Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Abdullah của Ả Rập Xê Út”
Sửa chính tả, Sửa câu cú, Thêm liên kết Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi qua ứng dụng di động |
nKhông có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 1: | Dòng 1: | ||
{{Infobox royalty |
|||
{{Thông tin nhân vật hoàng gia |
|||
|name = Abdullah bin Abdulaziz |
|||
| name = Abdullah <br /><big>{{lang|ar|الملك عبد الله}}</big> |
|||
|image = King Abdullah bin Abdul al-Saud January 2007.jpg |
|||
| title =[[Vua Ả Rập Saudi]] |
|||
|image_size = 180px |
|||
| image =Abdullah of Saudi Arabia.jpg |
|||
|caption = Quốc vương Abdullah vào năm 2007 |
|||
| caption = |
|||
|title = [[vua Ả Rập Xê Út|Quốc vương Ả Rập Xê Út]] |
|||
| reign =[[1 tháng 8]] năm [[2005]] – [[23 tháng 1]] năm [[2015]] |
|||
|succession = [[vua Ả Rập Xê Út|Quốc vương Ả Rập Xê Út]]<br>[[Thủ tướng Ả Rập Xê Út|Thủ tướng]] |
|||
| full name =Abdullah bin Abdul Aziz Al Saud |
|||
|reign = 1 tháng 8 năm 2005 – {{nowrap|23 tháng 1 năm 2015}} |
|||
| investiture = |
|||
|cor-type = [[Bay'ah]] |
|||
| predecessor =[[Fahd của Ả Rập Saudi|Fahd]] |
|||
|coronation = 2 tháng 8 năm 2005 |
|||
| successor =[[Salman của Ả Rập Saudi|Salman]] |
|||
|predecessor = [[Fahd của Ả Rập Xê Út|Fahd]] |
|||
| spouse = 4 hoàng phi<ref>[http://www.nndb.com/people/948/000093669/ Noteworthy Name Database]</ref> |
|||
|suc-type1 = Thái tử |
|||
| issue = |
|||
|successor1 = [[Sultan bin Abdulaziz|Sultan]] (2005–11)<br />[[Nayef bin Abdulaziz|Nayef]] (2011–12)<br />[[Salman của Ả Rập Xê Út|Salman]] (2012–15) |
|||
| royal house =[[Dòng họ Saud]] |
|||
|successor2 = [[Salman của Ả Rập Xê Út|Salman]] |
|||
| royal anthem = |
|||
|reign1 = 2 tháng 1 năm 1996 – {{nowrap|1 tháng 8 năm 2005}} |
|||
| father =[[Ibn Saud|Abdulaziz bin Abdulrahman Al Saud]] |
|||
|reign-type1 = Nhiếp chính |
|||
| mother =[[Fahda bint Asi Al Shuraim]] |
|||
|spouses = {{Collapsible list|1=Alanoud Al Fayez (1972–2003; ly hôn)<br />Jawahir bint Ali Hussein<br />Aida Fustuq (ly hôn)<br />Munira Al Otaishan<br />Munira bint Abdullah Al Al Shaykh <br />Tathi bint Mishan al Faisal al Jarba<br />Hussa bint Trad bin Sattam ash-Sha'lan<br />(ít nhất 23 người vợ khác)}} |
|||
| date of birth ={{ngày sinh|1924|8|1|df=y}} |
|||
|issue = {{Collapsible list|1=[[Khalid bin Abdullah bin Abdulaziz Al Saud|Hoàng tử Khalid]]<br />[[Mutaib bin Abdullah|Hoàng tử Mutaib]]<br />[[Faisal bin Abdullah|Hoàng tử Faisal]]<br />[[Mishaal bin Abdullah Al Saud|Hoàng tử Mishaal]]<br />[[Abdulaziz bin Abdullah bin Abdulaziz Al Saud|Hoàng tử Abdulaziz]]<br />[[Turki bin Abdullah Al Saud|Hoàng tử Turki]]<br />Hoàng tử Badr<br />Công chúa Nora<br />Công chúa Aliya<br />Công chúa Adila<br />Công chúa Maryam<br />Công chúa Sahab<br />Công chúa Sahar<br />Công chúa Maha<br />Công chúa Hala<br />Công chúa Jawahir<br />Công chúa Anoud<br />Hoàng tử Majed<br />Hoàng tử Saud<br />Hoàng tử Bandar}} |
|||
| place of birth =[[Riyadh]], [[Ả Rập Saudi]] |
|||
|full name = Abdullah bin Abdulaziz bin Abdul Rahman bin Faisal bin Turki |
|||
| date of death = |
|||
|house = [[Nhà Saud]] |
|||
| place of death = |
|||
|father = [[Ibn Saud|Abdulaziz]] |
|||
|}} |
|||
|mother = [[Fahda bint Asi Al Shuraim|Fahda Al Shuraim]] |
|||
|birth_date = {{birth date|1924|8|1|df=y}} |
|||
|birth_place = [[Riyadh]], [[Vương quốc Nejd]]<br />(nay là [[Ả Rập Xê Út]]) |
|||
|death_date = {{death date and age|2015|1|23|1924|8|1|df=y}} |
|||
|death_place = [[Riyadh]], [[Ả Rập Xê Út]] |
|||
|date of burial = 23 tháng 1 năm 2015 |
|||
|place of burial = Nghĩa trang Al Oud, Riyadh |
|||
|religion = [[Hồi giáo Sunni]] |
|||
}} |
|||
'''Abdullah bin Abdulaziz Al Saud''' ({{lang-ar|عبدالله بن عبدالعزيز آل سعود}}, ''{{transl|ar|ALA|‘Abd Allāh ibn ‘Abd al-‘Azīz Āl Sa‘ūd}}'', phát âm Najd: {{IPA-ar|ʢæbˈdɑɫ.ɫɐ ben ˈʢæbdæl ʢæˈziːz ʔæːl sæˈʢuːd|}}; 1 tháng 8 năm 1924 – 23 tháng 1 năm 2015) là [[vua Ả Rập Xê Út|quốc vương]] của [[Ả Rập Xê Út]] từ năm 2005 đến năm 2015.<ref>{{cite web|title=King Abdullah bin Abdulaziz |url=https://www.saudiembassy.net/about/KingAbdullah.aspx |work=18 September 2015 |deadurl=yes |archiveurl=https://web.archive.org/web/20150726154637/http://www.saudiembassy.net/about/KingAbdullah.aspx |archivedate=26 July 2015 |df=dmy }}</ref> Abdullah là con của vị quốc vương khai quốc [[Ibn Saud]]. Ông từng nắm giữ các chức vụ quan trọng trong hầu hết thời gian sau khi trưởng thành. Năm 1961, ông nhận chức vụ đầu tiên là thống đốc của [[Mecca]].<ref name=whobbc>{{cite news|title=Who's who: Senior Saudis|url=http://news.bbc.co.uk/2/hi/middle_east/7068977.stm|accessdate=27 April 2012|work=BBC|date=30 October 2007}}</ref> Tiếp đó, ông trở thành tư lệnh của Vệ binh Quốc gia Ả Rập Xê Út, và giữ chức vụ này ngay cả sau khi đăng cơ làm quốc vương. Ông cũng được thăng làm thứ trưởng bộ quốc phòng và trở thành thái tử khi [[Fahd của Ả Rập Xê Út|Fahd]] đăng cơ vào năm 1982. Sau khi Quốc vương Fahd bị một cơn đột quỵ nặng vào năm 1995, Abdullad trở thành người cai trị Ả Rập Xê Út trên thực tế. |
|||
Trong thời gian cai trị, ông duy trì quan hệ mật thiết với Mỹ và Anh, chi hàng tỉ USD để mua trang thiết bị phòng thủ từ hai đối tác này.<ref>[http://www.aljazeera.com/news/middleeast/2010/10/20101020173353178622.html US confirms $60bn Saudi arms deal] ''Al Jazeera'' 20 October 2010</ref> Ông duy trì được nguyên trạng bất chấp các làn sóng [[Biểu tình Ả Rập Xê Út 2011–2012|kháng nghị]] trong nước vào [[Mùa xuân Ả Rập]].<ref>[http://www.aljazeera.com/programmes/rizkhan/2010/10/201010198717987944.html Saudi Arabia: Fundamental change? ] ''Al Jazeera'' 19 October 2010</ref> Hai vị thái tử Sultan và Nayef qua đời trước ông, Abdullah sau đó phong bộ trưởng quốc phòng 76 tuổi là [[Salman bin Abdulaziz Al Saud]] làm thái tử. Theo nhiều tường thuật, Abdullah kết hôn 30 lần và có hơn 35 con.<ref name="MyUser_The_Daily_Telegraph_January_24_2015c">{{cite web|url=http://www.telegraph.co.uk/news/obituaries/11322271/King-Abdullah-Ibn-Abdulaziz-al-Saud-obituary.html|title=King Abdullah Ibn Abdulaziz Al Saud - Obituary|newspaper=The Daily Telegraph|date=22 January 2015|accessdate=24 January 2015}}</ref><ref name="MyUser_The_Guardian_January_24_2015c">{{cite web|url=https://www.theguardian.com/world/2015/jan/22/king-abdullah-of-saudi-arabia|title=King Abdullah of Saudi Arabia Obituary|newspaper=The Guardian |date=22 January 2015|author=Madawi Al Rasheed|accessdate=24 January 2015}}</ref><ref name="MyUser_Nypost.com_January_24_2015c">{{cite web |url=https://nypost.com/2014/04/19/a-saudi-arabian-princess-reveals-her-life-of-hell/|title=‘We are hostages': A Saudi princess reveals her life of hell |newspaper=New York Post|accessdate=24 January 2015}}</ref><ref name="auto">{{cite web|url=http://asianhistory.about.com/od/profilesofasianleaders/p/AbdullahProfile.htm|title=King Abdullah of Saudi Arabia|work=Asian History|date=1 August 2005|accessdate=23 October 2011}}</ref> Tài sản cá nhân của ông ước tính là 18 tỉ USD, nhờ đó trở thành nguyên thủ quốc gia giàu có thứ ba trên thế giới vào năm 2008.<ref>{{cite journal|author=Anita Singh|url=http://www.telegraph.co.uk/news/worldnews/2598278/The-worlds-richest-royals.html|title=The world's richest royals|work=The Telegraph|date=21 August 2008|accessdate=16 October 2012}}</ref> |
|||
'''Abdullah bin Abdul Aziz Al Saud''' ({{lang-ar|عبد الله بن عبد العزيز آل سعود}}, sinh tháng 8 năm 1924<ref>[http://www.highbeam.com/doc/1G1-170168731.html SAUDI ARABIA - Abdullah Ibn Abdul-Aziz Al-Saud.]</ref>,) là [[vua Ả Rập Saudi]]. Ông đã lên ngôi ngày [[1 tháng 8]] năm [[2005]], sau khi người anh cùng cha khác mẹ của ông là [[Fahd của Ả Rập Saudi|vua Fahd]] băng hà. Lúc làm Thái tử, ông đã làm [[nhiếp chính|nhiếp chính vương]] và do đó là người trị vì ''thực tế'' (de facto) của [[Ả Rập Saudi]] từ ngày [[1 tháng 1]] năm [[1996]]<ref>[http://www.timesonline.co.uk/tol/news/world/middle_east/article550375.ece "King Fahd ibn Abdel-Aziz Al Saud: The Times obituary"], ''Times Online'', [[1 tháng 8]] năm [[2005]]. Truy cập [[29 tháng 3]] năm [[2008]].</ref> do vua Fahd bị đột quỵ và không còn khả năng trị vì. Ông đã lên ngôi chính thức vào ngày 3 tháng 8 năm [[2005]], nhưng trên thực tế ông đã được thừa hưởng ngôi vua ngay sau khi anh trai cùng cha khác mẹ của ông băng hà.<ref>[http://news.bbc.co.uk/1/hi/world/middle_east/4734175.stm King Fahd of Saudi Arabia dies], ''BBC News'', [[1 tháng 8]] năm [[2005]]. Truy cập [[29 tháng 3]] năm [[2008]].</ref>. |
|||
==Thời kỳ đầu== |
|||
Abdullah cũng làm Thủ tướng và Tư lệnh Quốc vệ Saudi. Ông là Chủ tịch Hội đồng Kinh tế tối cao, Chủ tịch Cao ủy dầu mỏ và khoáng sản, Chủ tịch Trung tâm đối thoại quốc gia vua Abdulaziz, Chủ tịch Hội đồng công vụ và người đứng đầu Hội đồng Quân vụ. |
|||
[[File:بدوي1.JPG|thumbnail|left|upright=.75|Quốc vương Abdullah khi còn nhỏ.]] |
|||
Abdullah là con trai thứ 5<ref>[http://www.upi.com/InternationalIntelligence/view.php?StoryID=20061227-082153-2822r "Analysis: Arabian Medicis"]</ref> (trong số 37 con trai) của [[Ibn Saud]], người sáng lập ra Ả Rập Saudi hiện đại, kế vị ngai vàng. |
