vua [[Liêu Thái Tông|Gia Luật Đức Quang]]) và đến [[bán đảo Triều Tiên]] của [[Cao Ly]] (đời vua [[Cao Ly Thái Tổ]]).<ref>{{chú thích web |script-title=ko:발해멸망과 백두산 화산폭발 |trans-title=The Fall of Bohai and the Mt. |url=http://m.khan.co.kr/view.html?art_id=201205300951451 |website=Khan.co|date=30 May 2012 |language=ko}}</ref><ref>{{chú thích news |title=Eruption of Mt. Baekdu and collapse of Balhae |url=http://www.donga.com/en/article/all/20150403/410414/1/Eruption-of-Mt-Baekdu-and-collapse-of-Balhae |access-date=27 March 2020 |agency=[[Dong-a Ilbo]] |date=3 April 2015}}</ref>


Theo [[Nihon Kiryaku]] (Biên niên sử Nhật Bản), ngày [[19 tháng 2]] năm [[944]], vào khoảng nửa đêm, có tiếng rung chuyển mạnh ở phía đông của [[Nhật Bản]] (đời [[Thiên hoàng Suzaku]]), có lẽ chính là [[núi Trường Bạch]] đang phun trào dữ dội trong lãnh thổ của Định An Quốc (đời vua [[Liệt Vạn Hoa]]).<ref name=":3">{{Cite journal |last=Hayakawa|first=Yukio|last2=Koyama|first2=Masato|volume=43|issue=5|pages=403-407|year=1998|title=日本海をはさんで10世紀に相次いで起こった二つの大噴火の年月日 --十和田湖と白頭山--|trans-title=Dates of Two Major Eruptions from Towada and Baitoushan in the 10th Century |url=http://www.hayakawayukio.jp/paper/946/|journal=火山|trans-journal=Bulletin of the Volcanological Society of Japan|doi=10.18940/kazan.43.5_403|issn= 2189-7182}}</ref>
Sang năm [[947]], [[núi Trường Bạch]] mới chính thức kết thúc việc phun trào núi lửa lớn nhất thế kỷ X (sau 22 năm phun trào liên tục từ năm [[925]]),<ref name=":12">{{chú thích tạp chí |last1=Horn |first1=Susanne |last2=Schmincke |first2=Hans-Ulrich |date=2000-02-01 |title=Volatile emission during the eruption of Baitoushan Volcano (China/North Korea) ca. 969 AD |url=https://doi.org/10.1007/s004450050004 |journal=Bulletin of Volcanology |language=en |volume=61 |issue=8 |pages=537–555 |doi=10.1007/s004450050004 |s2cid=129624918 |issn=1432-0819}}</ref><ref>{{chú thích tạp chí |last=Nakamura |first=Toshio |date=2007 |title=High-precision Radiocarbon Dating with Accelerator Mass Spectrometry and Calibration of Radiocarbon Ages |url=http://www.jstage.jst.go.jp/article/jaqua/46/3/46_3_195/_article |journal=The Quaternary Research (Daiyonki-Kenkyu) |volume=46 |issue=3 |pages=195–204 |doi=10.4116/jaqua.46.195 |issn=1881-8129|doi-access=free }}</ref><ref>{{chú thích tạp chí |last1=Yatsuzuka |first1=Shinya |last2=Okuno |first2=Mitsuru |last3=Nakamura |first3=Toshio |last4=Kimura |first4=Katsuhiko |last5=Setoma |first5=Yohei |last6=Miyamoto |first6=Tsuyoshi |last7=Kim |first7=Kyu Han |last8=Moriwaki |first8=Hiroshi |last9=Nagase |first9=Toshiro |last10=Jin |first10=Xu |last11=Jin |first11=Bo Lu |last12=Takahashi |first12=Toshihiko |last13=Taniguchi |first13=Hiromitsu |date=2010 |title=14 C Wiggle-Matching of the B-Tm Tephra, Baitoushan Volcano, China/North Korea |url=https://www.cambridge.org/core/product/identifier/S0033822200046038/type/journal_article |journal=Radiocarbon |language=en |volume=52 |issue=3 |pages=933–940 |doi=10.1017/S0033822200046038 |s2cid=62840908 |issn=0033-8222}}</ref><ref>{{chú thích tạp chí |last1=澤田恵美 |last2=木村勝彦 |last3=八塚槙也 |last4=中村俊夫 |last5=宮本毅 |last6=中川光弘 |last7=長瀬敏郎 |last8=菅野均志 |last9=Xu |first9=J. I. N. |last10=奥野充 |date=2018 |title=白頭山北麓,10世紀噴火のラハール堆積物の埋没樹木の14Cウイグルマッチング年代 |trans-title=<sup>14</sup>C Wiggle-matching Age of a Wood Trunk in the Lahar Deposits Caused by the 10th Century Eruption at the Northern Foot of Baitoushan Volcano, China/North Korea|url=https://jglobal.jst.go.jp/detail?JGLOBAL_ID=201802217843314458 |journal=福岡大学理学集報 |language=ja |volume=48 |issue=2 |pages=43–48 |issn=0386-118X}}</ref> vua [[Liệt Vạn Hoa]] bắt tay vào việc ổn định lại đời sống dân cư của Định An Quốc xung quanh [[núi Trường Bạch]] đó.

