Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sơn Tây (tỉnh cũ)”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thpthn (thảo luận | đóng góp)
n thêm nguồn
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 53: Dòng 53:
* Phủ Đoan Hùng 5 huyện: Tây Lan, Đông Lan, Sơn Dương, Đương Đạo, Tam Dương.
* Phủ Đoan Hùng 5 huyện: Tây Lan, Đông Lan, Sơn Dương, Đương Đạo, Tam Dương.


Theo sách ''Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ 19'' <ref>Viện Hán Nôm (1981), ''Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ 19'', Nhà xuất bản Khoa học xã hội, trang 36</ref>, bỏ Phủ Đà Dương, gộp thành 5 phủ:
Theo sách ''Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ 19'' <ref>Viện Hán Nôm (1981), ''Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ 19'', Nhà xuất bản Khoa học xã hội, trang 36</ref>, bỏ Phủ Đà Dương, gộp thành 5 phủ

'''Phủ Quốc Oai''' cắt Phúc Lộc đổi lấy Mỹ Lương từ Phủ Quảng Oai, gồm 5 huyện:
# '''Từ Liêm''' 13 tổng: ''Thượng Hội, Thượng Trì, Hạ Trì, Phú Gia, Minh Cảo, Cổ Nhuế, Dịch Vọng, Hương Canh, Tây Đam, Thượng Ốc, Yên Lũng, La Nội, Thiên Mỗ.'' Nay là [[Cầu Giấy]], [[Nam Từ Liêm]], [[Bắc Từ Liêm]], cùng một phần [[Đan Phượng]], [[Hoài Đức]], [[Tây Hồ (quận)|Tây Hồ]], [[Thanh Xuân]], [[Hà Đông]].
# '''Đan Phượng''' 8 tổng: ''Đắc Sở, Dương Liễu, Kim Thìa, Sơn Đồng, Thanh Mạc, Đan Phượng Thượng, Thượng Hiệp, Hạ Hiệp''. Nay là một phần [[Đan Phượng]], [[Hoài Đức]], [[Phúc Thọ]].
# '''Yên Sơn''' 8 tổng: ''Hoàng Xá, Thạch Thán, Cấn Xá, Yên Kiện, Tiên Lữ, Lật Sài, Bất Lạm, Lạp Thượng.'' Nay là [[Quốc Oai]] cùng một phần [[Chương Mỹ]]''.''
# '''Thạch Thất''' 7 tổng: ''Tường Phiêu, Lạc Trị, Đại Đồng, Kim Quan, Hương Ngải, Thạch Xá, Cần Kiệm''. Nay là [[Thạch Thất]] cùng một phần [[Phúc Thọ]].
# '''Mỹ Lương''' 7 tổng: ''Cao Bộ, Phương Hương, Mỹ Lương, Dã Cát, An Lạc, Kim Bôi, Minh Lương''. Nay là vùng núi [[Thạch Thất]], [[Quốc Oai]], [[Chương Mỹ]], [[Lương Sơn]], [[Kim Bôi]].

'''Phủ Quảng Oai''' có 4 huyện, trong đó Minh Nghĩa đổi tên là Tùng Thiện:
# '''Phúc Lộc''' 11 tổng: ''Cam Giá Thượng, Cam Giá Thịnh, Phù Sa, Võng Xuyên, Nhân Lý, Thụy Phiêu, Cựu Đình, Xuân Vân, Cảo Thượng, Phù Long, Phú Châu''. Nay là [[Phúc Thọ]] cùng một phần [[Sơn Tây (thị xã)|TX. Sơn Tây]], [[Ba Vì]].
# '''Tiên Phong''' 7 tổng: ''Thanh Lãng, Mộc Hoàn, Châu Chàng, Thanh Mai, Phú Xuyên, Tang Thác, Tây Đằng''. Nay là bắc [[Ba Vì]].
# '''Bất Bạt''' 6 tổng: ''Hạ Bì, Khê Thượng, Lương Tuyền, La Phù, Tu Vũ, Hoằng Nhuệ''. Nay là [[Thanh Thủy|Thanh Thủy,]] tây nam [[Ba Vì]], [[Hòa Bình (thành phố)|TP. Hòa Bình]] và một phần [[Cao Phong]].
# '''Tùng Thiện''' 6 tổng: ''Thanh Vị, Phú Kỳ, Vật Lại, Cẩm Đái, Bối Sơn, Mỹ Tuyền''. Nay là [[Sơn Tây (thị xã)|TX. Sơn Tây]] và đông nam [[Ba Vì]].

'''Phủ Tam Đái''' còn 5 huyện, sau đổi tên là Phủ Vĩnh Tường:
# '''Yên Lãng''' 9 tổng: ''Yên Lãng, Kim Đà, Hạ Lôi, Hương Canh, Bạch Trữ, Thiên Lộc, Quải Mai, Hải Bối, Võng La''. Nay là [[Mê Linh]] cùng một phần [[Bình Xuyên]], [[Phúc Yên]], [[Đông Anh]].
# '''Yên Lạc''' 15 tổng: ''Lương Điền, Đông Lỗ, Đường Xá, Hương Nha, Thọ Lão, Xa Mạc, Hoàng Xuyết, Đạo Tú, Quan Đài, Hội Thượng, Hội Hạ, Đồng Hồn, Nguyễn Xá, Bình Quán, Hưng Lục.'' Nay là [[Yên Lạc]] và [[Vĩnh Yên]].
# '''Bạch Hạc''' 8 tổng: ''Đồng Phú, Mộ Chu, Nghĩa Yên, Đồng Vệ, Thượng Trưng, Nhật Chiêu, Tuân Lộ, Kiên Cương''. Nay là [[Vĩnh Tường]] và một phần nhỏ [[Việt Trì]].
# '''Phù Khang''' 9 tổng: ''Tử Đà, Phù Lão, Phượng Lân, Hạ Hoàng, Lâu Thượng, Minh Nông, Khải Xuân, Kim Lăng, Trâm Nhĩ''. Nay là [[Phù Ninh]] và [[Việt Trì]].
# '''Lập Thạch''' 11 tổng: ''Cao Mật, Sơn Tây, Hạ Ích, Bình Hòa, Tĩnh Luyện, Thượng Đạt, Tử Du, Yên Xá, Đạo Ky, Nhân Mục, Bạch Lưu''. Nay là [[Lập Thạch]] và [[Sông Lô (huyện)|H. Sông Lô]].