|||
Abdullah được thuật là sinh vào ngày 1 tháng 4 năm 1924 tại [[Riyadh]].<ref>{{cite web|url=http://www.saudiembassy.net/about/KingAbdullah.aspx|title=King Abdullah bin Abdulaziz|work=Saudi Embassy|accessdate=18 June 2012|deadurl=yes|archiveurl=https://web.archive.org/web/20120618150620/http://www.saudiembassy.net/about/KingAbdullah.aspx|archivedate=18 June 2012|df=dmy-all}}</ref><ref>{{cite web|title=King of the Kingdom of Saudi Arabia|url=http://www.mohe.gov.sa/en/studyinside/aboutKSA/Pages/kings-of-Saudi-Arabia.aspx|work=Ministry of Higher Education of Saudi Arabia|accessdate=28 June 2012|location=Saudi Arabia|date=4 August 2010|deadurl=yes|archiveurl=https://archive.is/20121224212028/http://www.mohe.gov.sa/en/studyinside/aboutKSA/Pages/kings-of-Saudi-Arabia.aspx|archivedate=24 December 2012|df=dmy-all}}</ref><ref>{{cite web|title=Kingdom Kings |url=http://beta.mci.gov.sa/English/AboutKingdom/Pages/KingdomKings.aspx |work=Ministry of Commerce and Industry – Kingdom of Saudi Arabia |accessdate=28 June 2012 |location=Saudi Arabia |deadurl=yes |archiveurl=https://web.archive.org/web/20121022080810/http://beta.mci.gov.sa/English/AboutKingdom/Pages/KingdomKings.aspx |archivedate=22 October 2012 }}</ref> Tuy nhiên, một số nguồn cho rằng mốc thời gian này không chính xác, và ông thực ra lớn hơn khoảng tám tuổi.<ref name="National Interest">{{cite web|title=Too Many Saudi Princes|url=http://nationalinterest.org/commentary/long-lives-the-king-7820|publisher=The National Interest|accessdate=9 April 2016|page=1|language=English|date=7 December 2012|quote=King Abdullah’s advanced age—a leaked U.S. cable placed him at ninety-six, much older than the previously estimated eighty-eight or eighty-nine}}</ref> Ông là con trai thứ mười của [[Ibn Saud|Quốc vương Abdulaziz]].<ref>{{cite journal|author=Nabil Mouline|title=Power and generational transition in Saudi Arabia|journal=Critique internationale|date=April–June 2010|volume=46|pages=1–22|url=http://www.ceri-sciencespo.com/publica/critique/46/ci46_nm.pdf|accessdate=24 April 2012}}</ref> Mẹ ông tên là [[Fahda bint Asi Al Shuraim]], bà xuất thân từ [[vương triều Rashid]], từng là đối thủ trường kỳ của vương triều Saud.<ref>''A Brief History of Saudi Arabia'' by James Wynbrandt, Fawaz A. Gerges.</ref><ref name=Chai2005>{{cite book|author=Winberg Chai|title=Saudi Arabia: A Modern Reader|url=https://books.google.com/books?id=lh4bENPP_HEC&pg=PA193|accessdate=26 February 2013|date=22 September 2005|publisher=University Press|isbn=978-0-88093-859-4|page=193}}</ref> Bà là hậu duệ của bộ lạc Shammar hùng mạnh – và là con gái của cựu tù trưởng bộ lạc là Asi Shuraim.<ref>{{cite web|author=Hassan Hanizadeh |title=Saudi Arabia without King Abdullah |url=http://criticalppp.com/archives/30509 |archive-url=https://web.archive.org/web/20101206193346/http://criticalppp.com/archives/30509 |dead-url=yes |archive-date=6 December 2010 |work=PPP |accessdate=29 April 2012 |year=2010 }}</ref> Bà mất khi Abdullah được sáu tuổi.<ref name=nweek9>{{cite journal|title=The Monarch who Declared His own Revolution|journal=Newsweek|date=30 March 2009|volume=153|issue=13|page=40|url=https://www.questia.com/read/1G1-196147561/the-monarch-who-declared-his-own-revolution|accessdate=30 August 2013|author=Christopher Dickey}} {{Subscription required|via=Questia}}</ref> He had younger full-sisters.<ref name=nweek9/> |
|||
[[Madawi Al-Rasheed]] cho rằng do xuất thân của mẹ ông và việc ông từng bị trở ngại về khả năng nói, nên tiến trình thăng tiến của ông bị trì hoãn so với các con trai khác của Quốc vương Abdulaziz.<ref name="Al Rasheed 2009 587–601">{{cite journal|author=Madawi Al Rasheed|title=Modernizing authoritarian rule in Saudi Arabia|journal=Contemporary Arab Affairs|year=2009|volume=2|issue=4|pages=587–601|doi=10.1080/17550910903244976|url=https://dx.doi.org/10.1080/17550910903244976}}</ref> |
|||
Tài sản của ông ước khoảng 23 tỷ USD.<ref>[http://money.aol.co.uk/worlds-richest-royals/article/20060704121009990014/ "Royal's Rich List"].</ref> |
|||
[[File:King Abdullah, Commander of Saudi Arabian National Guard.jpg|thumb|Abdullah khi là tư lệnh của Vệ binh Quốc gia]] |
|||
== Làm thân với Syria == |
|||
Năm 1963, Abdullah trở thành tư lệnh của Vệ binh Quốc gia Ả Rập Xê Út (SANG). Chức vụ này cho phép ông củng cố vị trí của mình trong [[Nhà Saud]]. SANG từng dựa trên [[Ikhwan]], song đã trở thành một lực lượng quân sự hiện đại dưới quyền chỉ huy của ông. Từ năm 1985, SANG cũng bảo trợ lễ hội Janadiriyah, nhằm thể chế hoá vũ đạo dân gian truyền thống, các cuộc đua lạc đà và di sản bộ lạc.<ref name="Al Rasheed 2009 587–601"/> |
|||
Abdullah đến thủ đô [[Damas]]cus của [[Syria]] ngày 7 tháng 10 năm 2009, để làm hòa với quốc gia này và tăng cường sự hợp tác trong một nỗ lực mà nhiều người hy vọng sẽ thúc đẩy kế hoạch hòa bình cho vùng [[Trung Đông|Trung Ðông]] của [[Tổng thống Hoa Kỳ]] [[Barack Obama]]. Chuyến viếng thăm hai ngày của Abdullah, lần đầu tiên kể từ khi nắm quyền năm 2005, chú trọng vào tình hình bất ổn ở [[Liban]] và lãnh thổ [[Palestine]], nơi các nhóm đối nghịch được hai bên hỗ trợ đang tranh giành quyền lực. Hoàng gia Ả Rập Saudi, một đồng minh thân cận với [[Hoa Kỳ]], cũng tìm cách đưa [[Tổng thống Syria]] [[Bashar al-Assad]] ra khỏi quỹ đạo ngoại giao của [[Iran]] để cộng tác chặt chẽ hơn với các quốc gia [[Ả Rập]]. |
|||
[[Khalid của Ả Rập Xê Út|Quốc vương Khalid]] bổ nhiệm Abdullah làm phó thủ tướng thứ hai vào tháng 3 năm 1975, phán ánh vị thế của ông là đứng thứ hai trong thứ bậc kế vị.<ref name=shenderson94>{{cite web|author=Simon Henderson|title=After King Fahd|url=http://www.washingtoninstitute.org/uploads/Documents/pubs/PP_37_AFTERKINGFAHD.pdf|work=Washington Institute|accessdate=2 February 2013|format=Policy Paper|year=1994}}</ref><ref name=Safran1985>{{cite book|author=Nadav Safran|title=Saudi Arabia: The Ceaseless Quest for Security|url=https://books.google.com/books?id=zSkIi_1T1FsC&pg=PR17|accessdate=4 April 2013|year=1985|publisher=Cornell University Press|isbn=978-0-8014-9484-0|page=218}}</ref> Nói cách khác, Hoàng tử Abdullah trở thành nhân vật đứng thứ ba trong chính quyền Ả Rập Xê Út.<ref name="HaleySnider1979">{{cite book|author1=P. Edward Haley|author2=Lewis W. Snider|author3=M. Graeme Bannerman|title=Lebanon in Crisis: Participants and Issues|url=https://books.google.com/books?id=mdrqhFpLkC8C&pg=PR9|accessdate=16 October 2012|year=1979|publisher=Syracuse University Press|isbn=978-0-8156-2210-9|page=118}}</ref> Tuy nhiên, việc bổ nhiệm ông gây ra xích mích trong Nhà Saud.<ref name="washingtoninstitute.org">{{cite web|author=Simon Henderson|url=http://www.washingtoninstitute.org/uploads/Documents/pubs/PolicyFocus96.pdf|title=After King Abdullah|work=Washington Institute |accessdate=28 July 2012|format=Policy Paper|date=August 2009}}</ref> Thái tử đương thời là [[Fahd của Ả Rập Xê Út|Fahd]] cùng bảy vị hoàng tử cùng mẹ với ông ta ủng hộ việc bổ nhiệm một trong số họ là [[Sultan bin Abdul-Aziz Al Saud|Hoàng tử Sultan]].<ref name="washingtoninstitute.org"/> Abdullah bị áp lực giao lại quyền kiểm soát SANG để đổi lấy việc được bổ nhiệm làm phó thủ tướng thứ hai. Đến tháng 8 năm 1977, việc này trở thành một đề tài của hàng trăm hoàng tử tại [[Riyadh]].<ref name="washingtoninstitute.org"/> Abdullah không từ bỏ quyền lực tại SANG vì ông lo ngại rằng điều này sẽ làm yếu quyền uy của mình.<ref name="washingtoninstitute.org"/> |
|||
Chuyến viếng thăm này là chỉ dấu mới nhất về sự ấm áp trở lại trong mối giao thiệp giữa Syria và Ả Rập Saudi, vốn bị băng giá sau vụ ám sát cựu [[Thủ tướng Liban]] [[Rafik Hariri]]. Ông Hariri là một bạn thân của gia đình nhà vua Ả Rậo Saudi, và quốc gia này cũng như nhiều nước khác trên thế giới tin rằng Syria ra lệnh ám sát ông Hariri, một điều mà Damascus bác bỏ. "Chuyến đi này vô cùng quan trọng, vì tình trạng căng thẳng giữa Syria và Ả Rập Saudi trong vài năm qua," theo Sami Moubayed, một phân tích gia [[chính trị Syria]]. Moubayed cho rằng cuộc viếng thăm này có thể mang hòa bình đến gần hơn cho [[Israel]] và các quốc gia Ả Rập. |
|||
==Thái tử và nhiếp chính== |
|||
==Qua đời== |
|||
[[File:Quayle desert storm.jpg|thumb|left|Abdullah cùng Phó Tổng thống Hoa Kỳ [[Dan Quayle]]]] |
|||
Ông qua đời ngày 23 tháng 1 năm 2015, sau một thời gian dài mang bệnh viêm phổi. Arab Saudi không tổ chức quốc tang hay tang lễ lớn cho ông, cũng không treo cờ rũ và ông được an táng tại một ngôi mộ vô danh ở nghĩa trang Al Oud, Riyadh. Vì theo tín ngưỡng của phái Wahhabi, với niềm tin rằng tất cả mọi người đều bình đẳng trước Thượng đế khi chết.<ref>[http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/tu-lieu/vi-sao-quoc-vuong-arab-saudi-duoc-chon-trong-mo-vo-danh-3138421.html Vì sao quốc vương Arab Saudi được [[chôn cất|chôn]] trong mộ vô danh], VnExpress, 24/1/2015 |
|||