Vụ phun trào thiên niên kỷ của [[núi Trường Bạch]] trong lãnh thổ Định An Quốc (đời vua [[Liệt Vạn Hoa]]) được cho là đã thải ra một khối lượng lớn chất dễ bay hơi vào tầng bình lưu, có khả năng dẫn đến tác động lớn đến khí hậu trên toàn thế giới, mặc dù các nghiên cứu gần đây hơn chỉ ra rằng vụ phun trào thiên niên kỷ của núi lửa Bạch Đầu (Baekdu) trong dãy núi [[Trường Bạch]] có thể chỉ giới hạn ở các tác động khí hậu khu vực.<ref name=":1">{{Cite journal |last=Horn |first=S |date=2000 |title=Volatile emission during the eruption of Baitoushan Volcano (China/North Korea) ca. 969 AD |journal=Bull Volcanol |volume=61 |issue=8 |pages=537–555 |doi=10.1007/s004450050004 |s2cid=129624918}}</ref><ref name=":8">{{Cite journal |last1=Sun |first1=Chunqing |last2=Plunkett |first2=Gill |last3=Liu |first3=Jiaqi |last4=Zhao |first4=Hongli |last5=Sigl |first5=Michael |last6=McConnell |first6=Joseph R. |last7=Pilcher |first7=Jonathan R. |last8=Vinther |first8=Bo |last9=Steffensen |first9=J. P. |last10=Hall |first10=Valerie |date=2014-01-28 |title=Ash from Changbaishan Millennium eruption recorded in Greenland ice: Implications for determining the eruption's timing and impact: SUN ET. AL. MILLENNIUM ERUPTION ASH IN GREENLAND |journal=Geophysical Research Letters |language=en |volume=41 |issue=2 |pages=694–701 |doi=10.1002/2013GL058642|s2cid=53985654 |doi-access=free }}</ref><ref name=":9">{{Cite journal |last1=Sigl |first1=M. |last2=Winstrup |first2=M. |last3=McConnell |first3=J. R. |last4=Welten |first4=K. C. |last5=Plunkett |first5=G. |last6=Ludlow |first6=F. |last7=Büntgen |first7=U. |last8=Caffee |first8=M. |last9=Chellman |first9=N. |last10=Dahl-Jensen |first10=D. |last11=Fischer |first11=H. |last12=Kipfstuhl |first12=S. |last13=Kostick |first13=C. |last14=Maselli |first14=O. J. |last15=Mekhaldi |first15=F. |date=2015-07-08 |title=Timing and climate forcing of volcanic eruptions for the past 2,500 years |url=https://www.nature.com/articles/nature14565 |journal=Nature |language=en |volume=523 |issue=7562 |pages=543–549 |doi=10.1038/nature14565 |pmid=26153860 |bibcode=2015Natur.523..543S |s2cid=4462058 |issn=1476-4687}}</ref> Tuy nhiên, có một số hiện tượng bất thường về khí tượng những năm [[945]] đến năm [[948]] có thể liên quan đến Vụ phun trào thiên niên kỷ này.<ref>{{Cite journal|title = The possible climatic impact in China of Iceland's Eldgja eruption inferred from historical sources|last = Fei|first = J|date = 2006|journal = Climatic Change|doi = 10.1007/s10584-005-9012-3|volume=76|issue = 3–4|pages=443–457|bibcode = 2006ClCh...76..443F|s2cid = 129296868}}</ref> Sự kiện được cho là đã gây ra [[mùa đông núi lửa]]. Theo [[Cựu Ngũ Đại sử]], ngày [[4 tháng 4]] năm [[945]] có tuyết rơi dày đặc ở [[nhà Liêu|Đại Khiết Đan quốc]] (đời vua [[Liêu Thái Tông|Gia Luật Đức Quang]]) và [[Hậu Tấn]] (đời vua [[Hậu Tấn Xuất Đế]]).

Theo [[Cao Ly sử]], vào năm đầu tiên trị vì của vua [[Cao Ly Định Tông]] của [[Cao Ly]] (năm [[946]]), trống trời vang lên ở phía bắc khiến hoàng cung [[Kaesong|Khai Thành]] của [[Cao Ly]] bị náo động lớn.<ref name=":3"/> Đó có lẽ là do vụ phun trào núi lửa thiên niên kỷ của [[núi Trường Bạch]] trong lãnh thổ Định An Quốc (đời vua [[Liệt Vạn Hoa]]). Khai Thành cách núi lửa Bạch Đầu (Baekdu) trong dãy [[núi Trường Bạch]] khoảng 470 km, khoảng cách mà người ta có thể nghe thấy vụ phun trào thiên niên kỷ.<ref name=":10">{{Cite journal |last1=Oppenheimer |first1=Clive |last2=Wacker |first2=Lukas |last3=Xu |first3=Jiandong |last4=Galván |first4=Juan Diego |last5=Stoffel |first5=Markus |last6=Guillet |first6=Sébastien |last7=Corona |first7=Christophe |last8=Sigl |first8=Michael |last9=Di Cosmo |first9=Nicola |last10=Hajdas |first10=Irka |last11=Pan |first11=Bo |last12=Breuker |first12=Remco |last13=Schneider |first13=Lea |last14=Esper |first14=Jan |last15=Fei |first15=Jie |date=2017-02-15 |title=Multi-proxy dating the 'Millennium Eruption' of Changbaishan to late 946 CE |journal=Quaternary Science Reviews |language=en |volume=158 |pages=164–171 |doi=10.1016/j.quascirev.2016.12.024 |bibcode=2017QSRv..158..164O |s2cid=56233614 |issn=0277-3791|doi-access=free }}</ref><ref name=":3"/> Năm đó trời ầm ầm kêu gào, Định Tông hạ lệnh đại xá toàn quốc [[Cao Ly]].<ref name=":3"/>

Theo [[Lịch sử chùa Heungboksa]] (Biên niên sử Kōfukuji) đã ghi lại một quan sát đặc biệt thú vị ở Nara, [[Nhật Bản]] (đời [[Thiên hoàng Murakami]]):<ref name=":3"/>

:''Vào ngày [[3 tháng 11]] năm [[946]], buổi tối, tro trắng từ bầu trời phía đông nhẹ nhàng rơi xuống [[Nhật Bản]] như tuyết.''

"''Tro trắng''" đó có thể là sự rơi tro trắng từ vụ phun trào núi lửa Bạch Đầu (Baekdu) trong dãy [[núi Trường Bạch]] tại lãnh thổ Định An Quốc (đời vua [[Liệt Vạn Hoa]]).<ref name=":10"/><ref name=":3"/>

Theo [[Cựu Ngũ Đại sử]], do tác động của vu phun trào núi lửa ở dãy [[núi Trường Bạch]] thuộc Định An Quốc (đời vua [[Liệt Vạn Hoa]]), ngày [[28 tháng 11]] năm [[946]] có hiện tượng băng men (xảy ra khi mưa đóng băng hoặc mưa phùn chạm vào bề mặt) ở [[nhà Liêu|Đại Khiết Đan quốc]] (đời vua [[Liêu Thái Tông|Gia Luật Đức Quang]]) và [[Hậu Tấn]] (đời vua [[Hậu Tấn Xuất Đế]]). Tiếp đó, vào ngày [[7 tháng 12]] năm [[946]] có hiện tượng sương mù quy mô lớn bao phủ tất cả các loài thực vật ở [[nhà Liêu|Đại Khiết Đan quốc]] (đời vua [[Liêu Thái Tông|Gia Luật Đức Quang]]) và [[Hậu Tấn]] (đời vua [[Hậu Tấn Xuất Đế]]). Vào ngày [[31 tháng 1]] năm [[947]] có hiện tượng tuyết rơi hơn mười ngày, gây ra tình trạng thiếu lương thực và nạn đói ở [[nhà Liêu|Đại Khiết Đan quốc]] (đời vua [[Liêu Thái Tông|Gia Luật Đức Quang]]) và vùng Trung Nguyên (khi đó đang bị vua [[Liêu Thái Tông|Gia Luật Đức Quang]] chiếm đóng).