'''Phủ Lâm Thao''' thêm Tam Nông thành 5 huyện:
# '''Sơn Vi''' 9 tổng: ''Vĩnh Lai, Cao Xá, Tiên Minh, Do Nghĩa, Chu Khổng, Xuân Lũng, Yên Phú, Hạ Mạo, Yên Lệnh''. Nay là [[Lâm Thao]] và một phần [[Việt Trì]], [[Phú Thọ (thị xã)|TX. Phú Thọ]].
# '''Hoa Khê''' 6 tổng: ''Điêu Lương, Trương Xá, Phú Khê, Nga Phú, Tạ Xá, Nguyễn Xá''. Nay tên [[Cẩm Khê]].
# '''Hạ Hoa''' 8 tổng: ''Động Lâm, Văn Lang, Nhữ Hạ, Đan Thượng, Đại Phạm, Xuân Áng, Lãnh Sơn, Văn Chiếu''. Nay tên [[Hạ Hòa]].
# '''[[Thanh Ba]]''' 9 tổng: ''Vĩnh Chân, An Khâu, Thanh Cù, Hoàng Cương, Mạn Lạn, Chi Chủ, Ninh Dân, Phao Thanh, Lương Lỗ''.
# [[Tam Nông, Phú Thọ|'''Tam Nông''']] 5 tổng: ''Văn Lang, Hiền Quan, Tứ Mỹ, Thượng Nông, Dị Nậu''.

'''Phủ Đoan Hùng''' vẫn 5 huyện cũ chỉ đổi tên:
#'''Tây Quan''' 6 tổng: ''Nghĩa Quân, Đại Thân, Thượng Khê, Ca Đình, Lũ Độ, Minh Doãn.'' Nay là [[Đoan Hùng]].
#'''Đông Quan''' 3 tổng: ''Ngọc Chúc, Vân Nham, Nghĩa Khê''. Nay là phía tây [[Đoan Hùng]].
#'''[[Sơn Dương]]''' 9 tổng: ''Át Sơn, Yên Lịch, Lương Viên, Đồng Chương, Linh Xuyên, Mẫn Hóa, Hội Kế, Hữu Vũ, Gia Mông.''
#'''Đương Đạo''' 7 tổng: ''Kim Quan Thượng, Khang Lực, Tứ Lân, Phượng Liễn, Hồng La, Bắc Hoàng, Đồng Liêu.'' Nay là phía bắc [[Sơn Dương]].
#'''Tam Dương''' 7 tổng: ''Quyết Trung, Quan Ngoại, Tam Lộng, Miêu Duệ, Lữ Lương, Hoàng Chỉ, Yên Dương.'' Nay là [[Tam Dương]] và [[Tam Đảo (huyện)|Tam Đảo]], cùng một phần [[Vĩnh Yên]], [[Bình Xuyên]].


[[Tập tin:Bản đồ tỉnh Sơn Tây trong Đồng Khánh địa dư chí.png|nhỏ|Bản đồ Sơn Tây trong [[Đồng Khánh địa dư chí]] thời Nguyễn]]
[[Tập tin:Bản đồ tỉnh Sơn Tây trong Đồng Khánh địa dư chí.png|nhỏ|Bản đồ Sơn Tây trong [[Đồng Khánh địa dư chí]] thời Nguyễn]]
Dòng 99: Dòng 65:
*Năm 1904: cắt huyện Đan Phượng về tỉnh Hà Đông.
*Năm 1904: cắt huyện Đan Phượng về tỉnh Hà Đông.


Từ đó tới năm 1965, tỉnh Sơn Tây<ref>Phạm Xuân Độ (1941), ''Sđd'', trang 212</ref> chỉ còn nằm gọn trong ba sông [[Sông Đà|Đà]], [[Sông Hồng|Hồng]], [[Sông Đáy|Hát]] với 7 đơn vị hành chính:
Từ đó tới năm 1965, tỉnh Sơn Tây<ref>Phạm Xuân Độ (1941), ''Sđd'', trang 212</ref> còn 7 đơn vị hành chính:


# Phủ/Huyện Quốc Oai: ''Hoàng Xá, Thượng Hiệp, Hạ Hiệp, Lật Sài, Liệp Mai, Dã Cát, Thạch Thán, Tiên Lữ, Bất Lạm, Cấn Xá''.
# Phủ/Huyện Quốc Oai: ''Hoàng Xá, Thượng Hiệp, Hạ Hiệp, Lật Sài, Liệp Mai, Dã Cát, Thạch Thán, Tiên Lữ, Bất Lạm, Cấn Xá''.
Dòng 111: Dòng 77:
==Văn hóa==
==Văn hóa==


===Con người===
===Dân ===

'''Tính cách''': [[Dư địa chí|''Dư địa chí'']] ''<ref name=":0" />'' của Nguyễn Trãi có lời bình: ''"Ở vùng Sơn Tây người thuần hậu, phong tục chất phác; tuy qua nhiễu loạn, chưa hề cường ngạnh bao giờ"''

'''Dân tộc:''' Dân cư nay chủ yếu là người Kinh. Tuy nhiên, theo ''Tổng điều tra dân số 2019'' <ref name="TK">{{Chú thích|title=Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2019|date=|url=http://tongdieutradanso.vn/uploads/data/6/files/files/Ket%20qua%20toan%20bo%20Tong%20dieu%20tra%20dan%20so%20va%20nha%20o%202019_ca%20bia_compressed.pdf|pages=43|publisher=Tổng cục Thống kê|access-date=}}</ref> có 57,14% [[người Mường]] cả nước cư trú ở Xứ Đoài. Trong đó Hà Nội còn 4,29%, Phú Thọ 15,04% và Hòa Bình 37,81%. Từ tên các địa danh cổ (Mê Linh, Văn Lang, sông Hát... đều có nguồn gốc tiếng Mường và vô nghĩa nếu xét theo Hán Nôm<ref>Trần Quốc Vượng (1970), ''Từ truyền thuyết, ngữ ngôn đến lịch sử. Hùng Vương dựng nước'', tập I. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, trang 154</ref>) hay sự tương đồng về văn hóa và đặc biệt là ''giọng nói'' - đều cho thấy dân tỉnh Đoài là người Mường - Việt cổ. Ngoài ra, Phủ Quốc Oai xưa còn có hàng ngàn tù binh [[Người Chăm|Chăm]] sau mỗi lần chinh phạt [[Chiêm Thành]].<ref>{{Chú thích web|url=https://vhnt.org.vn/dau-tich-mot-so-lang-cham-tren-xu-bac/|tựa đề=Dấu tích một số làng Chăm trên đất Bắc|tác giả=Đinh Đức Tiến, Vũ Diệu Trung|website=Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 354, tháng 12 năm 2013|url-status=live}}</ref>