Đến ngày 13 tháng 6 năm 1982, tức ngày Quốc vương Khalid qua đời, Fahd trở thành quốc vương còn Abdullah trở thành thái tử và vẫn giữ lại chức vụ tư lệnh của Vệ binh Quốc gia. Trong thời gian là thái tử, Abdullah được mô tả là một người ủng hộ hoà giải.<ref name="Zuhur">{{cite book|author=Sherifa Zuhur|title=Saudi Arabia: Islamic Threat, Political reform, and the Global War on Terror|url=https://books.google.com/books?id=lRwONIws0FEC&pg=PA1|accessdate=16 January 2013|publisher=DIANE Publishing|isbn=978-1-4289-1011-9|page=17}}</ref> Ông nỗ lực nhằm tập hợp một lượng lớn các hoàng tử đứng ngoài lề vốn đã bất mãn trước viễn cảnh việc kế vị được truyền trong các anh em có mẹ thuộc gia tộc Sudairi. Việc ông kiểm soát Vệ binh Quốc gia cũng là một yếu tố chủ chốt giúp ông trở thành thái tử thành công.<ref>{{cite journal|author=Mai Yamani|title=From fragility to stability: A survival strategy for the Saudi monarchy|url=http://www.maiyamani.com/pdf/From%20Fragility%20to%20stability.pdf|journal=Contemporary Arab Affairs|year=2009|volume=2|issue=1|pages=90–105|doi=10.1080/17550910802576114|accessdate=11 April 2012|deadurl=yes|archiveurl=https://web.archive.org/web/20130916085529/http://www.maiyamani.com/pdf/From%20Fragility%20to%20stability.pdf|archivedate=16 September 2013|df=dmy-all}}</ref> Đến khi Quốc vương Fahd bị mất năng lực do đột quỵ vào năm 1995,<ref>[http://www.timesonline.co.uk/tol/news/world/middle_east/article550375.ece "King Fahd ibn Abdel-Aziz Al Saud: The Times obituary"], ''Times Online'', 1 August 2005. Retrieved 29 March 2008.</ref> Thái tử Abdullah có vai trò là người nhiếp chính trên thực tế tại Ả Rập Xê Út. |
|||
</ref> |
|||
==Ảnh hưởng== |
|||
Đến tháng 5 năm 2001, Thái tử Abdullah không chấp nhận lời mời sang thăm [[Washington D.C.|Washington]] do Hoa Kỳ ủng hộ [[Israel]] trong cuộc nổi dậy lần thứ nhì của người Palestine. Ông cũng tỏ ra thiết tha hơn so với Quốc vương Fahd trong việc cắt giảm chi tiêu chính phủ và mở cửa Ả Rập Xê Út về mặt kinh tế. Ông thúc đẩy việc đưa Ả Rập Xê Út làm thành viên của [[Tổ chức Thương mại Thế giới]], khiến một số người bất ngờ.<ref>{{cite journal|author=Daniel L. Byman|title=The Implications of Leadership Change in the Arab World|journal=Political Science Quarterly|date=Spring 2005|volume=120|issue=1|pages=59–83|doi=10.1002/j.1538-165x.2005.tb00538.x|jstor=20202473}}</ref> |
|||
Vua Abdullah, vào năm 2012, được xem là người Hồi giáo có ảnh hưởng lớn nhất trong số 500 người Hồi giáo trong 4 năm trước đó.<ref name=blitz12>{{chú thích báo|last=Choudhury|first=Sohail|title=The philanthropist Saudi King|url=http://www.weeklyblitz.net/2381/the-philanthropist-saudi-king|accessdate=ngày 9 tháng 6 năm 2012|work=Blitz|date=ngày 9 tháng 6 năm 2012}}</ref><ref>{{chú thích web|title=The Muslims 500: The World's Most Influential Muslims|url=http://themuslim500.com/|accessdate=ngày 9 tháng 2 năm 2012}}</ref> Trong tháng 12 năm 2012, [[Forbes]] đã bình chọn ông là nhân vật quyền lực thứ 7 trong danh sách của "Nhân vật quyền lực nhất Thế giới" cho năm 2012, là người Arab duy nhất trong 10 người đầu bảng (top ten).<ref name=alarabiya712>{{chú thích báo|title=Saudi King Abdullah named 7th most powerful figure in the world|url=http://english.alarabiya.net/articles/2012/12/07/253856.html|accessdate=ngày 8 tháng 12 năm 2012|work=Al Arabiya|date=ngày 7 tháng 12 năm 2012}}</ref> |
|||
Năm 2002, ông phát triển một Sáng kiến Hoà bình Ả Rập, thường được gọi là "kế hoạch Abdullah", nhằm đạt được một giải pháp đồng thuận về [[xung đột Ả Rập-Israel]].<ref name=bruce10>{{cite journal|author=Bruce Maddy-Weitzman|title=Arabs vs. the Abdullah Plan|journal=The Middle East Quarterly|date=Summer 2010|pages=3–12|url=http://www.meforum.org/2729/arabs-vs-abdullah-plan|accessdate=14 August 2013}}</ref> Sáng kiến được thông qua tại hội nghị thượng đỉnh Beirut của [[Liên đoàn Ả Rập]] trong tháng 3 năm 2002.<ref name=bruce10/> |
|||
== Tham khảo == |
|||
{{thể loại Commons|Abdullah of Ả Rập Saudi}} |
|||
{{Tham khảo}} |
|||
Đến cuối năm 2003, sau khi nhánh [[al-Qaeda]] tại Ả Rập Xê Út tiến hành một loạt vụ đánh bom, đe doạ làm mất ổn định quốc gia, Thái tử Abdullah cùng với giới tinh hoa bắt đầu giải quyết các mối lo chính trị. Một trong các động thái như vậy là kế hoạch của ông nhằm thúc đẩy khoan dung hơn với đa dạng tôn giáo và kiềm chế thế lực của chủ nghĩa cực đoan chính trị-tôn giáo trong vương quốc, dẫn đến việc thành lập Đối thoại Quốc gia. Đến mùa hè năm 2003, Abdullah có cống hiến đáng kể đằng sau việc thành một một diễn đàn đối thoại quốc gia, giúp đưa các nhân vật tôn giáo hàng đầu thảo luận với nhau, trong đó có một cuộc họp có sự tham gia của học giả Shia ưu tú Hasan al-Saffar, cũng như một nhóm các giáo sĩ [[Sunni]] trước đây từng bày tỏ không ưa người Shia thiểu số.<ref>{{cite journal|author=Toby Jones|title=Saudi Arabia's not so New Anti-Shi'ism|journal=Middle East Report|year=2007|volume=242|pages=29–32|jstor=25164776}}</ref> |
|||
{{Thời gian sống|1924|2015|Abdullah bin Abdulaziz al-Saud}} |
|||
{{Dữ liệu nhân vật <!-- Siêu dữ liệu: xem [[Wikipedia:Dữ liệu nhân vật]] --> |
|||
==Quốc vương== |
|||
|TÊN = Abdulla |
|||
Abdullah trở thành quốc vương khi Fahd mất, ông chính thức đăng cơ vào ngày 2 tháng 8 năm 2005. Chính quyền của Abdullad nỗ lực tiến hành cải cách trên các lĩnh vực khác nhau. Năm 2005, Abdullah thực hiện một chương trình học bổng chính phủ nhằm cử các nam nữ thanh niên Ả Rập Xê Út ra nước ngoài học đại học và sau đại học tại nhiều trường trên khắp thế giới. Theo ước tính, có trên 70.000 thanh niên Ả Rập Xê Út xuất ngoại học tập tại hơn 25 quốc gia, nhất là Hoa Kỳ, Anh và Úc. Chính quyền cũng hợp tác với [[Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (Hoa Kỳ)|CDC]] nhằm thiết lập một hệ thống sàng lọc dịch bệnh tiên tiến để bảo vệ ba triệu người hành hương [[Hajj]] vào năm 2010. |
|||
|TÊN KHÁC = عبد الله بن عبد العزيز آل سعود(Arabic non-titular name) |
|||
|TÓM TẮT = Vua Ả Rập Saudi |
|||
Quốc vương Abdullah thi hành nhiều biện pháp cải cách, ông tái tổ chức ban lãnh đạo của bộ giáo dục vào năm 2009 bằng cách đưa người con rể ủng hộ cải cách là [[Faisal bin Abdullah bin Mohammed Al Saud|Faisal bin Abdullah]] làm bộ trưởng mới. Ông cũng bổ nhiệm [[Nora al-Fayez|Nora Al Fayez]], một cựu giáo viên học tại Mỹ, làm thứ trưởng giáo dục phụ trách về một cục mới dành cho nữ sinh viên.<ref>{{cite news|author=Julian Borger|url=https://www.theguardian.com/world/2009/feb/16/saudi-cabinet-woman-minister|title=Woman Saudi Education Minister|newspaper=The Guardian|date=16 February 2009|accessdate=23 October 2011|location=London}}</ref> |
|||
|LÚC SINH = 1/8/1924 |
|||
|LÚC MẤT = 23/1/2015 |
|||
Ông tiến hành tái cơ cấu từ trên xuống dưới các toà án của quốc gia nhằm thực hiện phúc thẩm các quyết định tư pháp và đào tạo chuyên nghiệp hơn cho các thẩm phán Shari'a, cũng những hạng mục khác. Ông phát triển một cơ quan xúc tiến đầu tư mới để xét lại quá trình khởi nghiệp phức tạp tại Ả Rập Xê Út và lập ra một cơ cấu điều tiết thị trường vốn. Ông cũng thúc đẩy việc xây dựng Đại học Quốc vương Abdullah về Khoa học-Kỹ thuật. Quốc vương Abdullah đầu tư vào giáo dục lực lượng lao động cho các công việc tương lai. Chính phủ cũng khuyến khích phát triển các lĩnh vực phi hydrocarbon, trong đó vương quốc có lợi thế so sánh do có khai mỏ, năng lượng mặt trời, và du lịch tôn giáo. Ngân sách vương quốc năm 2010 phản ánh các ưu tiên này, với khoảng 25% được dành cho giáo dục, và là một gói kích thích kinh tế quan trọng.<ref name="cablegate.wikileaks.org">[https://web.archive.org/web/20101201210210/http://cablegate.wikileaks.org/cable/2010/02/10RIYADH178.html Screensetter for Clinton's visit] ''Wikileaks'', 2010</ref><ref>{{cite web|author=Ursula Lindsey|url=http://chronicle.com/article/Saudi-Arabias-Education/124771/|title=Saudi Arabia's Education Reforms Emphasize Training for Jobs|work=The Chronicle of Higher Education|date=3 October 2010|accessdate=23 October 2011}}</ref> |
|||
|NƠI SINH = [[Riyadh]], [[Ả Rập Saudi]] |
|||
|NƠI MẤT = Riyadh, Saudi Arabia |
|||
[[File:Vladimir Putin in Saudi Arabia 11-12 February 2007-1.jpg|thumb|left|Quốc vương Abdullah cùng [[Tổng thống Nga]] [[Vladimir Putin]] vào ngày 11 tháng 2 năm 2007.]] |
|||
Nhằm phản ứng trước chủ nghĩa khủng bố trong nước, chính quyền của ông tiến hành một loạt hành động trấn áp, bao gồm tấn công, bắt giữ, tra khảo và hành hình.<ref name="independent">Brown, Colin. [http://news.independent.co.uk/uk/politics/article3112811.ece Shouts of 'murderers' and 'torturers' greet King Abdullah on Palace tour] {{webarchive|url=https://web.archive.org/web/20071102060413/http://news.independent.co.uk/uk/politics/article3112811.ece |date=2 November 2007 }}, ''The Independent'', 31 October 2007. Retrieved 17 May 2008.</ref> Ông thề chiến đấu với các hệ tư tưởng khủng bố trong nước. Ông cũng đưa việc bảo vệ cơ sở hạ tầng quan trọng của Ả Rập Xê Út là một ưu tiên an ninh cao nhất.<ref name="ReferenceC"/> Chiến lược chống chủ nghĩa khủng bố của ông có hai hướng, ông tấn công căn nguyên của chủ nghĩa cực đoan vốn hỗ trợ cho Al-Qaida thông qua các cải cách giáo dục và tư pháp nhằm làm suy yếu ảnh hưởng của các phần tử phản động trong tổ chức tôn giáo.{{citation needed|date=January 2016}} |