Sau đó [[Dai Nihon Kokiroku]] (Nhật ký cũ của Nhật Bản) và [[Nihon Kiryaku]] (Biên niên sử Nhật Bản) đều ghi lại một vụ náo động lớn trong cùng một ngày ở phía đông [[Nhật Bản]] (đời [[Thiên hoàng Murakami]]):<ref name=":3"/>

:''Vào ngày [[7 tháng 2]] năm [[947]], có một âm thanh trên bầu trời phía đông giống như sấm sét.''

Điều đó chứng tỏ rằng vụ phun trào núi lửa Bạch Đầu (Baekdu) trong dãy [[núi Trường Bạch]] tại lãnh thổ Định An Quốc (đời vua [[Liệt Vạn Hoa]]) là cực kỳ dữ dội.<ref name=":3"/> Theo [[Tài liệu khí tượng lịch sử Nhật Bản]], do tác động của vu phun trào núi lửa ở dãy [[núi Trường Bạch]] thuộc Định An Quốc (đời vua [[Liệt Vạn Hoa]]), từ ngày [[24 tháng 2]] năm [[947]] đến ngày [[23 tháng 4]] năm [[947]] có hiện tượng mùa xuân ấm áp tại [[Nhật Bản]] (đời [[Thiên hoàng Murakami]]), trong khi mùa xuân tại Nhật Bản bình thường là phải lạnh. Sau đó, ngày [[14 tháng 5]] năm [[947]] lại có hiện tượng sương giá và lạnh như mùa đông khắc nghiệt ở [[Nhật Bản]] (đời [[Thiên hoàng Murakami]]).<ref>Theo [[Tài liệu khí tượng lịch sử Nhật Bản]].</ref>

Sang tháng 12 năm [[947]], [[núi Trường Bạch]] mới chính thức kết thúc việc phun trào núi lửa lớn nhất thế kỷ X (sau 22 năm phun trào liên tục từ năm [[925]]),<ref name=":12">{{chú thích tạp chí |last1=Horn |first1=Susanne |last2=Schmincke |first2=Hans-Ulrich |date=2000-02-01 |title=Volatile emission during the eruption of Baitoushan Volcano (China/North Korea) ca. 969 AD |url=https://doi.org/10.1007/s004450050004 |journal=Bulletin of Volcanology |language=en |volume=61 |issue=8 |pages=537–555 |doi=10.1007/s004450050004 |s2cid=129624918 |issn=1432-0819}}</ref><ref>{{chú thích tạp chí |last=Nakamura |first=Toshio |date=2007 |title=High-precision Radiocarbon Dating with Accelerator Mass Spectrometry and Calibration of Radiocarbon Ages |url=http://www.jstage.jst.go.jp/article/jaqua/46/3/46_3_195/_article |journal=The Quaternary Research (Daiyonki-Kenkyu) |volume=46 |issue=3 |pages=195–204 |doi=10.4116/jaqua.46.195 |issn=1881-8129|doi-access=free }}</ref><ref>{{chú thích tạp chí |last1=Yatsuzuka |first1=Shinya |last2=Okuno |first2=Mitsuru |last3=Nakamura |first3=Toshio |last4=Kimura |first4=Katsuhiko |last5=Setoma |first5=Yohei |last6=Miyamoto |first6=Tsuyoshi |last7=Kim |first7=Kyu Han |last8=Moriwaki |first8=Hiroshi |last9=Nagase |first9=Toshiro |last10=Jin |first10=Xu |last11=Jin |first11=Bo Lu |last12=Takahashi |first12=Toshihiko |last13=Taniguchi |first13=Hiromitsu |date=2010 |title=14 C Wiggle-Matching of the B-Tm Tephra, Baitoushan Volcano, China/North Korea |url=https://www.cambridge.org/core/product/identifier/S0033822200046038/type/journal_article |journal=Radiocarbon |language=en |volume=52 |issue=3 |pages=933–940 |doi=10.1017/S0033822200046038 |s2cid=62840908 |issn=0033-8222}}</ref><ref>{{chú thích tạp chí |last1=澤田恵美 |last2=木村勝彦 |last3=八塚槙也 |last4=中村俊夫 |last5=宮本毅 |last6=中川光弘 |last7=長瀬敏郎 |last8=菅野均志 |last9=Xu |first9=J. I. N. |last10=奥野充 |date=2018 |title=白頭山北麓,10世紀噴火のラハール堆積物の埋没樹木の14Cウイグルマッチング年代 |trans-title=<sup>14</sup>C Wiggle-matching Age of a Wood Trunk in the Lahar Deposits Caused by the 10th Century Eruption at the Northern Foot of Baitoushan Volcano, China/North Korea|url=https://jglobal.jst.go.jp/detail?JGLOBAL_ID=201802217843314458 |journal=福岡大学理学集報 |language=ja |volume=48 |issue=2 |pages=43–48 |issn=0386-118X}}</ref> vua [[Liệt Vạn Hoa]] bắt tay vào việc ổn định lại đời sống dân cư của Định An Quốc xung quanh [[núi Trường Bạch]] đó.

Theo [[Cựu Ngũ Đại sử]], do tác động của vu phun trào núi lửa ở dãy [[núi Trường Bạch]] thuộc Định An Quốc (đời vua [[Liệt Vạn Hoa]]), ngày [[16 tháng 12]] năm [[947]], ngày [[25 tháng 12]] năm [[947]] và ngày [[6 tháng 1]] năm [[948]] có hiện tượng băng men (xảy ra khi mưa đóng băng hoặc mưa phùn chạm vào bề mặt) ở [[nhà Liêu]] (đời vua [[Liêu Thế Tông]]) và [[Hậu Hán]] (đời vua [[Lưu Tri Viễn|Hậu Hán Cao Tổ]]). Ngày [[24 tháng 10]] năm [[948]] có hiện tượng tuyết rơi dày đặc ở Khai Phong của [[Hậu Hán]] (đời vua [[Lưu Thừa Hựu|Hậu Hán Ẩn Đế]]), trong khi tuyết chỉ rơi nhẹ ở Khai Phong tầm tháng 11 hoặc tháng 12 trong nhiều năm trước đó.<ref>Theo [[Cựu Ngũ Đại sử]].</ref>


Định An Quốc của vua [[Liệt Vạn Hoa]] được ghi chép là đã tranh thủ sự giúp đỡ của các bộ lạc lân cận với hi vọng lật đổ [[nhà Liêu]] (đời vua [[Liêu Mục Tông]]), song đã thất bại.
Định An Quốc của vua [[Liệt Vạn Hoa]] được ghi chép là đã tranh thủ sự giúp đỡ của các bộ lạc lân cận với hi vọng lật đổ [[nhà Liêu]] (đời vua [[Liêu Mục Tông]]), song đã thất bại.