'''Giọng nói''': Theo ''Sơn Tây tỉnh địa chí'' <ref>Phạm Xuân Độ (1941), ''Sđd'', trang 45</ref>: ''"nhân dân nói tiếng nặng không khác gì nhân dân Trung Kỳ... lắm nơi nhân dân lại dùng các thổ âm khác hẳn với tiếng ta thường nói...".'' Theo PGS.TS Phạm Văn Hảo thì dân tỉnh Đoài nói tiếng Mường được Việt hóa.<ref>{{Chú thích web|url=https://kienthuc.net.vn/giai-ma/chui-cha-khong-bang-pha-tieng-bi-mat-va-su-that-359742.html|tựa đề=Giọng nói khác lạ của Tỉnh Đoài|ngày=2014-07-05|url-status=live}}</ref>

'''Quân chủ''': [[Hùng Vương]], [[Hai Bà Trưng]], [[Lý Nam Đế]], [[Hậu Lý Nam Đế|Lý Phật Tử]], [[Lý Thiên Bảo]], [[Phùng Hưng]], [[Phùng An]], [[Kiều Công Tiễn]], [[Ngô Quyền]]. '''Huyền thoại''': [[Sơn Tinh]], [[Thủy Tinh (nhân vật)|Thủy Tinh]], [[Quỷ Xương Cuồng|Mộc Tinh]], [[Lý Ông Trọng]], [[Từ Đạo Hạnh]]... '''Quan lại''': [[Tinh Thiều]], [[Lý Phục Man]], [[Tô Hiến Thành]], [[Đỗ Kính Tu]], [[Trần Nguyên Hãn]], [[Nguyễn Sư Mạnh]], [[Phùng Khắc Khoan]], [[Giang Văn Minh]], [[Nguyễn Kính]], [[Phan Huy Chú]], [[Phan Kế Toại]]... '''Chính khách''': [[Nguyễn Thái Học]], [[Nguyễn Cao Kỳ]], [[Xuân Thủy]], [[Nguyễn Văn Huyên]], [[Trần Duy Hưng]], [[Khuất Duy Tiến]], [[Phan Trọng Tuệ]], [[Văn Tiến Dũng]], [[Lê Trọng Tấn]], [[Phùng Quang Thanh]], [[Đỗ Bá Tỵ]], [[Lương Cường]], [[Phạm Gia Khiêm]]... '''Văn thơ''': [[Trần Thế Pháp]], [[Tản Đà]], [[Phạm Tiến Duật]], [[Quang Dũng (nhà thơ)|Quang Dũng]]... '''Âm nhạc''': [[Duy Trác]], [[Trần Hiếu]], [[Trần Tiến]], [[Phú Quang]], [[Phan Lạc Hoa]].. '''Hội họa''': [[Nguyễn Gia Trí]], [[Bùi Xuân Phái]], [[Nguyễn Đỗ Cung]], [[Phan Kế An]]... '''Sân khấu''': [[Tào Mạt]], [[Lại Văn Sâm]], [[Xuân Bắc (diễn viên)|Xuân Bắc]]... '''Thể thao''': [[Nguyễn Lộc]], [[Hoàng Xuân Vinh]]...

===Di tích và danh thắng===

'''Đền và lăng''': [[Đền Hùng]] với lễ Giổ Tổ mồng 10 tháng ba là cái tên nổi bật nhất ở Xứ Đoài. Kế đến là [[Đền Mẫu Âu Cơ]] khai hội mồng 6 tháng giêng.<ref>{{Chú thích web|url=https://hahoa.phutho.gov.vn/Chuyen-muc-tin/Chi-tiet-tin/t/le-hoi-en-mau-au-co-va-tin-nguong-tho-mau-au-co-net-van-hoa-dac-trung-cua-vung-d/title/3996/ctitle/218|tựa đề=Lễ hội Đền Mẫu Âu Cơ ở Phú Thọ|ngày=|website=phutho.gov.vn|url-status=live}}</ref> [[Đền Hai Bà Trưng (Hạ Lôi)|Đền Hạ Lôi]] và [[Đền Hát Môn]] cùng thờ Hai Bà Trưng - làm lễ rước bánh trôi vào mồng 6 tháng ba.<ref>[https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Van-hoa-Xa-hoi/Quyet-dinh-2383-QD-TTg-nam-2013-xep-hang-di-tich-quoc-gia-dac-biet-215723.aspx QĐ 2383/QĐ-TTg xếp hạng Đền Hạ Lôi và Đền Hát Môn] chinhphu.vn </ref><ref>{{Chú thích web|url=https://www.qdnd.vn/van-hoa/doi-song/den-hat-mon-di-tich-quoc-gia-dac-biet-cua-thu-do-477847|tựa đề=Đền Hát Môn - Di tích quốc gia đặc biệt của Thủ Đô|ngày=|website=qdnd.vn|url-status=live}}</ref> Ngoài ra còn có [[Lăng Ngô Quyền]] và Đền Phùng Hưng ở [[Đường Lâm|Làng cổ Đường Lâm]]; Đền Lý Nam Đế ở Tam Nông, Đan Phượng, Hoài Đức... Những nơi thờ [[Sơn Tinh]] có ''tứ cung'' (nổi tiếng nhất là [[Đền Và]]), ba đền trên núi Ba Vì, dưới chân núi (như [[Đình Tường Phiêu]]), bên kia sông Đà (Đền Lăng Sương) và bên kia sông Hồng (Đền Ngự Dội)... đều tổ chức chính hội ngày 15 tháng giêng.<ref>{{Chú thích web|url=https://phutho.gov.vn/vi/di-tich-lich-su-quoc-gia-den-lang-suong|tựa đề=Đền Lăng Sương thờ Sơn Tinh ở Phú Thọ|ngày=|website=phutho.gov.vn|url-status=live}}</ref>