|||
Trong tháng 10 năm 2010, Quốc vương Abdullah ra sắc lệnh rằng chỉ có các học giả tôn giáo được phê chuẩn chính thức liên kết với Hội đồng Cấp cao Ulema mới được phép ban hành các [[fatwa]]. Các sắc lệnh tương tự từ năm 2005 trước đó hiếm khi được thi hành. Các fatwa cá nhân liên quan đến các vấn đề cá nhân được miễn theo sắc lệnh hoàng gia. Sắc lệnh cũng chỉ thị Đại Mufti xác định các học giả đủ tư cách.<ref>{{cite web|author=Christopher Boucek |url=http://www.carnegieendowment.org/arb/?fa=show&article=41824 |title=Saudi Fatwa Restrictions |work=Carnegie Endowment |date=23 October 2010 |accessdate=23 October 2011 |deadurl=yes |archiveurl=https://web.archive.org/web/20110607175656/http://www.carnegieendowment.org/arb/?fa=show&article=41824 |archivedate=7 June 2011 |df=dmy }}</ref> |
|||
Trong bối cảnh [[Mùa xuân Ả Rập]], Abdullah ban bố một chương trình chi tiêu mới trị giá 37 tỉ USD, bao gồm trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp giáo dục và nhà ở, xoá nợ và một kênh thể thao mới. Ngoài ra, còn có cam kết chi tiêu tổng cộng 400 tỉ USD đến hết năm 2014 nhằm cải thiện về giáo dục, y tế và cơ sở hạ tầng trong nước.<ref>{{cite news| url=http://www.telegraph.co.uk/finance/financetopics/oilprices/8344421/Saudi-ruler-offers-36bn-to-stave-off-uprising-amid-warning-oil-price-could-double.html|location=London|work=The Daily Telegraph|first=Ambrose|last=Evans-Pritchard|title=Saudi ruler offers $36bn to stave off uprising amid warning oil price could double|date=24 February 2011}}</ref> Sau đó, trong bối cảnh [[Biểu tình Ả Rập Xê Út 2011–2012|các cuộc biểu tình trong nước]], vào tháng 9 năm 2011, Quốc vương công bố trao quyền bầu cử cho nữ giới trong cuộc bầu cử hội đồng đô thị năm 2015. Ông cũng phát biểu rằng nữ giới đủ điều kiện để tham gia Hội đồng Tư vấn phi tuyển cử.<ref>Alsharif, Asma, [https://www.reuters.com/article/2011/09/25/saudi-king-women-idUSL5E7KP0IB20110925 "Saudi king gives women right to vote-UPDATE 2"], ''Reuters'', 25 September 2011. Retrieved 25 September 2011.</ref><ref>{{cite news|title=Women in Saudi Arabia 'to vote and run in elections'|url=http://www.bbc.co.uk/news/world-us-canada-15052030|accessdate=25 September 2011|work=BBC News|date=25 September 2011}}</ref> |
|||
Trong tháng 1 năm 2012, Quốc vương Abdullah bãi chức người đứng đầu cơ quan cảnh sát tôn giáo quốc gia, thay thế bằng một giáo sĩ ôn hoà hơn là Abdullatif Abdel Aziz al-Sheikh.<ref>{{cite news|url=https://www.google.com/hostednews/afp/article/ALeqM5hilmxu5fp7aQrM3MMylBtpkx_sKw?docId=CNG.99b68c356d880250606ce3d7cc9eb233.ac1|title=Saudi king dismisses religious police head|work=Google News|date=13 January 2012|accessdate=18 June 2012}}</ref> |
|||
[[File:KAUST laboratory buildings and town mosque.jpg|thumb|Đại học Quốc vương Abdullah về Khoa học-Kỹ thuật ]] |
|||
Vào tháng 7 năm 2012, Ả Rập Xê Út công bố rằng sẽ cho phép các nữ vận động viên tham gia Thế vận hội lần đầu tiên. Việc nữ giới công khai tham gia thế thao gặp phải chống đối mạnh mẽ từ nhiều nhân vật bảo thủ tôn giáo trong nước. Các quan chức Ả Rập Xê Út nói rằng nếu đủ tư cách tham gia thì các vận động viên nữ sẽ mặc trang phục "bảo vệ phẩm giá của họ".<ref>{{cite news|last=Gardner|first=Frank|url=http://www.bbc.co.uk/news/world-middle-east-18571193|title=London 2012 Olympics: Saudis allow women to compete|work=BBC|date=24 June 2012|accessdate=28 July 2012}}</ref> Ngày 11 tháng 1 năm 2013, Abdullah bổ nhiệm ba mươi phụ nữ vào Hội đồng Tư vấn và sửa đổi luật có liên quan để yêu cầu rằng có ít nhất 20% trong số 150 thành viên của hội đồng này là phụ nữ.<ref name=atlantic1613>{{cite news|title=Saudi Arabia's Timid Flirtation With Women's Rights|url=https://www.theatlantic.com/international/archive/2013/01/saudi-arabias-timid-flirtation-with-womens-rights/267245/|accessdate=16 January 2013|newspaper=The Atlantic|date=16 January 2013}}</ref> |
|||
Trong tháng 8 năm 2013, nội các Ả Rập Xê Út lần đầu tiên thông qua một điều luật quy định bạo lực gia đình là tội hình sự.<ref name="BBC Usher">{{cite news |url=http://www.bbc.co.uk/news/world-middle-east-23872152|title=Saudi Arabia cabinet approves domestic abuse ban|author=Sebastian Usher|work=BBC|accessdate=1 September 2013|date=28 August 2013}}</ref> Luật hình sự hoá việc lạm dụng về tâm lý, tình dục cũng như thể xác.<ref>{{cite news|last=Anderson|first=Lisa|title=Saudi Arabia passes historic domestic abuse legislation|url=http://www.trust.org/item/20130828043037-kacqu|newspaper=Reuters|date=28 August 2013}}</ref> |
|||
===Đối ngoại === |
|||
[[File:Kerry and Abdullah, 2014.jpg|thumb|right|Abdullah họp với Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ [[John Kerry]], 5 tháng 1 năm 2014.]] |
|||
Trong tháng 11 năm 2007, Abdullah sang thăm [[Giáo hoàng Biển Đức XVI|Giáo hoàng Benedicto XVI]] tại [[Điện Tông Tòa]], trở thành quân chủ đầu tiên của nước này đến Vatican.<ref>{{cite news|url=http://news.bbc.co.uk/1/hi/world/europe/7080327.stm|title=Historic Saudi visit to Vatican|work=BBC News|date=6 November 2007|accessdate=23 October 2011}}</ref><ref name=infmuslims>{{cite journal|title=The 500 Most Influential Muslims|journal=Center Muslim-Christian Understanding|year=2009|url=http://www.yale.edu/worldfellows/fellows/documents/500MostInfluentialMuslims.pdf|accessdate=19 July 2013}}</ref> Vào tháng 3 năm 2008, ông kêu gọi về đối thoại chân thành giữa tín đồ các tôn giáo.<ref>[http://www.saudigazette.com.sa/index.cfm?method=home.regcon&contentID=200803261534 The King’s call for interfaith dialogue] {{webarchive|url=https://web.archive.org/web/20090114111142/http://www.saudigazette.com.sa/index.cfm?method=home.regcon&contentID=200803261534 |date=14 January 2009 }}, ''Saudi Gazette''.</ref> |
|||
Trong tháng 6 năm 2008, ông tổ chức một hội nghị tại [[Mecca]] nhằm thúc giục các nhà lãnh đạo Hồi giáo nhất trí với các nhà lãnh đạo Do Thái giáo và Cơ Đốc giáo.<ref>[http://news.bbc.co.uk/2/hi/middle_east/7436212.stm Saudis launch Islamic unity drive], ''BBC News'', 4 June 2008. Retrieved 10 June 2008.</ref> Ông thảo luận với các học giả Hồi giáo trong và ngoài nước, và được tán thành tổ chức đối thoại liên tôn giáo. Trong cùng tháng, Ả Rập Xê Út và Tây Ban Nha đồng ý tổ chức đối thoại liên tôn giáo tại Tây Ban Nha.<ref>[http://www.saudigazette.com.sa/index.cfm?method=home.regcon&contentID=200806229871 Inter-faith meet to be held in Spain] {{webarchive|url=https://web.archive.org/web/20090114111148/http://www.saudigazette.com.sa/index.cfm?method=home.regcon&contentID=200806229871 |date=14 January 2009 }}, ''Saudi Gazette''.</ref> Hội nghị lịch sử này cuối cùng diễn ra tại [[Madrid]] vào tháng 7 năm 2008.<ref>[http://www.saudigazette.com.sa/index.cfm?method=home.regcon&contentID=2008071712004 Let concord replace conflict – Abdullah] {{webarchive|url=https://web.archive.org/web/20090114080011/http://www.saudigazette.com.sa/index.cfm?method=home.regcon&contentID=2008071712004 |date=14 January 2009 }}, ''Saudi Gazette''.</ref> Năm 2011, chính phủ Áo, Tây Ban Nha và Ả Rập Xê Út ký kết một thoả thuận về việc thành lập Trung tâm Quốc tế về Đối thoại liên tôn giáo và liên văn hoá Quốc vương Abdullah bin Abdulaziz tại [[Wien]].<ref>[https://archive.is/20120730012516/http://www.bmeia.gv.at/en/foreign-ministry/news/speeches-and-interviews/2011/speech-of-vice-chancellor-and-foreign-minister-michael-spindelegger-in-the-king-abdullah-center.html Speech of Vice Chancellor and Foreign Minister Michael Spindelegger in the King Abdullah Center], Federal Ministry for European and International Affairs</ref> |
|||
Quốc vương Abdullah kêu gọi lập ra một thị trường chung Ả Rập vào tháng 1 năm 2011. Bộ trưởng Ngoại giao Ả Rập Xê Út [[Saud bin Faisal bin Abdul-Aziz|Saud bin Faisal]] nói rằng Liên minh Thuế quan Ả Rập sẽ sẵn sàng vào năm 2015, và đến năm 2017 thì thị trường chung có thể có hiệu lực. Diễn ra các nỗ lực mạnh mẽ nhằm liên kết các quốc gia Ả Rập thông qua một hệ thống đường sắt và lưới điện. Công trình về dự án lưới điện đã được bắt đầu tại một số quốc gia Ả Rập.<ref name="AN01">[http://arabnews.com/saudiarabia/article238363.ece "No Politics for Ben Ali in Kingdom"] {{webarchive|url=https://web.archive.org/web/20110121172720/http://arabnews.com/saudiarabia/article238363.ece |date=21 January 2011 }}, ''Arab News'', 19 January 2011.</ref> |
|||
[[File:Bush-abdullah1.jpg|thumb|left|Abdullah thăm Hoa Kỳ trong tháng 4 năm 2005]] |
|||