Phiên bản lúc 13:43, ngày 31 tháng 12 năm 2023

Định An Quốc
Hangul
정안국
Hanja
定安國
Romaja quốc ngữJeong-an Guk
McCune–ReischauerCho'ng-an Kuk
Hán-ViệtĐịnh An Quốc
Định An Quốc

Định An Quốc (935 - 986) là một nhà nước kế thừa của vương quốc Bột Hải, được Liệt Vạn Hoa (Yeol Manhwa) thành lập tại khu vực Bàn Thạch, Liêu Ninh ngày nay. Định An Quốc trở thành quốc vùng đệm giữa Cao Lynhà Liêu cho đến cuối thế kỷ thứ 10. Theo Tống thư, Định An Quốc có nguồn gốc từ Mã Hàn. Khi tổ tiên của họ bị đánh tan vỡ bởi cuộc xâm lược của người Khiết Đan, họ đã giữ được vùng đất phía tây.[1]

Thành lập

Khi nhà Liêu của người Khiết Đan chinh phục Bột Hải (đời vua Đại Nhân Soạn) vào đầu năm 926, một vài triều thần của vương quốc dưới sự lãnh đạo của gia tộc Đại, đã thành lập nên Hậu Bột Hải vào tháng 12 năm 927.

Sau khi chiến bại trước quân đội Đông Đan (đời vua Gia Luật Nguyễn) vào năm 935, vua của vương quốc Hậu Bột Hải họ Đại (không rõ tên) đã bị cựu tri phủ của Nam Hải phủ là Liệt Vạn Hoa (열만화, 烈萬華, Yeol Manhwa) tiến hành đảo chính, bị lật đổ ngôi vua và bị giết chết ở Tây Kinh (nay là Lâm Giang, Cát Lâm, Trung Quốc). Liệt Vạn Hoa đã tự lập làm vua, định đô tại Tây Kinh, đổi tên vương quốc sang Định An, lập ra Định An Quốc trong năm 935.

Giao tranh với Đại Quang Hiển

Một số quý tộc họ Đại người Bột Hải vẫn trấn giữ thành Hốt Hãn (nay là Ninh An, Hắc Long Giang, Trung Quốc) và cai trị Long Tuyền phủ. Họ tuyên bố không phục tùng vua Liệt Vạn Hoa mà tuyên bố độc lập khỏi Định An Quốc, với quốc hiệu vẫn giữ nguyên là Hậu Bột Hải. Như vậy Định An Quốc chỉ cai trị 4 phủ là Long Nguyên phủ, Hiển Đức phủ, Trường Lĩnh phủ và Đồng Châu phủ.

Cảm thấy không cần thiết để vương quốc Đông Đan tồn tại bên cạnh mình, hoàng đế Gia Luật Đức Quang của Đại Khiết Đan quốc quyết định sáp nhập toàn bộ lãnh thổ vương quốc Đông Đan với 12 phủ (Hoàng Long phủ, Mạc Hiệt phủ, Định Lý phủ, An Biên phủ, Súy Tân phủ, Đông Bình phủ, Thiết Lợi phủ, Hoài Viễn phủ, An Viễn phủ, Liêu Đông phủ, Túc Châu phủ và Doanh Châu phủ) vào lãnh thổ Đại Khiết Đan quốc trong năm 936. Vua Gia Luật Nguyễn và nhiếp chính Đoan Thuận hoàng hậu Tiêu thị của vương quốc Đông Đan trở thành những tông thất của Đại Khiết Đan quốc. Vương quốc Đông Đan từ đây biến mất mãi mãi.

Vua Liệt Vạn Hoa sau đó đã phái binh tấn công Áp Lục phủ của thái tử Đại Quang Hiển. Hai bên giao chiến nhiều trận nhưng quân đội của Đại Quang Hiển thua trận, bị mất nhiều vùng đất thuộc Áp Lục phủ vào tay quân Định An Quốc do Liệt Vạn Hoa chỉ huy.

Quân đội của Đại Quang Hiển sau đó lần lượt bị Cao Ly (đời vua Cao Ly Thái Tổ) và Đại Khiến Đan quốc (đời vua Gia Luật Đức Quang) tấn công, bị đánh bại nhiều trận lớn. Sau khi nhận thấy thực lực của mình không thể chống lại người Khiết Đan và còn phải chịu ảnh hưởng từ việc phun trào núi lửa của núi Trường Bạch, thái tử Đại Quang Hiển dẫn nhiều người dân, quý tộc Bột Hải của mình đào thoát đến Cao Ly với hi vọng tập hợp sức mạnh để trả thù cho thất bại nhục nhã và sự sụp đổ của vương quốc Bột Hải. Đại Quang Hiển (khi đó hơn 40 tuổi) cùng với những người Bột Hải đến Cao Ly ở phía nam vào tháng 1 năm 937,[2] tức năm thứ 17 đời vua Cao Ly Thái Tổ trị vì. Vua Cao Ly Thái Tổ đón tiếp nhóm người của Đại Quang Hiển rất nồng hậu và được Cao Ly Thái Tổ đưa vào gia đình cầm quyền của Cao Ly, mang lại sự thống nhất của hai quốc gia kế thừa cho Cao Câu Ly.[3]

Vua Liệt Vạn Hoa nhanh chóng phái quân Định An Quốc của mình đến trấn giữ những thành trì bỏ trống của quân đội Đại Quang Hiển tại Áp Lục phủ và Nam Hải phủ. Đến lúc này, Định An Quốc đã cai trị 6 phủ là Long Nguyên phủ, Hiển Đức phủ, Trường Lĩnh phủ, Áp Lục phủ, Nam Hải phủ và Đồng Châu phủ.