'''Đình làng''': Dân gian có câu ''"Cầu Nam, chùa Bắc, đình Đoài"'' ý nói biểu tượng của Xứ Sơn Nam là những cây cầu, Xứ Kinh Bắc có nhiều chùa cổ và Xứ Đoài nổi tiếng nhất về kiến trúc đình làng. Có 08 trên tổng số 10 ngôi đình được xếp hạng [[Di tích quốc gia đặc biệt (Việt Nam)|di tích quốc gia Đặc biệt]] của Việt Nam nằm ở đây là: [[Đình So]], [[Đình Chèm]], [[Đình Tây Đằng]], [[Đình Tường Phiêu]], [[Đình Hạ Hiệp]], [[Đình Đại Phùng]], [[Đình Thổ Tang]] và cụm Đình [[Hương Canh]].<ref>[https://bvhttdl.gov.vn/11-di-tich-duoc-xep-hang-di-tich-quoc-gia-dac-biet-20181226094828911.htm QĐ 1820/QĐ-TTg xếp hạng Đình So, Đình Tường Phiêu và Đình Thổ Tang] bvhttdl.gov.vn </ref><ref>[https://datafiles.chinhphu.vn/cpp/files/vbpq/2021/01/2280.signed.pdf QĐ 2280/QĐ-TTg xếp hạng Đình Hạ Hiệp] chinhphu.vn </ref><ref>[https://datafiles.chinhphu.vn/cpp/files/vbpq/2017/12/2082.signed.pdf QĐ 2082/QĐ-TTg xếp hạng Đình Chèm] chinhphu.vn </ref><ref>[https://datafiles.chinhphu.vn/cpp/files/vbpq/2020/01/1954.signed_01.pdf QĐ 1954/QĐ-TTg xếp hạng Đình Đại Phùng] chinhphu.vn </ref><ref>[https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Van-hoa-Xa-hoi/Quyet-dinh-2383-QD-TTg-nam-2013-xep-hang-di-tich-quoc-gia-dac-biet-215723.aspx QĐ 2383/QĐ-TTg xếp hạng Đình Tây Đằng] chinhphu.vn </ref><ref>{{Chú thích web|url=https://datafiles.chinhphu.vn/cpp/files/vbpq/2022/12/1649-ttg.signed.pdf|tựa đề=QĐ 1649/QĐ-TTg xếp hạng cụm đình Hương Canh|website=chinhphu.vn|url-status=live}}</ref> Còn những ngôi đình là di tích quốc gia thì rất rất nhiều, như [[Đình Chu Quyến]], [[Đình Mông Phụ]], [[Đình Yên Sở]]... Trong đó hội làng dừa Yên Sở thờ tướng [[Lý Phục Man]] được tổ chức vào tháng ba rất hoành tráng.<ref>{{Chú thích web|url=http://hoaiduc.hanoi.gov.vn/di-tich-lich-su/-/view_content/2912909-quan-gia-xa-yen-so.html|tựa đề=Đình Quán Giá - Yên Sở|website=hanoi.gov.vn|url-status=live}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=https://www.congluan.vn/nhung-hinh-anh-doc-ve-le-hoi-quan-gia-cach-day-mot-the-ky-post183703.html|tựa đề=Lễ hội Quán Giá thế kỷ 20|url-status=live}}</ref>

'''Chùa chiền''': Phủ Quốc Oai nổi tiếng với ''Tứ đại danh thắng'' gồm: [[Chùa Thầy]] trên núi Sài Sơn thờ thánh [[Từ Đạo Hạnh]] và lễ hội mồng 7 tháng ba,<ref>[https://vanban.chinhphu.vn/default.aspx?pageid=27160&docid=178366 QĐ 2408/QĐ-TTg xếp hạng Chùa Thầy và Chùa Tây Phương] chinhphu.vn</ref> [[Chùa Tây Phương]] trên núi Câu Lậu có 18 pho tượng La Hán tuyệt đẹp đi vào thơ ca,<ref>Huy Cận (1960) ''Các vị La Hán chùa Tây Phương''</ref> [[Chùa Quảng Nghiêm|Chùa Trăm Gian]] trên núi Tiên Lữ và [[Chùa Trầm]] trên núi Tử Trầm Sơn xưa kia vua Lê đặt hành cung.<ref>Đại Nam nhất thống chí (2006), ''Sđd'', trang 247</ref> Còn ở Vĩnh Phúc có quần thể [[Khu di tích và danh thắng Tây Thiên|Chùa Tây Thiên]] trên núi Tam Đảo và [[Tháp Bình Sơn|Tháp Chùa Vĩnh Khánh]] đều là [[Di tích quốc gia đặc biệt (Việt Nam)|di tích quốc gia Đặc biệt]].<ref> [https://chinhphu.vn/default.aspx?pageid=27160&docid=182700 QĐ 2367/QĐ-TTg xếp hạng Tháp Chùa Vĩnh Khánh và Tây Thiên] chinhphu.vn</ref>

'''Sông núi''': Ngoài [[Vườn quốc gia Ba Vì]] và [[Vườn quốc gia Tam Đảo]] với khí hậu mát mẻ, từ xưa đã được người Pháp chọn để xây dựng khu nghỉ mát; còn có [[Núi Viên Nam]], [[Đồng Mô|Hồ Đồng Mô]], [[Hồ Suối Hai]], [[Hồ Hòa Bình]], [[Đầm Ao Châu]], [[suối nước nóng Kim Bôi|Suối nóng Kim Bôi]]...

=== Di sản phi vật thể ===
'''Phong tục và lễ hội''': [[Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương]] được UNESCO vinh danh là [[di sản văn hóa phi vật thể]] đại diện của nhân loại.<ref>{{chú thích web|url=http://dsvh.gov.vn/pages/news/preview.aspx?n=621&c=38|tựa đề=Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ|archive-url=https://web.archive.org/web/20140714133002/http://dsvh.gov.vn/pages/news/preview.aspx?n=621&c=38|archive-date=ngày 14 tháng 7 năm 2014|url-status=live|ngày truy cập=}}</ref> Theo ''[[Đại Nam nhất thống chí]]''<ref name=":3">Đại Nam nhất thống chí (2006), ''Sđd'', trang 236</ref> tới thời Nguyễn, ở Bất Bạt và Mỹ Lương vẫn lấy tháng 11 âm lịch (tháng Tý) làm đầu năm mới, theo truyền thống từ thời Vua Hùng.<ref>{{Chú thích web|url=https://thanhnien.vn/nguoi-viet-xua-an-tet-thang-11-am-lich-la-dip-lam-moi-han-gan-185618881.htm|tựa đề=Người Việt xưa ăn Tết tháng 11 âm lịch|tác giả=|ngày=|website=thanhnien.vn|url-status=live}}</ref> Đến nay vẫn có một số nơi ăn Tết, xông đất, mở cửa rừng, ăn đất... (như ở Lập Thạch<ref>{{Chú thích web|url=https://vnexpress.net/tuc-an-dat-duoi-goc-nhin-khoa-hoc-2031842.html|tựa đề=Tục ăn đất ở Lập Thạch, Vĩnh Phúc|tác giả=|ngày=|website=vnexpress.net|url-status=live}}</ref>). Ngoài những lễ hội gắn với các nhân vật lịch sử, còn có các lễ hội giải trí như [[Hội phết Hiền Quan]], [[Lễ hội chọi trâu Hải Lựu|Chọi trâu Hải Lựu]], Hội diều Bá Dương Nội <ref>{{Chú thích web|url=https://dantri.com.vn/van-hoa/le-hoi-thi-tha-dieu-ngan-nam-tuoi-o-lang-ba-duong-noi-mo-rong-quy-mo-20230429132111062.htm|tựa đề=Lễ hội thả diều "ngàn năm tuổi" ở làng Bá Dương Nội|website=dantri.com.vn|url-status=live}}</ref>...