Quốc vương Abdullah từ lâu đã có tư tưởng thân Mỹ và là một đồng minh thân thiết lâu năm của Hoa Kỳ. Vào tháng 10 năm 1976, ông từng sang Hoa Kỳ để được đào tạo nhằm giữ các trách nhiệm lớn hơn tại Riyadh, ông từng gặp Tổng thống [[Gerald Ford]]. Ông đến Hoa Kỳ với thân phận thái tử vào năm 1987, gặp Phó Tổng thống [[George H. W. Bush]]. Vào tháng 9 năm 1998, Abdullah thực hiện một chuyến thăm cấp nhà nước sang Hoa Kỳ và gặp Tổng thống [[Bill Clinton]] tại [[Washington D.C.|Washington]]. Vào tháng 9 năm 2000, ông tham dự các lễ kỷ niệm thiên niên kỷ tại trụ sở Liên Hiệp Quốc tại New York. Vào tháng 4 năm 2002, Abdullah tiến hành chuyến thăm nhà nước đến Hoa Kỳ và gặp Tổng thống [[George W. Bush]], ông trở lại Hoa Kỳ vào năm 2005 và gặp Tổng thống Bush. Vào tháng 4 năm 2009, tại một hội nghị thượng đỉnh của các nhà lãnh đạo thế giới Tổng thống [[Barack Obama]] đã gặp Quốc vương Abdullah, và đến tháng 6 năm 2009 ông đón tiếp Tổng thống Obama tại Ả Rập Xê Út. Trong cùng tháng, Tổng thống Obama đón tiếp Quốc vương tại [[Nhà Trắng]]. Quốc vương Abdullah thể hiện ủng hộ lớn đối với cương vị tổng thống của Obama, cho rằng việc Obama đắc cử tạo ra "hy vọng lớn" trong thế giới Hồi giáo.<ref name="nymag.com">{{cite web|last=Vilensky |first=Mike |url=http://nymag.com/daily/intel/2010/11/wikileaks_round-up.html |title=WikiLeaks: Saudi King Abdullah Encouraged U.S. to Attack Iran; Chinese Politburo Hacked Into Google – Daily Intel|publisher=Nymag.com |date=20 April 2008|accessdate=23 October 2011}}</ref> |
|||
Chính quyền [[George W. Bush|Bush]] phớt lờ lời khuyên từ ông về việc chống lại cuộc xâm chiếm Iraq.<ref name="ReferenceC">[https://web.archive.org/web/20101202081631/http://cablegate.wikileaks.org/cable/2009/03/09RIYADH496.html 09RIYADH496] Wikileaks, 31 March 2009</ref> Tuy nhiên, Riyadh cung cấp hỗ trợ quan trọng cho Hoa Kỳ trong cuộc chiến.<ref>{{cite web|url=http://www.washingtoninstitute.org/templateC05.php?CID=3090 |title=Who Will Be the Next King of Saudi Arabia...And does It Matter?|work=The Washington Institute for Near East Policy|accessdate=18 June 2012}}</ref> Quốc vương Abdullah tỏ ra hoàn toàn thiếu tin tưởng Thủ tướng Iraq [[Nouri al-Maliki|Nouri Al Maliki]] và có ít hy vọng về cải thiện quan hệ giữa hai nước chừng nào al-Maliki còn tại vị.<ref name="telegraph.co.uk">{{cite news|url=http://www.telegraph.co.uk/news/worldnews/northamerica/usa/8167123/Wikileaks-King-Abdullah-of-Saudi-Arabia-wanted-Guantanamo-Bay-detainees-microchipped.html|location=London|work=The Daily Telegraph|first=Andrew|last=Hough|title=Wikileaks: King Abdullah of Saudi Arabia 'wanted Guantánamo Bay detainees microchipped'|date=29 November 2010}}</ref> Vào tháng 9 năm 2014, sau cuộc bành trướng của [[Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant]] (ISIL), ông ra tuyên bố kêu gọi các nhà lãnh đạo và học giả của thế giới Hồi giáo thực hiện bổn nhiệm của họ trước Đấng Toàn năng.<ref>[http://www.saudiembassy.net/announcement/announcement08011401.aspx Custodian of the Two Holy Mosques King Abdullah bin Abdulaziz Al Saud’s statement to the Arab and Islamic Nations and the International Community] Saudi Embassy in Washington DC. 1 August 2014. Retrieved 3 September 2014.</ref> |
|||
[[File:ObamaKing Abdullah.jpg|thumb|right|[[Barack Obama]] và Quốc vương Abdullah.]] |
|||
Năm 2006, Nhà lãnh đạo tối cao của Iran là Khamenei cử cố vấn [[Ali Akbar Velayati]] mang thư đến yêu cầu Quốc vương Abdullah cho phép lập một kênh liên lạc chính thức giữa hai nhà lãnh đạo. Abdullah nói rằng ông đồng ý, và kênh này được lập ra, song chưa từng được sử dụng.<ref name="guardian.co.uk"/> Vào tháng 4 năm 2008, theo một điện tín của Hoa Kỳ bị [[Wikileaks]] công khai, Quốc vương Abdullah nói với Đại sứ Hoa Kỳ tại Iraq [[Ryan Crocker]], và Tướng quân [[David Petraeus]] về "cắt đầu con rắn". Đại sứ nước này tại Washington, [[Adel al-Jubeir]], "nhắc lại lời kêu gọi thường xuyên của Quốc vương về việc Hoa Kỳ tấn công Iran" và chấm dứt chương trình hạt nhân của Iran.<ref>[https://web.archive.org/web/20140202191033/https://www.google.com/hostednews/afp/article/ALeqM5ghmoS0bJ_XaFC5Y9NWUF1I87_N_g?docId=CNG.050a9c8c5fd91a430d7e435fcc325b90.861 Saudi King urged US to attack Iran], 28 November 2010, ''[[Agence France-Presse]],'' copy at [[Internet Archive]] accessed 23 October 2011.</ref> Quốc vương Abdullah khẳng định rằng Iran đang nỗ lực lập ra các tổ chức giống như [[Hezbollah]] tại các quốc gia châu Phi.<ref name="nymag.com"/><ref name="guardian.co.uk">{{cite news|url=https://www.theguardian.com/world/us-embassy-cables-documents/198178|location=London|work=The Guardian|title=US embassy cables: Saudi king's advice for Barack Obama|date=28 November 2010}}</ref> |
|||
Được [[Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh]] tán thành, Ả Rập Xê Út cử 1.200 binh sĩ sang [[Bahrain]] để bảo vệ các cơ sở hạ tầng công nghiệp, dẫn đến căng thẳng quan hệ với Hoa Kỳ. Các quân nhân này thuộc Lực lượng lá chắn bán đảo, đóng tại Ả Rập Xê Út song không liên kết với riêng quốc gia nào.<ref>{{cite news|url=http://english.aljazeera.net/news/middleeast/2011/03/20113151296156152.html|title=Bahrain imposes state of emergency|work=Al Jazeera|date=15 March 2011|accessdate=23 October 2011}}</ref><ref>Doward, Jamie, and Philippa Stewart, [https://www.theguardian.com/world/2011/may/28/uk-training-saudi-troops "UK Training Saudi Forces Used to Crush Arab Spring"] ''The Guardian'', 28 May 2011.</ref> |
|||
Từ khi Quốc vương Abdullah sang thăm Bắc Kinh vào tháng 1 năm 2006, quan hệ Ả Rập Xê Út-Trung Quốc chủ yếu tập trung vào năng lượng và mậu dịch. Ông là nguyên thủ quốc gia đầu tiên của Ả Rập Xê Út sang thăm Trung Quốc từ khi hai quốc gia thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1990.<ref>{{cite news|url=http://news.xinhuanet.com/english/2009-02/10/content_10796711.htm|title=Chinese president arrives in Riyadh at start of "trip of friendship, cooperation"_English_Xinhua|newspaper=Xinhuanet|date=10 February 2009|accessdate=23 October 2011}}</ref> Trung Quốc nhanh chóng trở thành đối tác nhập khẩu lớn nhất từ Ả Rập Xê Út, và Ả Rập Xê Út cũng cam kết đầu tư đáng kể vào Trung Quốc, trong đó có nhà máy lọc dầu trị giá 8 tỉ USD tại [[Phúc Kiến]]. Theo điện tín do [[WikiLeaks]] công bố, Quốc vương nói với Trung Quốc rằng sẵn sàng đảm bảo cung cấp dầu để đổi lấy việc Trung Quốc gây áp lực khiến Iran không phát triển vũ khí hạt nhân.<ref name="cablegate.wikileaks.org"/> Vào cuối tháng 3 năm 2011, Quốc vương Abdullah phái Tổng thư ký Hội đồng An ninh Quốc gia [[Bandar bin Sultan|Bandar]] đến Trung Quốc nhằm giành ủng hộ của nước này cho quan điểm của Ả Rập Xê Út về Mùa xuân Ả Rập. Đổi lại, các hợp đồng vũ khí có lợi được bí mật đề xuất với Trung Quốc. Ngoài ra, Quốc vương Abdullah cho rằng Trung Quốc và Ấn Độ là các thị trường tương lai đối với năng lượng của Ả Rập Xê Út.<ref>{{cite journal |last=Riedel |first=Bruce |title=Brezhnev in the Hejaz |url=http://www.relooney.info/SI_Milken-Arabia/0-Important_14.pdf |date=September 2011 |archive-url=https://web.archive.org/web/20131115051640/http://www.relooney.info/SI_Milken-Arabia/0-Important_14.pdf |archive-date=15 November 2013 |volume=115 |pages=27–32 |journal=[[The National Interest]] |access-date=4 March 2017}}</ref> |
|||
[[File:Wizyta króla Arabii Saudyjskiej Abdullaha bin Abdulaziz Al Saud w Polsce 2007.jpg|thumb|right|220px|Abdullah cùng Tổng thống Ba Lan [[Lech Kaczyński]].]] |
|||
Đến tháng 9 năm 2009, Quốc vương Abdullah được Tổng thống Pháp [[Nicolas Sarkozy]] tiếp đón, họ đạt được nhiều cam kết ngoại giao khác nhau.<ref name="Chrisafis">{{cite news|url=https://www.theguardian.com/world/2010/nov/30/wikileaks-nicolas-sarkozy-carla-bruni?CMP=twt_gu|location=London|work=The Guardian|first=Angelique|last=Chrisafis|title=WikiLeaks cables: Nicolas Sarkozy, the Saudis and Carla Bruni|date=30 November 2010}}</ref> Đến tháng 1 năm 2011, Ả Rập Xê Út cấp quy chế tị nạn cho nhà lãnh đạo bị trục xuất của Tunisia là [[Zine El-Abidine Ben Ali]].<ref name=AN01/> Theo điện tín bị rò rỉ, Quốc vương Abdullah cảm thông với cựu Tổng thống Yemen [[Ali Abdullah Saleh|Saleh]] nhiều hơn so với Thái tử Sultan.<ref>{{cite news|url=http://www.al-akhbar.com/node/10276|title=Yemeni Tribal Leader: For Saleh, Saudi Involvement In Sa'Ada Comes Not A Moment Too Soon|newspaper=Al Akhbar|date=28 December 2009|accessdate=23 October 2011}}</ref> |
|||
Quốc vương Abdullah ủng hộ khôi phục quan hệ ngoại giao với chính phủ Syria và [[Bashar al-Assad]]. Họ gặp nhau tại [[Damascus]] vào ngày 7 tháng 10 năm 2009.<ref name=meq11>{{cite journal|author=Hilal Khashan|title=Saad Hariri's Moment of Truth|journal=Middle East Quarterly|date=Winter 2011|volume=XVIII|issue=1|pages=65–71|url=http://www.meforum.org/2820/saad-hariri-moment-of-truth|accessdate=11 March 2013}}</ref> Ngoài ra, Assad còn tham dự lễ khánh thành Đại học Quốc vương Abdullah về Khoa học và Công nghệ vào tháng 10 năm 2009. Quan hệ giữa Syria và Ả Rập Xê Út bị xấu đi do hậu quả của [[Nội chiến Syria]]. Trong tháng 8 năm 2011, Quốc vương Abdullah triệu hồi đại sứ của mình khỏi Damascus do bất ổn chính trị tại Syria và đóng cửa đại sứ quán.<ref>{{cite news|title=Saudi Arabia recalls ambassador to Syria|url=http://www.bbc.co.uk/news/world-middle-east-14439303|accessdate=11 August 2013|work=BBC|date=8 August 2011}}</ref> |