Giao tranh với Đại Khiết Đan quốc (về sau là nhà Liêu)

Năm 938, hoàng đế Gia Luật Đức Quang thấy Định An Quốc (đời vua Liệt Vạn Hoa) ở Mãn Châu đang khá mạnh nên nhân lúc núi Trường Bạch vừa phun trào ở Định An Quốc thì phái quân Khiết Đan tấn công Định An Quốc theo nhiều hướng.[4] Quân Khiết Đan thế như chẻ tre, liên tục đánh chiếm Đồng Châu phủ, Long Nguyên phủ và Nam Hải phủ của Định An Quốc. Định An Quốc chỉ còn lại 3 phủ là Hiển Đức phủ, Trường Lĩnh phủ và Áp Lục phủ. Quân Khiết Đan tiếp tục đánh chiếm vài thành trì phía tây của Trường Lĩnh phủ và Áp Lục phủ, sau đó đánh chiếm tiếp vài thành trì phía đông của Hiển Đức phủ, khiến cho lãnh thổ của Định An Quốc bị thu hẹp đáng kể. Sau đó, do vua Liệt Vạn Hoa đã chỉ huy quân dân Định An Quốc chống trả quyết liệt nên quân Khiết Đan tạm dừng chiến dịch chinh phục Định An Quốc này lại.[4]

Sau cuộc chiến này, Liệt Vạn Hoa đã lập một căn cứ quân sự tại lưu vực sông Áp Lục, bắt đầu tuyển chọn và xây dựng lực lượng quân đội hùng mạnh cho Định An Quốc.

Thời gian này vụ phun trào của núi Trường Bạch tiếp tục giáng những đòn mạnh vào lực lượng còn sống sót của người Bột Hải tại Định An Quốc (đời vua Liệt Vạn Hoa) dựa trên các ghi chép về sự di cư ồ ạt của người Bột Hải đến bán đảo Liêu Đông của Đại Khiết Đan quốc (đời vua Gia Luật Đức Quang) và đến bán đảo Triều Tiên của Cao Ly (đời vua Cao Ly Thái Tổ).[5][6]

Theo Nihon Kiryaku (Biên niên sử Nhật Bản), ngày 19 tháng 2 năm 944, vào khoảng nửa đêm, có tiếng rung chuyển mạnh ở phía đông của Nhật Bản (đời Thiên hoàng Suzaku), có lẽ chính là núi Trường Bạch đang phun trào dữ dội trong lãnh thổ của Định An Quốc (đời vua Liệt Vạn Hoa).[7]

Vụ phun trào thiên niên kỷ của núi Trường Bạch trong lãnh thổ Định An Quốc (đời vua Liệt Vạn Hoa) được cho là đã thải ra một khối lượng lớn chất dễ bay hơi vào tầng bình lưu, có khả năng dẫn đến tác động lớn đến khí hậu trên toàn thế giới, mặc dù các nghiên cứu gần đây hơn chỉ ra rằng vụ phun trào thiên niên kỷ của núi lửa Bạch Đầu (Baekdu) trong dãy núi Trường Bạch có thể chỉ giới hạn ở các tác động khí hậu khu vực.[8][9][10] Tuy nhiên, có một số hiện tượng bất thường về khí tượng những năm 945 đến năm 948 có thể liên quan đến Vụ phun trào thiên niên kỷ này.[11] Sự kiện được cho là đã gây ra mùa đông núi lửa. Theo Cựu Ngũ Đại sử, ngày 4 tháng 4 năm 945 có tuyết rơi dày đặc ở Đại Khiết Đan quốc (đời vua Gia Luật Đức Quang) và Hậu Tấn (đời vua Hậu Tấn Xuất Đế).

Theo Cao Ly sử, vào năm đầu tiên trị vì của vua Cao Ly Định Tông của Cao Ly (năm 946), trống trời vang lên ở phía bắc khiến hoàng cung Khai Thành của Cao Ly bị náo động lớn.[7] Đó có lẽ là do vụ phun trào núi lửa thiên niên kỷ của núi Trường Bạch trong lãnh thổ Định An Quốc (đời vua Liệt Vạn Hoa). Khai Thành cách núi lửa Bạch Đầu (Baekdu) trong dãy núi Trường Bạch khoảng 470 km, khoảng cách mà người ta có thể nghe thấy vụ phun trào thiên niên kỷ.[12][7] Năm đó trời ầm ầm kêu gào, Định Tông hạ lệnh đại xá toàn quốc Cao Ly.[7]

Theo Lịch sử chùa Heungboksa (Biên niên sử Kōfukuji) đã ghi lại một quan sát đặc biệt thú vị ở Nara, Nhật Bản (đời Thiên hoàng Murakami):[7]

Vào ngày 3 tháng 11 năm 946, buổi tối, tro trắng từ bầu trời phía đông nhẹ nhàng rơi xuống Nhật Bản như tuyết.

"Tro trắng" đó có thể là sự rơi tro trắng từ vụ phun trào núi lửa Bạch Đầu (Baekdu) trong dãy núi Trường Bạch tại lãnh thổ Định An Quốc (đời vua Liệt Vạn Hoa).[12][7]

Theo Cựu Ngũ Đại sử, do tác động của vu phun trào núi lửa ở dãy núi Trường Bạch thuộc Định An Quốc (đời vua Liệt Vạn Hoa), ngày 28 tháng 11 năm 946 có hiện tượng băng men (xảy ra khi mưa đóng băng hoặc mưa phùn chạm vào bề mặt) ở Đại Khiết Đan quốc (đời vua Gia Luật Đức Quang) và Hậu Tấn (đời vua Hậu Tấn Xuất Đế). Tiếp đó, vào ngày 7 tháng 12 năm 946 có hiện tượng sương mù quy mô lớn bao phủ tất cả các loài thực vật ở Đại Khiết Đan quốc (đời vua Gia Luật Đức Quang) và Hậu Tấn (đời vua Hậu Tấn Xuất Đế). Vào ngày 31 tháng 1 năm 947 có hiện tượng tuyết rơi hơn mười ngày, gây ra tình trạng thiếu lương thực và nạn đói ở Đại Khiết Đan quốc (đời vua Gia Luật Đức Quang) và vùng Trung Nguyên (khi đó đang bị vua Gia Luật Đức Quang chiếm đóng).