Dân cư nay chủ yếu là người Kinh. Tuy nhiên, theo ''Tổng điều tra dân số 2019'' <ref name="TK">{{Chú thích|title=Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2019|date=|url=http://tongdieutradanso.vn/uploads/data/6/files/files/Ket%20qua%20toan%20bo%20Tong%20dieu%20tra%20dan%20so%20va%20nha%20o%202019_ca%20bia_compressed.pdf|pages=43|publisher=Tổng cục Thống kê|access-date=}}</ref> có 57,14% [[người Mường]] cả nước cư trú ở Xứ Đoài. Trong đó Hà Nội còn 4,29%, Phú Thọ 15,04% và Hòa Bình 37,81%. Từ tên các địa danh cổ (Mê Linh, Văn Lang, sông Hát... đều có nguồn gốc tiếng Mường và vô nghĩa nếu xét theo Hán Nôm<ref>Trần Quốc Vượng (1970), ''Từ truyền thuyết, ngữ ngôn đến lịch sử. Hùng Vương dựng nước'', tập I. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, trang 154</ref>) hay sự tương đồng về văn hóa và đặc biệt là ''giọng nói'' - đều cho thấy dân tỉnh Đoài là người Mường - Việt cổ. Ngoài ra, Phủ Quốc Oai xưa còn có hàng ngàn tù binh [[Người Chăm|Chăm]] sau mỗi lần chinh phạt [[Chiêm Thành]].<ref>{{Chú thích web|url=https://vhnt.org.vn/dau-tich-mot-so-lang-cham-tren-xu-bac/|tựa đề=Dấu tích một số làng Chăm trên đất Bắc|tác giả=Đinh Đức Tiến, Vũ Diệu Trung|website=Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 354, tháng 12 năm 2013|url-status=live}}</ref>
'''Nghệ thuật và mỹ nghệ''': Xứ Đoài có [[hát xoan]] cũng được UNESCO vinh danh là [[di sản văn hóa phi vật thể]] đại diện của nhân loại.<ref>{{Chú thích web|url=http://vov.vn/Home/Hat-Xoan-duoc-cong-nhan-Di-san-phi-vat-the-cua-nhan-loai/201111/192531.vov|tựa đề=Hát xoan - Di sản phi vật thể của nhân loại|website=vov.vn|archive-url=https://web.archive.org/web/20111125183518/http://vov.vn/Home/Hat-Xoan-duoc-cong-nhan-Di-san-phi-vat-the-cua-nhan-loai/201111/192531.vov|archive-date=ngày 25 tháng 11 năm 2011|url-status=live|ngày truy cập=}}</ref> [[rối nước làng Ra|Múa rối nước làng Ra]] là một phường nổi tiếng có từ thời Lý,<ref>{{Chú thích web|url=https://thachthat.hanoi.gov.vn/que-huong/-/asset_publisher/EzSG793xr3UX/content/nghe-thuat-roi-nuoc-lang-ra|tựa đề=Nghệ thuật rối nước làng Ra, Thạch Thất|website=hanoi.gov.vn|url-status=live}}</ref> khởi nguồn từ làng [[Chàng Sơn|mộc Chàng Sơn]] với truyền thống từ thời Hùng Vương.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.qdnd.vn/van-hoa/doi-song/chang-son-ngoi-lang-nghin-nam-tuoi-gin-giu-tinh-hoa-dat-viet-715414|tựa đề=Chàng Sơn - ngôi làng nghìn năm tuổi gìn giữ tinh hoa đất Việt|website=qdnd.vn|url-status=live}}</ref> Ngoài ra còn có hát Chèo Tàu ở Đan Phượng,<ref>{{Chú thích web|url=http://sovhtt.hanoi.gov.vn/le-hoi-hat-cheo-tau-tong-goi/|tựa đề=Lễ hội hát Chèo tàu Tổng Gối|website=hanoi.gov.vn|url-status=live}}</ref> hát Dô ở Quốc Oai,<ref>{{Chú thích web|url=https://nhandan.vn/vuot-qua-tuc-co-tim-lai-hat-do-post721999.html|tựa đề=Hát Dô - tục cổ Xứ Đoài|website=nhandan.vn|url-status=live}}</ref> dòng [[tranh Kim Hoàng]] ở Hoài Đức,<ref>{{Chú thích web|url=https://vovworld.vn/vi-VN/viet-nam-dat-nuoc-con-nguoi/dong-tranh-dan-gian-kim-hoang-468694.vov|tựa đề=Dòng tranh dân gian Kim Hoàng, Hoài Đức|website=vov.vn|url-status=live}}</ref> làng gốm [[Hương Canh]]<ref>{{Chú thích web|url=https://vov.vn/van-hoa-giai-tri/gom-huong-canh-suc-song-cua-mot-lang-nghe-thu-cong-truyen-thong-782942.vov|tựa đề=Gốm Hương Canh, Vĩnh Phúc|website=vov.vn|url-status=live}}</ref> và mây tre đan [[Phú Nghĩa, Chương Mỹ|Phú Vinh]]<ref>{{Chú thích web|url=https://sodulich.hanoi.gov.vn/kham-pha-trai-nghiem/du-lich-lang-nghe/lang-nghe-may-tre-dan-phu-vinh.html|tựa đề=Làng nghề mây tre đan Phú Vinh|website=hanoi.gov.vn|url-status=live}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=https://vnexpress.net/cap-vo-chong-lam-long-ban-gia-30-trieu-dong-mot-chiec-4615729.html|tựa đề=Sản phẩm tinh xảo giá trị cao của làng nghề mây tre đan Phú Vinh|website=vnexpress.net|url-status=live}}</ref>... đều rất đặc sắc. [[Làng lụa Vạn Phúc]] nổi tiếng xưa kia cũng thuộc Xứ Đoài.