|||
Vào tháng 12 năm 2011, Quốc vương Abdullah kêu gọi các nhà lãnh đạo của Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh củng cố liên minh của họ thành một "thực thể đơn nhất" đoàn kết trong khi đối phó với các mối đe doạ đến an ninh quốc gia.<ref>{{cite news|last=Carey |first=Glen|url=https://www.bloomberg.com/news/2011-12-19/saudi-king-abdullah-calls-for-a-closer-arab-gulf-union-1-.html|title=Saudi King Abdullah Calls for a Closer Arab Gulf Union|work=Bloomberg L.P.|date=19 December 2011|accessdate=18 June 2012}}</ref> |
|||
==Kế vị== |
|||
Người kế vị của Quốc vương Abdullah lúc đầu là em trai khác mẹ [[Sultan bin Abdulaziz|Thái tử Sultan]], song vị thái tử ngày qua đời vào ngày 22 tháng 10 năm 2011. Ngôi vị thái tử sau được được chuyển cho em trai ruột của Sultan là [[Nayef bin Abdul-Aziz Al Saud|Nayef]], song người này qua đời vào ngày 16 tháng 6 năm 2002 tại [[Genève]], [[Thuỵ Sĩ]], trong lúc trải qua các xét nghiệm y tế về một bệnh chưa được tiết lộ. Người kế vị thứ ba của ông là vị em trai khác mẹ [[Salman bin Abdul-Aziz Al Saud|Salman]], người này trở thành thái tử vào ngày 18 tháng 6 năm 2012,<ref name=tnyt1812>{{cite news|author=Neil MacFarquhar|title=Defense Minister New Heir to Throne in Saudi Arabia|url=https://www.nytimes.com/2012/06/19/world/middleeast/saudi-arabia-appoints-prince-salman-as-crown-prince.html|accessdate=18 June 2012|newspaper=The New York Times|date=18 June 2012}}</ref> và kế vị vào ngày 2015. |
|||
Năm 2006, Abdullah lập ra Hội đồng Trung thành, cơ cấu này gồm có các con trai và cháu trai ruột của vị quốc vương khai quốc Ả Rập Xê Út là Abdulaziz. Các thành viên trong hội đồng sẽ bỏ phiếu kín để chọn các quốc vương và thái tử tương lai. Nhiệm vụ của hội đồng chỉ bắt đầu sau khi cả Quốc vương Abdullah và Hoàng tử Sultan kết thúc nhiệm kỳ. Tình thế không rõ ràng khi Hoàng tử Sultan mất trước khi kết thúc thời kỳ trị vì của Abdullah, đặt câu hỏi về việc hội đồng có bỏ phiếu bầu thái tử mới hay không, hay là Hoàng tử Nayef sẽ tự động được lấp chỗ trống. Dù vậy, Hoàng tử Nayef trở thành thái tử vào ngày 27 tháng 10 năm 2011 sau khi Quốc vương tham vấn Hội đồng Trung thành.<ref>[https://news.yahoo.com/s/ap/20101121/ap_on_re_mi_ea/ml_saudi_king_hospitalized;_ylt=AluqiTkBwGFdWRZE3_3oGf8LewgF;_ylu=X3oDMTMxc29laW51BGFzc2V0A2FwLzIwMTAxMTIxL21sX3NhdWRpX2tpbmdfaG9zcGl0YWxpemVkBHBvcwMxOARzZWMDeW5fcGFnaW5hdGVfc3VtbWFyeV9saXN0BHNsawNhZ2Vkc2F1ZGlydWw- Aged Saudi ruler to fly to US over blood clot] ''AP'' 21 November 2010</ref> |
|||
Vào tháng 11 năm 2010, Hoàng tử Nayef chủ trì một cuộc họp nội các do sức khoẻ của Quốc vương kém đi.<ref>{{cite web|url=https://www.google.com/hostednews/afp/article/ALeqM5hK7wm4CBGfjgDhw4dj862YlpXflg?docId=CNG.cb80a1df49e6851ae06101076385e499.4d1|title=Saudi king suffers herniated disc|publisher=Google News|date=12 November 2010|accessdate=23 October 2011}}</ref> Trong cùng tháng, Quốc vương Abdullah chuyển giao nhiệm vụ tư lệnh Vệ binh Quốc gia cho con trai ông là Hoàng tử [[Mutaib bin Abdullah|Mutaib]]. Quốc vương Abdullah được cho là gây dựng nên một đơn vị phần lớn mang tính nghi lễ này thành một đội quân hùng mạnh hiện đaị với 260.000 người, làm đối trọng với lục quân. Vệ binh Quốc gia là căn cứ quyền lực của Quốc vương Abdullah và có trách nhiệm bảo vệ hoàng gia. Điều này được cho là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy quốc vương bắt đầu giảm thiểu một số nhiệm vụ của mình.<ref>{{cite news|url=https://www.washingtonpost.com/wp-dyn/content/article/2010/11/17/AR2010111704919.html|title=Saudi king transfers National Guard duties to son|work=The Washington Post|accessdate=23 October 2011}}{{Dead link|date=April 2014|bot=RjwilmsiBot}}</ref> |
|||
===Qua đời=== |
|||
Quốc vương đã cắt giảm hoạt động từ tháng 6 năm 2010 dù không có giải thích rõ ràng. Các nhà ngoại giao cho biết có sự không chắc chắn về mức độ vấn đề sức khoẻ của ông từ khi Abdullah hoãn một chuyến thăm Pháp.{{When|date=September 2012}} Trong một lần xuất hiện trên truyền hình, ông phải dùng đến gậy và nói rằng có sức khoẻ tốt song có một số thứ khiến ông "phiền muộn". Trong một chuyến thăm của các nhà ngoại giao Hoa Kỳ đến Ả Rập Xê Út vào tháng 4 năm 2014, Quốc vương Abdullah được nhìn thấy là dùng ống thở trong lúc nói chuyện. |
|||
Từ năm 2010 đến năm 2012, Quốc vương Abdullah có bốn cuộc phẫu thuật lưng.<ref name=wp171112>{{cite news|title=Saudi King Abdullah has back surgery described as successful|url=https://www.washingtonpost.com/world/middle_east/saudi-king-abdullah-has-back-surgery-described-as-successful/2012/11/17/11d8c1ce-30c1-11e2-af17-67abba0676e2_story.html|archive-url=https://web.archive.org/web/20121117203654/http://www.washingtonpost.com/world/middle_east/saudi-king-abdullah-has-back-surgery-described-as-successful/2012/11/17/11d8c1ce-30c1-11e2-af17-67abba0676e2_story.html|archive-date=17 November 2012|accessdate=17 November 2012|newspaper=The Washington Post|date=17 November 2012|agency=AP|location=Riyadh|deadurl=yes}}</ref> Hai cuộc phẫu thuật đầu tiên diễn ra tại New York, một vào năm 2010 vì thoát vị đĩa đệm và một cục máu đông ép vào dây thần kinh trên lưng, và lần thứ hai là để ổn định đốt sống vào năm 2011.<ref name=wp171112/> Cuộc phẫu thuật thứ ba diễn ra tại Riyadh vào năm 2011. Và cuộc phẫu thuật thứ tư diễn ra tại Riyadh vào ngày 17 tháng 11 năm 2012.<ref name=wp171112/> |
|||
Trong tháng 11 năm 2010, các vấn đề về lưng của ông được công khai trên truyền thông. Ông bị "tụ máu" quanh tuỷ sống. Ông bị thoát vị đĩa đệm và được các bác sĩ khuyến cáo nghỉ ngơi. Nhằm duy trì tính ổn định của quốc gia, Thái tử Sultan từ Maroc về nước khi Quốc vương vắng mặt.<ref>{{cite news|title=Saudi prince returns as king readies for US treatment|url=http://www.bbc.co.uk/news/world-middle-east-11809963|accessdate=18 August 2013|work=BBC|date=22 November 2010}}</ref> Quốc vương nhập viện tại Bệnh viện New York-Presbyterian sau khi một cục máu đông làm phức tạp thêm căn bệnh thoát vị đĩa đệm, và trải qua ca phẫu thuật lưng thành công.<ref>{{cite news|url=http://www.cnn.com/2010/WORLD/meast/11/24/us.saudi.king.surgery/index.html?section=cnn_latest|work=CNN|title=Saudi king has back surgery in New York|date=25 November 2010}}</ref><ref>{{cite news|author=Peter S. Green|url=https://www.bloomberg.com/news/2010-11-24/saudi-arabia-king-abdullah-s-ny-back-surgery-successful-royal-court-says.html|title=Saudi Arabia King Abdullah's NY Back Surgery Successful, Royal Court Says|work=Bloomberg L.P.|date=24 November 2010|accessdate=23 October 2011}}</ref><ref>{{cite news|title=Saudi king Abdullah has 'successful operation'|work=BBC News|date=24 November 2010|url=http://www.bbc.co.uk/news/world-middle-east-11833572|accessdate=24 November 2010|archiveurl= https://web.archive.org/web/20101125040931/http://www.bbc.co.uk/news/world-middle-east-11833572|archivedate=25 November 2010<!--DASHBot-->|deadurl=no}}</ref> Sau đó ông lại trải qua một cuộc phẫu thuật thành công khác nhằm "ổn định một số đốt sống". Ông xuất viện vào ngày 22 tháng 12 năm 2010 và dưỡng bệnh tại [[Plaza Hotel|The Plaza]] tại New York.<ref>{{cite web|url=http://www.washingtoninstitute.org/templateC05.php?CID=3289|title=Saudi Arabia's Oil Policy Vacancies|work=Washington Institute|date=7 January 2011|accessdate=18 June 2012}}</ref> Vào ngày 22 tháng 1 năm 2011, ông rời Hoa Kỳ và sang Maroc,<ref>[https://www.nytimes.com/2011/01/23/world/middleeast/23saudi.html "Saudi King Arrives in Morocco After Treatment in US"], ''New York Times'', 22 January 2011</ref> rồi về nước vào ngày 23 tháng 2 năm 2011.<ref>{{cite news|url=http://www.bbc.co.uk/news/world-middle-east-12550326|work=BBC News|title=Saudi King offers benefits as he returns from treatment|date=23 February 2011}}</ref> |
|||