Sau đó Dai Nihon Kokiroku (Nhật ký cũ của Nhật Bản) và Nihon Kiryaku (Biên niên sử Nhật Bản) đều ghi lại một vụ náo động lớn trong cùng một ngày ở phía đông Nhật Bản (đời Thiên hoàng Murakami):[7]

Vào ngày 7 tháng 2 năm 947, có một âm thanh trên bầu trời phía đông giống như sấm sét.

Điều đó chứng tỏ rằng vụ phun trào núi lửa Bạch Đầu (Baekdu) trong dãy núi Trường Bạch tại lãnh thổ Định An Quốc (đời vua Liệt Vạn Hoa) là cực kỳ dữ dội.[7] Theo Tài liệu khí tượng lịch sử Nhật Bản, do tác động của vu phun trào núi lửa ở dãy núi Trường Bạch thuộc Định An Quốc (đời vua Liệt Vạn Hoa), từ ngày 24 tháng 2 năm 947 đến ngày 23 tháng 4 năm 947 có hiện tượng mùa xuân ấm áp tại Nhật Bản (đời Thiên hoàng Murakami), trong khi mùa xuân tại Nhật Bản bình thường là phải lạnh. Sau đó, ngày 14 tháng 5 năm 947 lại có hiện tượng sương giá và lạnh như mùa đông khắc nghiệt ở Nhật Bản (đời Thiên hoàng Murakami).[13]

Sang tháng 12 năm 947, núi Trường Bạch mới chính thức kết thúc việc phun trào núi lửa lớn nhất thế kỷ X (sau 22 năm phun trào liên tục từ năm 925),[14][15][16][17] vua Liệt Vạn Hoa bắt tay vào việc ổn định lại đời sống dân cư của Định An Quốc xung quanh núi Trường Bạch đó.

Theo Cựu Ngũ Đại sử, do tác động của vu phun trào núi lửa ở dãy núi Trường Bạch thuộc Định An Quốc (đời vua Liệt Vạn Hoa), ngày 16 tháng 12 năm 947, ngày 25 tháng 12 năm 947 và ngày 6 tháng 1 năm 948 có hiện tượng băng men (xảy ra khi mưa đóng băng hoặc mưa phùn chạm vào bề mặt) ở nhà Liêu (đời vua Liêu Thế Tông) và Hậu Hán (đời vua Hậu Hán Cao Tổ). Ngày 24 tháng 10 năm 948 có hiện tượng tuyết rơi dày đặc ở Khai Phong của Hậu Hán (đời vua Hậu Hán Ẩn Đế), trong khi tuyết chỉ rơi nhẹ ở Khai Phong tầm tháng 11 hoặc tháng 12 trong nhiều năm trước đó.[18]

Định An Quốc của vua Liệt Vạn Hoa được ghi chép là đã tranh thủ sự giúp đỡ của các bộ lạc lân cận với hi vọng lật đổ nhà Liêu (đời vua Liêu Mục Tông), song đã thất bại.

Năm 962, vua Cao Ly Quang Tông của Cao Ly lập liên minh với nhà Tống (đời vua Tống Thái Tổ) ở miền trung Trung Quốc và theo đuổi chính sách bành trướng về phía bắc. Ngoài ra, quốc gia của người Bột Hải là Định An Quốc (đời vua Liệt Vạn Hoa) ở vùng giữa sông Áp Lục còn tiến hành lập liên minh với nhà TốngCao Ly để chống lại nhà Liêu (đời vua Liêu Mục Tông).

Năm 970, vua Liệt Vạn Hoa phái sứ giả sang nhà Tống (đời vua Tống Thái Tổ) để thiết lập quan hệ ngoại giao lâu dài giữa hai nước Định An Quốc và nhà Tống.

Vua Liêu Cảnh Tông của nhà Liêu đã có Tiêu Xước là hoàng hậu nhưng ông ta vẫn nạp một cô gái thuộc vương tộc Bột Hải làm phi (gọi là Bột Hải phi) và một cô gái họ Mỗ (gọi là Mỗ thị) làm phi.

Năm 975 vua Liêu Cảnh Tông phát động một cuộc xâm lược lớn vào hậu duệ của vương quốc Bột Hải là Định An Quốc (đời vua Liệt Vạn Hoa). Tuy nhiên quân Khiết Đan của Liêu Cảnh Tông đã bị quân Định An Quốc của Liệt Vạn Hoa đánh bại. Quân Khiết Đan của Liêu Cảnh Tông phải lui quân.[19]

Sau cuộc chiến này, một số tướng lĩnh người Bột Hải của nhà Liêu đã nổi dậy đánh chiếm thành Phù Châu (nay là Khai Nguyên, Liêu Ninh, Trung Quốc) của nhà Liêu, lập ra vương quốc Yên Pha (頗頗 Yeonpa), tuyên bố chống lại nhà Liêu của vua Liêu Cảnh Tông. Kinh đô của vương quốc Yên Pha đặt tại Phù Châu.

Gia tộc họ Liệt cai trị Định An Quốc bị thay thế bởi gia tộc họ Ô vào năm 976 sau một cuộc binh biến lớn trên khắp vương quốc. Vua Liệt Vạn Hoa (cũng có thể là con trai của Liệt Vạn Hoa) bị giết chết. Nhiều vương tộc họ Liệt cũng bị giết. Vương quốc Định An nằm dưới quyền của Ô Huyền Minh (오현명, 烏玄明, Oh Hyeon-myeong). Ô Huyền Minh tự lập làm vua của Định An Quốc và bổ nhiệm dòng tộc họ Ô của mình vào các chức vụ quan trọng của Định An Quốc. Thành Tây Kinh (nay là Lâm Giang, Cát Lâm, Trung Quốc) tiếp tục được vua Ô Huyền Minh chọn làm kinh đô của vương quốc.

Năm 981, vua Ô Huyền Minh phái quân Định An Quốc tấn công vương quốc Yên Pha. Quân Yên Pha liên tục bại trận. Quân Định An Quốc bao vây kinh thành Phù Châu (nay là Khai Nguyên, Liêu Ninh, Trung Quốc) của vương quốc Yên Pha. Vua của vương quốc Yên Pha tuyên bố đầu hàng quân Định An Quốc. Vua Ô Huyền Minh sáp nhập lãnh thổ của vương quốc Yên Pha vào lãnh thổ Định An Quốc của mình. Việc này đe dọa đến nhà Liêu của vua Liêu Cảnh Tông. Một số quý tộc và dân chúng Bột Hải của vương quốc Yên Pha đã di tản sang vương quốc Hậu Bột Hải ở kinh thành Hốt Hãn (nay là Ninh An, Hắc Long Giang, Trung Quốc).