Theo ''Sơn Tây tỉnh địa chí'' <ref>Phạm Xuân Độ (1941), ''Sđd'', trang 45</ref>: ''"nhân dân nói tiếng nặng không khác gì nhân dân Trung Kỳ... lắm nơi nhân dân lại dùng các thổ âm khác hẳn với tiếng ta thường nói...".'' Theo PGS.TS Phạm Văn Hảo thì dân tỉnh Đoài nói tiếng Mường được Việt hóa.<ref>{{Chú thích web|url=https://kienthuc.net.vn/giai-ma/chui-cha-khong-bang-pha-tieng-bi-mat-va-su-that-359742.html|tựa đề=Giọng nói khác lạ của Tỉnh Đoài|ngày=2014-07-05|url-status=live}}</ref>
'''Đặc sản:''' [[Bánh hòn]] là món ăn phổ biến khắp Xứ Đoài. Ở Phú Thọ có cọ ỏm, thịt chua, [[cá anh vũ]],<ref name=":0" /> [[bưởi Đoan Hùng]]... Ở Vĩnh Phúc có rau su su, [[cá thính]]... Gần Sơn Tây có [[gà Mía]], [[chè lam]], [[bánh tẻ]], [[cà dầm tương]], [[nem Phùng]], [[bưởi Diễn]], [[miến]] [[Cộng Hòa, Quốc Oai|So]], sữa Ba Vì... Còn người Mường có [[rượu cần]],<ref name=":3" /> [[cơm lam]], cá nướng sông Đà kẹp vỉ tre...


==Hình ảnh==
==Hình ảnh==

Phiên bản lúc 12:56, ngày 3 tháng 11 năm 2023

Tập tin:Đình So, Quốc Oai.jpg
Đình So ở Quốc Oai tiêu biểu cho kiến trúc đình Đoài

Sơn Tây thường gọi là Xứ Đoài là vùng đất cổ của người Việt, một trong bốn trọng Trấn ở phía tây thành Thăng Long xưa và bao trùm một phần các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Hòa BìnhTuyên Quang ngày nay.

Xứ Đoài (màu hồng) ở phía tây Thăng Long
Sơn Tây năm 1891 sau khi cắt đất về 5 tỉnh xung quanh
Bản đồ Sơn Tây tỉnh địa chí 1941
Dãy Tam Đảo (trên) và Ba Vì (dưới)
Tập tin:Đá ong Sơn Tây.jpg
Đá ong phổ biến vùng Sơn Tây

Lịch sử

Các nền văn hóa khảo cổ Việt Nam lần đầu được phát hiện và đặt tên ở đây gồm: Sơn Vi (20.000-12.000 TCN), Phùng Nguyên (2.000-1.500 TCN), Đồng Đậu (1.500-1.000 TCN), Gò Mun (1.000-600 TCN) và rất nhiều các di chỉ khác đã minh chứng cho lịch sử nơi này.[1]

Xứ Đoài được gọi là đất Tổ, có kinh đô của các Vua Hùng, xưa thuộc 03 Bộ: Văn Lang, Phúc Lộc và Chu Diên[2] (hoặc Văn Lang, Gia Ninh và Tân Xương[3]). Ở đây có núi Tản được coi là núi Tổ do Sơn Tinh ngự trị, bên cạnh sông Đà hung dữ của Thủy Tinh và ngã ba Bạch Hạc có Mộc Tinh[4] là những biểu tượng huyền thoại của Xứ Đoài.

Thời thuộc Hán là đất 02 Huyện: Mê Linh và Chu Diên, nơi Hai Bà Trưng khởi nghĩa và đóng đô.[2] Sau là đất quận Tân Xương và một phần các quận Vũ Bình, Giao Chỉ.[5] Thời Tùy - Đường, gồm 02 Châu: Phong và Phúc Lộc, cùng một phần Giao Châu (có huyện Thái Bình và huyện Giao Chỉ) quê hương Lý Nam Đế, Phùng HưngNgô Quyền. Suốt thời Bắc thuộc, nơi đây thường xuyên diễn ra chiến sự tại:[6] cửa Hát Môn[a], căn cứ Cấm Khê[b], hồ Điển Triệt[c], động Khuất Lão[d], bãi Quân Thần[e], thành Ô Diên[f], ấp Đường Lâm[g], thôn Đường Nguyễn[h]...

Thời Ngô - Đinh - Tiền Lê, gồm 03 Châu: Phong, Quốc Oai và Chân Đăng,[7] từng có 5/12 sứ quân cát cứ gồm: Ngô Nhật Khánh (Đường Lâm, Sơn Tây), Kiều Công Hãn (Phong Châu, Vĩnh Tường), Kiều Thuận (Hồi Hồ, Cẩm Khê), Đỗ Cảnh Thạc (Thành Quèn, Quốc Oai) và Nguyễn Khoan (Gia Loan, Yên Lạc)[6] cho thấy đây là vùng đất cốt lõi và quan trọng bậc nhất.

Thời - Trần, gồm 03 Lộ: Tam Giang, Tam Đái và Quốc Oai.[7] Thời Hồ, phòng tuyến hiểm yếu nhất là thành Đa Bang ở Ba Vì thất thủ, giặc Minh tràn vào Thăng Long và chỉ ít lâu sau nước ta lại bị đô hộ.[8] Tên gọi Quốc Oai (vùng đất oai hùng) bị giặc đổi thành Oai Man (man di mọi rợ).[9] Ngoài ra còn 06 Châu: Từ Liêm, Tam Đái, Tuyên Giang, Thao Giang, Đà Giang, Quảng Oai và 01 thành Tam Giang.

Trong khởi nghĩa Lam Sơn, nơi đây ghi dấu chiến thắng bước ngoặt Tốt Động Chúc Động.[10] Đầu thời Hậu Lê gồm 03 Lộ: Quốc Oai Thượng - Trung - Hạ, thuộc Tây Đạo.[7] Năm 1466 đặt là Thừa tuyên Quốc Oai. Năm 1469 đổi là Thừa tuyên Sơn Tây. Năm 1490 gọi là Xứ, sau đổi thành Trấn. Tên Xứ Đoài được cho là xuất phát từ một quẻ trong Kinh Dịch: Đoài phương tĩnh nhất khu (vùng đất yên tĩnh phía tây kinh đô) và kể từ đó nơi đây rất ít bị ảnh hưởng bởi chiến sự.