Quốc vương Abdullah xuất cảnh để "nghỉ phép đặc biệt" vào ngày 27 tháng 8 năm 2012.<ref name="Abdullah_leavesKSA27Aug2012"/> Báo ''Al-Quds'' tường thuật rằng ông trải qua một ca phẫu thuật tại Bệnh viện Mount Sinai, New York, trong hoặc trước ngày 4 tháng 9 năm 2012, sau một cơn đau tim.<ref name="AlQuds_heartsurgery_earlySep2012" /> Tuy nhiên, không có tường thuật chính thức về cuộc phẫu thuật giả thuyết này – thay vào đó họ công bố rằng Quốc vương tiến thành một chuyến đi riêng tư sang Maroc, vốn là nơi quen thuộc với ông. Quốc vương về nước từ Maroc vào ngày 24 tháng 9.<ref name=national>{{cite news|title=Saudi King Abdullah returns after month-long Morocco trip|url=http://www.thenational.ae/news/world/middle-east/saudi-king-abdullah-returns-after-month-long-morocco-trip|accessdate=27 September 2012|newspaper=The National|date=24 September 2012|agency=AFP|location=Riyadh}}</ref> Gần hai tháng sau, vào tháng 11 năm 2012, Quốc vương Abdullah trải qua một ca phẫu thuật lưng khác tại Riyadh<ref name=bbcnov12>{{cite news|title=Saudi king health fears calmed after back operation|url=http://www.bbc.co.uk/news/world-middle-east-20525956|accessdate=1 February 2013|work=BBC|date=28 November 2012}}</ref> và xuất viện vào ngày 13 tháng 12 năm 2012.<ref name=reu1312>{{cite news|title=Saudi King Abdullah leaves hospital|url=https://www.reuters.com/article/2012/12/13/us-saudi-king-health-idUSBRE8BC0UX20121213|accessdate=1 February 2013|work=Reuters|date=13 December 2012|first=Amena|last=Bakr}}</ref> Một tường thuật vào tháng 4 năm 2014 nói rằng cuộc sống Quốc vượng còn khoảng sáu tháng nữa, dẫn theo một chuẩn đoán về thời hạn cuối của bệnh ung thư phổi.<ref name="presstv.ir">[http://www.presstv.ir/detail/2014/04/19/359233/saudi-king-may-die-in-6-months-report/ Saudi King may die in 6 months] ''Press TV''. 19 April 2014.</ref> Ngày 2 tháng 1 năm 2015, Abdullah nhập viện tại Riyadh vì bệnh viêm phổi<ref>[https://www.nytimes.com/2015/01/03/world/middleeast/saudi-king-abdullah-is-hospitalized-with-pneumonia.html?_r=0 Saudi King, 90, Hospitalized; Pneumonia Is Diagnosed] ''The New York Times''. 3 January 2015.</ref> và mất vào ngày 23 tháng 1 ở tuổi 90.<ref name="auto1">{{cite web|title=Saudi Arabia's King Abdullah dies|url=http://www.bbc.com/news/world-middle-east-30945324|work=BBC|accessdate=23 January 2015}}</ref><ref>{{cite web|last1=Martin|first1=Douglas|last2=Hubbard|first2=Ben|title=King Abdullah, Who Nudged Saudi Arabia Forward, Dies at 90|url=https://www.nytimes.com/2015/01/23/world/middleeast/king-abdullah-who-nudged-saudi-arabia-forward-dies-at-90.html|work=New York Times|accessdate=23 January 2015}}</ref> Theo truyền thống Hồi giáo, tang lễ của ông được tổ chức trong cùng ngày, một buổi lễ công cộng tại Đại Thánh đường của Riyadh trước khi an táng tại một ngôi mộ vô danh trong nghĩa trang Al Oud.<ref name=funeral>{{cite news|author1=Lubna Hussain|author2=F. Brinley Bruton|title=Saudi Arabia's King Abdullah Given Simple Muslim Burial|url=http://www.nbcnews.com/storyline/saudi-arabia-succession/saudi-arabias-king-abdullah-given-simple-muslim-burial-n291956|accessdate=23 January 2015|work=NBC News|date=23 January 2015}}</ref> Chính quyền tuyên bố ba ngày quốc tang, treo rủ quốc kỳ.<ref name=funeral/> |
|||
==Cuộc sống cá nhân== |
|||
[[File:King Abdullah in his youth.jpg|thumb|upright|Quốc vương Abdullah và một con chim ưng khi ông còn trẻ]] |
|||
Quốc vương Abdullah theo con đường hôn nhân của cha mình khi kết hôn với con gái của al Shalan của [[Anizah]], al Fayz của Bani Sakhr, và al Jarbah của nhánh Iraq thuộc bộ lạc [[Shammar]].<ref name="Al Rasheed 2009 587–601"/> Quốc vương Abdullah có khoảng 30 vợ, và có khoảng 35 con.<ref name="MyUser_The_Daily_Telegraph_January_24_2015c"/><ref name="MyUser_The_Guardian_January_24_2015c"/><ref name="MyUser_Nypost.com_January_24_2015c"/><ref name="auto"/> Một người vợ của ông là chị em gái của vợ [[Rifaat al-Assad]].<ref name=FPshend/> Ông kết hôn với Jawahir bint Ali Hussein thuộc gia tộc Al Jiluwi, cùng bà sinh ra Công chúa Anoud và Hoàng tử Saud.<ref name=abir>{{cite book|last=Abir|first=Mordechai|title=Saudi Arabia in the Oil Era: Regime and Elites: Conflict and Collaboration|year=1988|publisher=Croom Helm|location=Kent|url=https://books.google.com/books?id=1QEOAAAAQAAJ&pg=PA138&lpg=PA138&dq=al+jiluwi+family&source=bl&ots=MTl6tKqWcp&sig=8lnKfSddjw_ugvvldWYiyBDRvyk&hl=en&sa=X&ei=rBcgUI2xNYjY4QT3mIGYDg&redir_esc=y#v=onepage&q=al%20jiluwi%20family&f=false}}</ref><ref name=ssabri>{{cite book|last=Sabri|first=Sharaf|title=The House of Saud in commerce: A study of royal entrepreneurship in Saudi Arabia|year=2001|publisher=I.S. Publications|location=New Delhi|isbn=81-901254-0-0|url=https://books.google.com/books?id=51Bb8Ix7xw8C&pg=PA105&lpg=PA105&dq=prince+turki+bin+sultan+royal+in+commerce&source=bl&ots=W2TyZe-5Yp&sig=Gu8Zw5Tp7MidEMAyQzOdzGhV17k&}}</ref> Aida Fustuq là một người vợ khác của Abdullah, họ có với nhau hai con là [[Adila bint Abdulla Al Saud|Adila]] và [[Abdul Aziz bin Abdullah|Abdulaziz]].<ref>{{cite book|url=https://books.google.com/books?id=-g81rF4Zga4C&pg=PA39&safe=on&redir_esc=y#v=onepage&q&f=false|title=Regime Stability in Saudi Arabia: The Challenge of Succession}}</ref><ref>{{cite web|url= http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/.U4DXvl5rhvY|title=Power Behind the Veil: Princesses of the House of Saud}}</ref> They divorced later.<ref>{{Cite web|url=http://www.dailystar.com.lb/ArticlePrint.aspx?id=113458&mode=print|title=More talk, less distortion|date=27 March 2007|accessdate=24 May 2014|work=The Daily Star}}</ref> Munira bint Abdullah Al Al Shaykh là vợ của Abdullah, bà sinh được Hoàng tử Khaled.<ref>{{Cite web|url=http://www.datarabia.com/royals/viewCommentary.do?id=12643|title=A Princely Rivalry: Clash of The Titans?|date=13 February 2010|accessdate= 24 May 2014|work=Datarabia}}</ref> Tathi bint Mishan al Faisal Al Jarba sinh cho ông Hoàng tử Mishaal.<ref>{{Cite web|url= http://www.cablegatesearch.net/cable.php?id=09JEDDAH489|title=Rediscovering Southern Arabia: Najran, The Emirate of King Abdullah's Son Prince|work=Wikileaks}}</ref> |
|||
Con trai cả của Abdullah là [[Khaled bin Abdullah|Hoàng tử Khaled]], người này là phó tư lệnh Vệ binh Quốc gia phía Tây cho đến năm 1992. Con trai thứ hai của ông là [[Mutaib bin Abdullah|Hoàng tử Mutaib]], từng là tư lệnh và bộ trưởng của Vệ binh Quốc gia, có mẹ là Munira Al Otaishan. [[Mishaal bin Abdullah Al Saud|Hoàng tử Mishaal]] từng là thống đốc của vùng [[Makkah (vùng)|Makkah]] (2013–2015).<ref>[http://arabnews.com/saudiarabia/article240167.ece "King Abdullah Arrives in Morocco"] {{webarchive|url=https://web.archive.org/web/20110123222722/http://arabnews.com/saudiarabia/article240167.ece |date=23 January 2011 }}, ''Arab News'', 22 January 2011.</ref> [[Abdul-Aziz bin Abdullah|Hoàng tử Abdulaziz]] là cựu cố vấn về Syria của ông<ref name="FPshend">Simon Henderson. [https://foreignpolicy.com/articles/2011/04/14/outraged_in_riyadh?page=0,1 "Outraged in Riyadh"], ''Foreign Policy'', 14 April 2011.</ref> và từng là thứ trưởng ngoại giao từ năm 2011. [[Faisal bin Abdullah|Hoàng tử Faisal]] là người đứng đầu Hội Trăng lưỡi liềm đỏ Ả Rập Xê Út. Con trai thứ bảy của Abdullah là [[Turki bin Abdullah Al Saud|Hoàng tử Turki]] từng là một phi công của Không quân Hoàng gia Ả Rập Xê Út, từng là thống đốc của vùng [[Riyadh (vùng)|Riyadh]] (2014–2015).<ref name=arabnews15213>{{cite news|title=Khaled appointed Riyadh governor, Turki his deputy |url=http://www.arabnews.com/khaled-appointed-riyadh-governor-turki-his-deputy |accessdate=15 February 2013 |newspaper=Arab News |date=15 February 2013 |location=Jeddah |deadurl=yes |archiveurl=https://web.archive.org/web/20130215044414/http://arabnews.com/khaled-appointed-riyadh-governor-turki-his-deputy |archivedate=15 February 2013 }}</ref> Người con trai út là Hoàng tử Badr, sinh năm 2003 tức khi Abdullah đã khoảng 79 tuổi.<ref>{{cite news|url=http://www.economist.com/node/16588422|work=The Economist|title=When kings and princes grow old|date=15 July 2010}}</ref> Vào tháng 10 năm 2015, con trai ông là Hoàng tử Majed bin Abdullah bin Abdulaziz Al Saud bị bắt giữ tại [[Los Angeles]] do sử dụng cocaine, say rượu, đe doạ nữ nhân viên, và có quan hệ tình dục đồng tính với một nam nhân viên.<ref>{{cite news |last=Styles |first=Ruth |title=I am a prince and I do what I want |url=http://www.dailymail.co.uk/news/article-3281354/I-prince-want-Saudi-royal-Prince-Majed-bin-Abdullah-bin-Abdulaziz-Al-Saud-accused-cocaine-fueled-rage-threatened-kill-Los-Angeles-mansion-staff-watched-pleasured-male-aide.html |date=20 October 2015 |newspaper=[[The Daily Mail]] |access-date=23 October 2015}}</ref> |
|||
Một người con gái của Abdullah là [[Adila bint Abdulla Al Saud|Công chúa Adila]] kết hôn với [[Faisal bin Abdullah bin Mohammed Al Saud|Faisal bin Abdullah]].<ref>{{cite web|url=http://www.saudiwave.com/index.php?option=com_content&view=article&id=1286%3Asaudi-arabias-king-changes-the-guard&Itemid=194|title=Saudi Arabia's King Changes the Guard|work=Saudiwave|date=29 November 2011|accessdate=18 June 2012}}</ref> Bà là một trong số ít công chúa của hoàng tộc Saud có vai trò bán công khai, và nổi tiếng vì tán thành cho phép nữ giới lái xe.<ref>{{cite web|url=http://www.washingtoninstitute.org/templateC05.php?CID=3015|title=Saudi Arabia Changes Course, Slowly|work=Washington Institute|date=18 February 2009|accessdate=18 June 2012}}</ref> Bà còn được gọi là "bộ mặt công chúng của cha".<ref name=nweek9/> Một người con gái khác của Abdullah là Công chúa Sahab, cô sinh năm 1993.<ref name=kwomen>{{cite web|last=Henderson|first=Simon|title=All the King's Women|url=https://foreignpolicy.com/articles/2011/09/26/all_the_kings_women|work=Foreign Policy|accessdate=13 April 2012|date=26 September 2011}}</ref> Sahab bint Abdullah kết hôn với [[Khalid bin Hamad Al Khalifa]], con trai của Quốc vương [[Bahrain]] [[Hamad bin Isa Al Khalifa]], vào ngày 6 tháng 6 năm 2011.<ref>{{cite news|url=http://www.bna.bh/portal/en/news/461140|title=Shaikh Khalid bin Hamad marries daughter of Saudi Monarch|work=Bahrain News Agency|date=16 June 2011|accessdate=28 July 2012}}</ref> Công chúa Sahab là con gái của quốc vương với một người vợ thuộc bộ lạc Al-Jarbah. Từ cuộc hôn nhân với Alanoud Al Fayez, là người mà ông đã ly hôn, ông có bốn con gái là Sahar, Maha, Hala và Jawahir.