Cùng năm 981, vua Ô Huyền Minh đã cử một sứ giả đến nhà Tống (đời vua Tống Thái Tông) và đưa ra chiến dịch gọng kìm chống lại nhà Liêu (đời vua Liêu Cảnh Tông).

Khi đó hậu duệ của vương quốc Bột Hải (quốc gia kình địch của của nhà Liêu) là Định An Quốc (đời vua Ô Huyền Minh) vẫn đang tồn tại trong lãnh thổ cũ của vương quốc Bột Hải. Điều đó khiến cho nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông) e ngại về việc người Bột Hải của quốc gia này sẽ gây họa phía sau cho họ.

Năm 985 Tiêu thái hậu của nhà Liêu phái quân Khiết Đan chinh phục Định An Quốc (đời vua Ô Huyền Minh). Tuy nhiên quân Khiết Đan đã bị quân Định An Quốc đánh bại. Không thể trừ khử mối đe dọa, nhà Liêu quyết định dựng nên ba pháo đài với quân đồn trú ở khu vực thung lũng sông Áp Lục.[19]

Biết được sức mạnh quân sự của nhà Tống (đời vua Tống Thái Tông) yếu hơn so với nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông) và thường thua trận trước họ, cùng năm 985, vua Ô Huyền Minh cử sứ giả đến Cao Ly (đời vua Cao Ly Thành Tông) và cầu cứu. Nhưng vua Cao Ly Thành Tông đã từ chối lời đề nghị đó và đã dùng vũ lực đuổi sứ giả Định An Quốc ra ngoài hoàng cung.

Diệt vong

Tháng 12 năm 985 Tiêu thái hậu của nhà Liêu lại phái quân Khiết Đan chinh phục Định An Quốc (đời vua Ô Huyền Minh).[4][20][21] Thành Phù Châu (nay là Khai Nguyên, Liêu Ninh, Trung Quốc), thành Hà Châu (nay là Hoa Điện, Cát Lâm, Trung Quốc) và thành Nô Châu (nay là Thông Hóa, Cát Lâm, Trung Quốc) của Định An Quốc nhanh chóng bị quân Khiết Đan đánh hạ.[4]

Nhân dân Bột Hải trong lãnh thổ Định An Quốc đều không thần phục vua Ô Huyền Minh (do Ô Huyền Minh từng làm binh biến lớn cướp ngôi vua của vua Liệt Vạn Hoa vào 10 năm trước) nên họ đã quy hàng và dẫn dắt quân Khiết Đan công hạ kinh đô Tây Kinh (nay là Lâm Giang, Cát Lâm, Trung Quốc) của Định An Quốc. Kinh đô Tây Kinh thất thủ vào tháng 1 năm 986. Nhân dân Bột Hải dẫn quân Khiết Đan đi bắt vua Ô Huyền Minh. Định An Quốc bị sụp đổ và bị sáp nhập vào lãnh thổ nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông).[4][20][21]

Vương quốc Hậu Bột Hải của vương tộc họ Đại tại thành Hốt Hãn (nay là Ninh An, Hắc Long Giang, Trung Quốc) thuộc Long Tuyền phủ vẫn duy trì tồn tại cho đến tận năm 994 thì bị một thuộc tướng có nguồn gốc từ vương quốc Yên Pha tên là Ô Chiêu Đạc (烏昭度, Oh So-do) lật đổ, đổi quốc hiệu sang Ô Nha (올야, 兀惹, Olya). Kinh thành Hốt Hãn trở thành kinh thành Ô Xá của vương quốc Ô Nha. Tầng lớp thống trị quý tộc họ Ô này là một trong những tầng lớp quý tộc truyền thống của Bột Hải khi xưa. Tuy nhiên người dân của vương quốc Ô Nha đa phần là người Nữ Chân. Sang năm 996, vương quốc Ô Nha (đời vua Ô Chiêu Đạc) trở thành quốc gia chư hầu của nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông). Sau đó vua Ô Chiêu Đạc mất, con là Ô Chiêu Khánh (烏昭慶, Oh So-gyeong) lên kế vị ngôi vua. Từ năm 1004 đến năm 1022 người Nữ Chân và người Thiết Lợi Mạt Hạt đã bắt bớ những người dân Bột Hải của vương quốc Ô Nha và cống nạp hết mình cho nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông), khiến cho vương quốc Ô Nha bị suy yếu nhanh chóng do thiếu con người làm việc, thiếu nhân lực lao động. Cùng năm 1022 vua Ô Chiêu Khánh mất, dòng họ Ô tiếp tục cai trị vương quốc Ô Nha cho đến năm 1114 thì bị bộ tộc Nữ Chân (đời thủ lĩnh Hoàn Nhan A Cốt Đả) tiêu diệt và bị sáp nhập vào bộ tộc Nữ Chân.