Thời Nguyễn, cho xây thành cổ đá ong và gọi là Tỉnh từ năm 1831.[7] Trận Sơn Tây năm 1883 với sự tham gia của quân Cờ Đen khiến quân Pháp thiệt hại nhiều nhất kể từ khi gây hấn Bắc Kỳ. Sau đó Xứ Đoài lần lượt bị cắt đất về các tỉnh Hưng Hóa, Hà Đông, Hòa Bình, Tuyên QuangVĩnh Yên. Từ thời Pháp thuộc, nơi này đã trở thành "thủ đô của lính" với rất nhiều các doanh trại và trường quân đội.[11]

Năm 1965, Sơn Tây sáp nhập với Hà Đông thành tỉnh Hà Tây,[12] sau đó từng sáp nhập với Hòa Bình thành tỉnh Hà Sơn Bình. Năm 1968, Phú Thọ sáp nhập với Vĩnh Phúc thành tỉnh Vĩnh Phú.[13] Năm 2008, Hà Tây sáp nhập vào Hà Nội.[14] Tên Sơn Tây nay thường chỉ dùng cho thị xã Sơn Tây, còn tên Xứ Đoài vẫn thường được hiểu là 03 Tỉnh: Phú Thọ, Vĩnh PhúcHà Tây (dù Hà Tây gồm cả Sơn Nam Thượng) trong khi một phần Hòa Bình, Tuyên Quang ít được nhắc tới.

Địa lý

Theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi soạn xong sớm nhất năm 1435 thì Sơn Tây thời Lê có 6 lộ phủ, 24 huyện, 1368 làng xã. Theo Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, trị sở ban đầu ở La Phẩm (Tản Hồng, Ba Vì), sau dời về Cam Giá (Đường Lâm, Sơn Tây). Vị trí địa lý của Sơn Tây khi ấy là:[2]

Trung tâm Xứ Đoài là ngã tư sông Đà, sông Thao, sông Lô và phụ lưu sông Phó Đáy. Tất cả hợp lưu tại Phủ Tam Đái tạo thành sông Hồng, rồi tạo thêm các nhánh sông Hát, sông Nhuệsông Cà Lồ. Ngoài ra còn có sông Tích bắt nguồn từ núi Ba Vì, sông Phan từ núi Tam Đảo, cùng sông Bùisông Bôi ra từ vùng núi Mỹ Lương.[7] Ca dao có câu "Nhất Tam Đái, nhì Khoái Châu" cho thấy Tam Đái là miền đất màu mỡ nhất miền Bắc. Nhưng ngoài Phủ Tam Đái thì chỉ có Phủ Quốc Oai địa hình khá bằng phẳng, còn lại Xứ Đoài đều nhiều đồi núi.

Ở phía đông bắc là dãy Tam Đảo cao 1591m, kéo dài khoảng 60km. Ở phía tây nam gồm dãy Ba Vì cao 1296m, dãy Viên Nam cao 1031m và vùng núi đá vôi Mỹ Lương trải dài cũng khoảng 60km. Hai phía núi chạy song song bao bọc lấy Xứ Đoài. Với thế tay vịn hai bên, kinh đô Phong Châu của các Vua Hùng nằm giữa và sau lưng theo truyền thuyết là 99 ngọn núi voi chầu.[15] Còn Phủ Quốc Oai thì nổi tiếng với danh thắng Thập lục kỳ sơn là 16 ngọn núi sót lại giữa đồng bằng.[16] Cùng với Phủ Quảng Oai kế bên là hai nơi có nghề khai thác đá ong và nhiều kiến trúc cổ xây từ loại vật liệu này.

Thừa tuyên Sơn Tây trong Bản đồ Hồng Đức thời Lê (vẽ xoay 90o)

Hành chính

Thời Lê - 24 huyện

  • Phủ Quốc Oai 5 huyện: Từ Liêm, Đan Phượng, Yên Sơn, Thạch Thất, Phúc Lộc.
  • Phủ Quảng Oai 2 huyện: Minh Nghĩa và Mỹ Lương.
  • Phủ Đà Dương 2 huyện: Tam Nông và Bất Bạt.
  • Phủ Tam Đái 6 huyện: Yên Lãng, Yên Lạc, Bạch Hạc, Tiên Phong, Phù Khang, Lập Thạch.
  • Phủ Lâm Thao 4 huyện: Sơn Vi, Hoa Khê, Hạ Hoa và Thanh Ba.
  • Phủ Đoan Hùng 5 huyện: Tây Lan, Đông Lan, Sơn Dương, Đương Đạo, Tam Dương.

Theo sách Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ 19 [17], bỏ Phủ Đà Dương, gộp thành 5 phủ

Bản đồ Sơn Tây trong Đồng Khánh địa dư chí thời Nguyễn

Thời Nguyễn - chia tách

  • Năm 1831: cắt huyện Tam Nông về tỉnh Hưng Hóa, huyện Từ Liêm về tỉnh Hà Nội.
  • Năm 1886: cắt phía nam huyện Bất Bạt lập xứ Mường tự trị (tỉnh Hòa Bình).
  • Năm 1888: cắt phủ Đoan Hùng về tỉnh Tuyên Quang.
  • Năm 1890: cắt phủ Vĩnh Tường lập tỉnh Vĩnh Yên.
  • Năm 1891: cắt phủ Lâm Thao về tỉnh Hưng Hóa, huyện Mỹ Lương lập đạo Mỹ Đức.
  • Năm 1904: cắt huyện Đan Phượng về tỉnh Hà Đông.

Từ đó tới năm 1965, tỉnh Sơn Tây[18] còn 7 đơn vị hành chính:

  1. Phủ/Huyện Quốc Oai: Hoàng Xá, Thượng Hiệp, Hạ Hiệp, Lật Sài, Liệp Mai, Dã Cát, Thạch Thán, Tiên Lữ, Bất Lạm, Cấn Xá.
  2. Phủ/Huyện Quảng Oai: Tây Đằng, Chu Quyến, Phú Xuyên, Thanh Lạng, Kiều Mộc, Thanh Mai, Vật Lại
  3. Huyện Phúc Thọ: Phù Xa, Cam Thịnh, Cựu Đình, Võng Xuyên, Vĩnh Phúc, Xuân Vân, Phú Châu, Phù Long, Phụng Thượng
  4. Huyện Thạch Thất: Kim Quan, Lạc Trị, Đại Đồng, Hương Ngải, Thạch Xá, Cần Kiệm
  5. Huyện Tùng Thiện: Thanh Vị, Cam Thượng, Nhân Lý, Thụy Phiêu, Mỹ Khê, Bối Sơn, Tường Phiêu, La Gián
  6. Huyện Bất Bạt: Thủ Pháp, Phú Nghĩa, Cẩm Đái, Phú Hữu, Khê Thượng
  7. Thị xã Sơn Tây: lập năm 1924, rộng 150 mẫu (0,54 km2 trong đó Thành cổ Sơn Tây rộng 0,16 km2), trên đất huyện Phúc Thọ và Tùng Thiện ở các làng: Phú Nhi, Thuần Nghệ, Phù Xa, Mai Đạm Chai và Nghĩa Phủ.