Cai trị

  1. Liệt Vạn Hoa (열만화, 烈萬華, Yeol Manhwa, 935? - 954? or 976?)
  2. Ô Huyền Minh (오현명, 烏玄明, Oh Hyeon-myeong, 976 - 986)

Xem thêm

Tham khảo

  1. ^ Những hạt giống của những người Mã Hàn bản địa thuộc vương quốc Định An đã bị người Khiết Đan phá hủy và được bảo vệ từ phía tây (定安國本馬韓之種. 爲契丹所破 保其西鄙) - Theo Tống sử, Định An Quốc liệt truyện
  2. ^ “North and South States Period: Unified Silla and Balhae”. Korea.
  3. ^ Lee, Ki-Baik (1984). A New History of Korea. Cambridge, Massachusetts: Harvard University Press. tr. 103. ISBN 067461576X. "Khi vương quốc Bột Hải bị diệt vong dưới tay người Khiết Đan vào cùng thời điểm này, phần lớn giai cấp thống trị ở đây, những người gốc Cao Câu Ly, đã chạy trốn đến Cao Ly. Vương Kiến đã nồng nhiệt chào đón họ và hào phóng trao đất cho họ. Cùng với việc phong tước Wang Kye ("Người kế vị của hoàng tộc họ Vương") cho thái tử Bột Hải, Đại Quang Hiển, Vương Kiến đã ghi tên ông ta vào sổ hộ khẩu hoàng gia, do đó truyền tải rõ ràng ý tưởng rằng họ thuộc cùng một dòng dõi, và cũng có những nghi lễ được thực hiện để vinh danh tổ tiên của mình. Do đó, Cao Ly đã đạt được một sự thống nhất quốc gia thực sự không chỉ bao gồm cả Hậu Tam Quốc mà còn cả những người sống sót thuộc dòng dõi Cao Câu Ly từ vương quốc Bột Hải."
  4. ^ a b c d e Twitchett 1994, tr. 102.
  5. ^ 발해멸망과 백두산 화산폭발 [The Fall of Bohai and the Mt.]. Khan.co (bằng tiếng Hàn). 30 tháng 5 năm 2012.
  6. ^ “Eruption of Mt. Baekdu and collapse of Balhae”. Dong-a Ilbo. 3 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2020.
  7. ^ a b c d e f g h Hayakawa, Yukio; Koyama, Masato (1998). “日本海をはさんで10世紀に相次いで起こった二つの大噴火の年月日 --十和田湖と白頭山--” [Dates of Two Major Eruptions from Towada and Baitoushan in the 10th Century]. 火山 [Bulletin of the Volcanological Society of Japan]. 43 (5): 403–407. doi:10.18940/kazan.43.5_403. ISSN 2189-7182.
  8. ^ Horn, S (2000). “Volatile emission during the eruption of Baitoushan Volcano (China/North Korea) ca. 969 AD”. Bull Volcanol. 61 (8): 537–555. doi:10.1007/s004450050004. S2CID 129624918.
  9. ^ Sun, Chunqing; Plunkett, Gill; Liu, Jiaqi; Zhao, Hongli; Sigl, Michael; McConnell, Joseph R.; Pilcher, Jonathan R.; Vinther, Bo; Steffensen, J. P.; Hall, Valerie (28 tháng 1 năm 2014). “Ash from Changbaishan Millennium eruption recorded in Greenland ice: Implications for determining the eruption's timing and impact: SUN ET. AL. MILLENNIUM ERUPTION ASH IN GREENLAND”. Geophysical Research Letters (bằng tiếng Anh). 41 (2): 694–701. doi:10.1002/2013GL058642. S2CID 53985654.
  10. ^ Sigl, M.; Winstrup, M.; McConnell, J. R.; Welten, K. C.; Plunkett, G.; Ludlow, F.; Büntgen, U.; Caffee, M.; Chellman, N.; Dahl-Jensen, D.; Fischer, H.; Kipfstuhl, S.; Kostick, C.; Maselli, O. J.; Mekhaldi, F. (8 tháng 7 năm 2015). “Timing and climate forcing of volcanic eruptions for the past 2,500 years”. Nature (bằng tiếng Anh). 523 (7562): 543–549. Bibcode:2015Natur.523..543S. doi:10.1038/nature14565. ISSN 1476-4687. PMID 26153860. S2CID 4462058.
  11. ^ Fei, J (2006). “The possible climatic impact in China of Iceland's Eldgja eruption inferred from historical sources”. Climatic Change. 76 (3–4): 443–457. Bibcode:2006ClCh...76..443F. doi:10.1007/s10584-005-9012-3. S2CID 129296868.
  12. ^ a b Oppenheimer, Clive; Wacker, Lukas; Xu, Jiandong; Galván, Juan Diego; Stoffel, Markus; Guillet, Sébastien; Corona, Christophe; Sigl, Michael; Di Cosmo, Nicola; Hajdas, Irka; Pan, Bo; Breuker, Remco; Schneider, Lea; Esper, Jan; Fei, Jie (15 tháng 2 năm 2017). “Multi-proxy dating the 'Millennium Eruption' of Changbaishan to late 946 CE”. Quaternary Science Reviews (bằng tiếng Anh). 158: 164–171. Bibcode:2017QSRv..158..164O. doi:10.1016/j.quascirev.2016.12.024. ISSN 0277-3791. S2CID 56233614.
  13. ^ Theo Tài liệu khí tượng lịch sử Nhật Bản.
  14. ^ Horn, Susanne; Schmincke, Hans-Ulrich (1 tháng 2 năm 2000). “Volatile emission during the eruption of Baitoushan Volcano (China/North Korea) ca. 969 AD”. Bulletin of Volcanology (bằng tiếng Anh). 61 (8): 537–555. doi:10.1007/s004450050004. ISSN 1432-0819. S2CID 129624918.
  15. ^ Nakamura, Toshio (2007). “High-precision Radiocarbon Dating with Accelerator Mass Spectrometry and Calibration of Radiocarbon Ages”. The Quaternary Research (Daiyonki-Kenkyu). 46 (3): 195–204. doi:10.4116/jaqua.46.195. ISSN 1881-8129.
  16. ^ Yatsuzuka, Shinya; Okuno, Mitsuru; Nakamura, Toshio; Kimura, Katsuhiko; Setoma, Yohei; Miyamoto, Tsuyoshi; Kim, Kyu Han; Moriwaki, Hiroshi; Nagase, Toshiro; Jin, Xu; Jin, Bo Lu; Takahashi, Toshihiko; Taniguchi, Hiromitsu (2010). “14 C Wiggle-Matching of the B-Tm Tephra, Baitoushan Volcano, China/North Korea”. Radiocarbon (bằng tiếng Anh). 52 (3): 933–940. doi:10.1017/S0033822200046038. ISSN 0033-8222. S2CID 62840908.
  17. ^ 澤田恵美; 木村勝彦; 八塚槙也; 中村俊夫; 宮本毅; 中川光弘; 長瀬敏郎; 菅野均志; Xu, J. I. N.; 奥野充 (2018). “白頭山北麓,10世紀噴火のラハール堆積物の埋没樹木の14Cウイグルマッチング年代” [14C Wiggle-matching Age of a Wood Trunk in the Lahar Deposits Caused by the 10th Century Eruption at the Northern Foot of Baitoushan Volcano, China/North Korea]. 福岡大学理学集報 (bằng tiếng Nhật). 48 (2): 43–48. ISSN 0386-118X.
  18. ^ Theo Cựu Ngũ Đại sử.
  19. ^ a b Twitchett and Tietze (1994), 102.
  20. ^ a b Kim, Jinwung (2012). A History of Korea: From "Land of the Morning Calm" to States in Conflict (bằng tiếng Anh). Indiana University Press. tr. 87–88. ISBN 978-0253000248. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2017.
  21. ^ a b 據《渤海国记》:“定安国王大氏、乌氏迭见其理不可晓。渤海亡,始建国,下讫淳化二年,凡六十四年。”