Văn hóa

Dân cư

Dân cư nay chủ yếu là người Kinh. Tuy nhiên, theo Tổng điều tra dân số 2019 [19] có 57,14% người Mường cả nước cư trú ở Xứ Đoài. Trong đó Hà Nội còn 4,29%, Phú Thọ 15,04% và Hòa Bình 37,81%. Từ tên các địa danh cổ (Mê Linh, Văn Lang, sông Hát... đều có nguồn gốc tiếng Mường và vô nghĩa nếu xét theo Hán Nôm[20]) hay sự tương đồng về văn hóa và đặc biệt là giọng nói - đều cho thấy dân tỉnh Đoài là người Mường - Việt cổ. Ngoài ra, Phủ Quốc Oai xưa còn có hàng ngàn tù binh Chăm sau mỗi lần chinh phạt Chiêm Thành.[21]

Theo Sơn Tây tỉnh địa chí [22]: "nhân dân nói tiếng nặng không khác gì nhân dân Trung Kỳ... lắm nơi nhân dân lại dùng các thổ âm khác hẳn với tiếng ta thường nói...". Theo PGS.TS Phạm Văn Hảo thì dân tỉnh Đoài nói tiếng Mường được Việt hóa.[23]

Hình ảnh

Từ trái sang: Đình Tường Phiêu, Tháp Bình Sơn, Chùa Tây Phương, Đền Hùng, Chùa Thầy, Lăng Ngô Quyền, Nhà thờ Tam Đảo, Đền Hát Môn, Thành cổ Sơn Tây

Từ trái sang: Cà dầm tương, Bánh chè lam, Cọ ỏm, Bánh hòn, Cá thính, Nem Phùng, Cỗ Sơn Tây có bánh tẻ, gà Mía; Cỗ lá người Mường có cá nướng, măng rừng... Tranh gà Kim Hoàng, lồng bàn mây tre đan Phú Vinh, bình gốm Hương Canh, quạt giấy Chàng Sơn.

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ Nơi Hai Bà Trưng khởi nghĩa, nay là xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ.
  2. ^ Nơi Hai Bà hy sinh dưới chân núi Ba Vì - Viên Nam, vùng Hòa Lạc - Xuân Mai.
  3. ^ Nơi Lý Nam Đế giao chiến với quân Lương, nay ở xã Tứ Yên, huyện Sông Lô.
  4. ^ Nơi Lý Nam Đế rút về và mất, nay là xã Vạn Xuân, huyện Tam Nông.
  5. ^ Nơi Lý Phật Tử giao chiến với Triệu Việt Vương, nay là xã Thượng Cát, quận Bắc Từ Liêm.
  6. ^ Được cho là kinh đô của Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế và Lý Phật Tử, nay thuộc xã Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng.
  7. ^ Nơi sinh ra hai vua Phùng Hưng và Ngô Quyền, nay là xã Đường Lâm, TX. Sơn Tây
  8. ^ Nơi vua Ngô Xương Văn đi dẹp loạn tại huyện Thái Bình và tử trận.
  9. ^ Thanh Hóa khi ấy gồm cả phía nam Hòa Bình và Ninh Bình, sau chuyển về trấn Sơn Nam.

Tham khảo

  1. ^ Trương Hữu Quýnh chủ biên (1997), Đại Cương Lịch sử Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, Tập 1, trang 15-43
  2. ^ a b c Dư địa chí (1960), Sđd, trang 28-30.
  3. ^ Trần Quốc Vượng dịch (2005), Việt sử lược, quyển I, trang 17-19
  4. ^ Lê Hữu Mục dịch (1961), Lĩnh Nam chích quái, quyển I và II, trang 48-78.
  5. ^ Đào Duy Anh (1964), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nhà xuất bản Khoa học, trang 58-59.
  6. ^ a b Cương mục tiền biên, quyển II, III, IV, V.
  7. ^ a b c d e Đồng Khánh địa dư chí (2003), Sđd, trang 903.
  8. ^ Cương mục chính biên, quyển XII.
  9. ^ Minh Thực Lục quan hệ Trung Quốc - Việt Nam. Hồ Bạch Thảo dịch (2010), NXB Hà Nội, tập 1, vb 280.
  10. ^ Cương mục chính biên, quyển XIII.
  11. ^ “Tình quân dân ở "Thủ đô của lính". Báo Hà Nội Mới. 26 tháng 5 năm 2010.
  12. ^ “Quyết định 103-NQ-TVQH”. 21 tháng 4 năm 1965.
  13. ^ “Nghị quyết 504-NQ-TVQH”. 26 tháng 1 năm 1968.
  14. ^ “Nghị quyết 15-2008-QH12”. 29 tháng 5 năm 2008.
  15. ^ “Đền Hùng: Vùng đất thắng cảnh, phong thủy và địa linh”. 29 tháng 4 năm 2023.
  16. ^ “Thập lục kỳ sơn của Phủ Quốc Oai”. 1 tháng 3 năm 2023.
  17. ^ Viện Hán Nôm (1981), Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ 19, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, trang 36
  18. ^ Phạm Xuân Độ (1941), Sđd, trang 212
  19. ^ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2019 (PDF), Tổng cục Thống kê, tr. 43
  20. ^ Trần Quốc Vượng (1970), Từ truyền thuyết, ngữ ngôn đến lịch sử. Hùng Vương dựng nước, tập I. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, trang 154
  21. ^ Đinh Đức Tiến, Vũ Diệu Trung. “Dấu tích một số làng Chăm trên đất Bắc”. Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 354, tháng 12 năm 2013.
  22. ^ Phạm Xuân Độ (1941), Sđd, trang 45
  23. ^ “Giọng nói khác lạ của Tỉnh Đoài”. 5 tháng 7 năm 2014.

Liên kết ngoài