<ref>[http://www.channel4.com/news/saudi-arabia-king-abdullah-alanoud-al-fayez-daughters-jeddah 'They are hanging to life' - Saudi king's ex-wife speaks out], Channel 4, Fatima Manji, 10 March 2014</ref> Bốn công chúa bị quản thúc tại gia trong nhiều năm và không được phép rời khỏi đất nước.<ref>[http://www.dailymail.co.uk/news/article-2591253/Cast-wife-Saudi-king-begs-Obama-help-free-four-starving-daughters-whove-locked-away-palace-13-years.html 'We are cut off, isolated and alone': Imprisoned Saudi princesses blame their father King Abdullah as their mother calls on Obama to help free them.] ''[[The Daily Mail]]''. 28 March 2014,</ref><ref>Fatima Manji. 10 March 2014. [http://www.channel4.com/news/saudi-arabia-king-abdullah-alanoud-al-fayez-daughters-jeddah 'They are hanging to life' - Saudi king's ex-wife speaks out]''[[Channel 4]]''</ref>. Quốc vương Abdullah còn có một người con gái tên là Nora, song cô mất vào năm 1990 trong một tai nạn ô tô. Công chúa Fayza là con gái của ông, bà là mẹ của [[Saud bin Abdulaziz bin Nasser Al Saud]], người này bị buộc tội giết một người hầu tên là Bandar Abdulaziz tại London vào năm 2010.<ref>{{cite web|url=http://www.telegraph.co.uk/news/uknews/crime/8043460/Gay-Saudi-prince-murdered-servant-in-ferocious-attack.html|title=Gay Saudi prince 'murdered servant in ferocious attack'|author=Caroline Gammell|date=5 October 2010|work=Telegraph|accessdate=14 March 2015}}</ref> |
|||
Vào năm 2012, Abdullah được bầu chọn là người Hồi giáo có ảnh hưởng nhất trong nhóm 500 người Hồi giáo trong vòng bốn năm trước đó.<ref name=blitz12>{{cite news|last=Choudhury |first=Sohail |title=The philanthropist Saudi King |url=http://www.weeklyblitz.net/2381/the-philanthropist-saudi-king |accessdate=9 June 2012 |work=Blitz |date=9 June 2012 |deadurl=yes |archiveurl=https://web.archive.org/web/20120616052309/http://www.weeklyblitz.net/2381/the-philanthropist-saudi-king |archivedate=16 June 2012 |df=dmy }}</ref><ref>{{cite web|title=The Muslims 500: The World's Most Influential Muslims|url=http://themuslim500.com/|accessdate=9 February 2012}}</ref> Trong tháng 12 năm 2012, ''[[Forbes]]'' bầu chọn ông là nhân vật quyền lực thứ bảy trong danh sách Người quyền lực nhất thế giới vào năm 2012.<ref name=alarabiya712>{{cite news|title=Saudi King Abdullah named 7th most powerful figure in the world|url=http://english.alarabiya.net/articles/2012/12/07/253856.html|accessdate=8 December 2012|work=Al Arabiya|date=7 December 2012}}</ref> |
|||
Năm 2011, tạp chí ''[[Forbes]]'' ước tính rằng tài sản của ông và gia đình riêng là 21 tỉ USD, do đó ông là một trong các quân chủ giàu nhất thế giới.<ref name="Forbes_King21Gdollars">{{cite news|title=No. 3: King Abdullah bin Abdulaziz |date=11 March 2011 |work=Forbes |url=https://www.forbes.com/2008/08/20/worlds-richest-royals-biz-richroyals08-cz_ts_0820royal_slide_4.html?thisSpeed=15000 |accessdate=11 March 2011 |archiveurl=https://www.webcitation.org/5x7CpghdL?url=http://www.forbes.com/2008/08/20/worlds-richest-royals-biz-richroyals08-cz_ts_0820royal_slide_4.html?thisSpeed=15000 |archivedate=11 March 2011 |deadurl=no |df=dmy }}</ref> Abdullah thông thạo môn đua ngựa từ thời thanh niên, các chuồng ngựa của ông được cho là lớn nhất toàn quốc, với hơn 1.000 con ngựa ở khắp 5 phân khu do con trai ông là Mutaib bin Abdullah chỉ đạo.<ref name="the stables of the king abdullah">{{cite news| title= The stables of the king abdullah|url=http://www.janadriafarm.com/|accessdate=16 February 2013|work=Janadria Farm| year= 2013| location= Riyadh}}</ref> Quốc vương còn có trang trại Janadria, một tổ hợp lớn nằm tại ngoại ô của Riyadh.<ref name="the stables of the king abdullah"/> Quốc vương có một tổ hợ…p cung điện lớn với một vài khu dinh thự tại [[Casablanca]], Maroc.<ref>{{cite news|url= http://www.thenationalherald.com/4534/|title=Metropolitan Emmanuel in Casablanca|work=The National Herald|date=20 September 2012|accessdate=8 September 2013}}</ref> |
|||
===Tổ tiên=== |
|||
{{ahnentafel top|width=100%}} |
|||
<center>{{ahnentafel-compact5 |
|||
|style=font-size: 90%; line-height: 110%; |
|||
|border=1 |
|||
|boxstyle=padding-top: 0; padding-bottom: 0; |
|||
|boxstyle_1=background-color: #fcc; |
|||
|boxstyle_2=background-color: #fb9; |
|||
|boxstyle_3=background-color: #ffc; |
|||
|boxstyle_4=background-color: #bfc; |
|||
|boxstyle_5=background-color: #9fe; |
|||
|1= 1. '''Abdullah of Saudi Arabia'''<ref>[http://www.answers.com/topic/al-sudayri-family Al Sudayri Family] Gale Encyclopedia of the Mideast & N. Africa. Retrieved 3 September 2014.</ref> |
|||
|2= 2. [[Ibn Saud]] |
|||
|3= 3. [[Fahda bint Asi Al Shuraim]] |
|||
|4= 4. [[Abdul Rahman bin Faisal]] |
|||
|5= 5. Sarah bint Ahmed al-Kabir bin Mohammed Al-Sudairy |
|||
|6= 6. Asi Al-Shuraim |
|||
|8= 8. [[Faisal bin Turki bin Abdullah Al Saud]] |
|||
|9= 9. Sarah bint Mishari bin Abdulrahman bin Hassan Al-Saud |
|||
|10= 10. Ahmed al-Kabir bin Mohammed bin Turki Al-Sudairy |
|||
|16= 16. [[Turki bin Abdullah bin Muhammad]] |
|||
|17= 17. Hia bint Hamad bin Ali al-Faqih Angari Tamimi |
|||
|18= 18. Mishari bin Abdulrahman bin Hassan Al Saud |
|||
|20= 20. Mohammed bin Turki bin Suleiman Al-Sudairy |
|||
}}</center> |
|||
{{ahnentafel bottom}} |
|||
==Tham khảo== |
|||
{{Reflist|30em|refs= |
|||
<ref name="Abdullah_leavesKSA27Aug2012">{{cite news |title=(no title) |date=27 August 2012 |work=[[Saudi Press Agency]] |url=http://www.spa.gov.sa/English/readsinglenews.php?id=1024922&content_id=&scroll=1 |accessdate=3 September 2012 |archiveurl=https://www.webcitation.org/6AEiDPj0l?url=http://www.spa.gov.sa/English/readsinglenews.php?id=1024922&content_id=&scroll=1 |archivedate=27 August 2012 |deadurl=yes |df=dmy-all }}</ref> |
|||
<ref name="AlQuds_heartsurgery_earlySep2012">{{cite news|title=Saudi Arabia's King undergoes heart surgery in New York: Report |date=3 September 2012 |work=[[Press TV]] |url=http://www.presstv.ir/detail/2012/09/03/259660/saudi-king-has-another-surgery-in-us/ |accessdate=3 September 2012 |archiveurl=https://www.webcitation.org/6APhjqrNF?url=http://www.presstv.ir/detail/2012/09/03/259660/saudi-king-has-another-surgery-in-us/ |archivedate=4 September 2012 |deadurl=no |df=dmy }}</ref> |
|||
}} |
}} |
||
==Liên kết ngoài== |
|||
{{Commons category|Abdullah of Saudi Arabia}} |
|||
{{Wikiquote}} |
|||
*{{Guardiantopic|world/king-abdullah|King Abdullah}} |
|||
*{{NYTtopic|people/a/abdullah_bin_abdul_aziz_alsaud|Abdullah, King of Saudi Arabia}} |
|||
*[http://news.bbc.co.uk/2/hi/middle_east/7035991.stm Saudi king details succession law], ''[[BBC News]]'', 9 October 2007 |
|||
* [http://midwestdiplomacy.com/2013/11/17/shifting-sands-and-the-gulf-monarchies/ Shifting Sands: On the power transition in Abdullah's death] |
|||
{{s-start}} |
|||
{{s-hou|[[Nhà Saud]]|1 tháng 8|1924|23 tháng 1|2015|name=Abdullah}} |
|||
{{s-reg}} |
|||
{{s-bef|before=[[Fahd của Ả Rập Xê Út|Fahd]]}} |
|||
{{s-ttl|title=[[Vua Ả Rập Xê Út|Quốc vương Ả Rập Xê Út]]|years=2005–2015}} |
|||
{{s-aft|after=[[Salman của Ả Rập Xê Út|Salman]]}} |
|||
|- |
|||
{{s-roy|sa}} |
|||
{{s-bef|before=[[Fahd của Ả Rập Xê Út|Fahd]]}} |
|||
{{s-ttl|title=[[Thái tử Ả Rập Xê Út]]|years=1982–2005}} |
|||
{{s-aft|after=[[Sultan bin Abdulaziz|Sultan]]}} |
|||
{{s-end}} |
|||
{{Authority control}} |
|||
{{DEFAULTSORT:Abdullah của Ả Rập Xê Út}} |
|||
[[Thể loại:Vua Ả Rập Xê Út]] |
[[Thể loại:Vua Ả Rập Xê Út]] |
||
[[Thể loại:Thủ tướng Ả Rập Saudi]] |
[[Thể loại:Thủ tướng Ả Rập Saudi]] |
||
[[Thể loại:Chính khách Ả Rập Xê Út]] |
[[Thể loại:Chính khách Ả Rập Xê Út]] |
||
[[Thể loại:Tỷ phú Ả Rập Xê Út]] |
[[Thể loại:Tỷ phú Ả Rập Xê Út]] |
||
[[Thể loại:Riyadh]] |
|||
[[Thể loại:Hồi giáo Sunni]] |
|||
[[Thể loại:Nhà Saud]] |
[[Thể loại:Nhà Saud]] |
||
[[Thể loại:Sinh 1924]] |
[[Thể loại:Sinh 1924]] |
Phiên bản lúc 05:38, ngày 13 tháng 1 năm 2018
Abdullah bin Abdulaziz | |||||
---|---|---|---|---|---|
Quốc vương Ả Rập Xê Út | |||||
Quốc vương Abdullah vào năm 2007 | |||||
Quốc vương Ả Rập Xê Út Thủ tướng | |||||
Tại vị | 1 tháng 8 năm 2005 – 23 tháng 1 năm 2015 | ||||
Bay'ah | 2 tháng 8 năm 2005 | ||||
Tiền nhiệm | Fahd | ||||
Nhiếp chính | 2 tháng 1 năm 1996 – 1 tháng 8 năm 2005 | ||||
Thái tử | Sultan (2005–11) Nayef (2011–12) Salman (2012–15) | ||||
Kế nhiệm | Salman | ||||
Thông tin chung | |||||
Sinh | Riyadh, Vương quốc Nejd (nay là Ả Rập Xê Út) | 1 tháng 8 năm 1924||||
Mất | 23 tháng 1 năm 2015 Riyadh, Ả Rập Xê Út | (90 tuổi)||||
Hậu duệ | Danh sách
| ||||
| |||||
Hoàng tộc | Nhà Saud | ||||
Thân phụ | Abdulaziz | ||||
Thân mẫu | Fahda Al Shuraim | ||||
Tôn giáo | Hồi giáo Sunni |
Abdullah bin Abdulaziz Al Saud (tiếng Ả Rập: عبدالله بن عبدالعزيز آل سعود, ‘Abd Allāh ibn ‘Abd al-‘Azīz Āl Sa‘ūd, phát âm Najd: [ʢæbˈdɑɫ.ɫɐ ben ˈʢæbdæl ʢæˈziːz ʔæːl sæˈʢuːd]; 1 tháng 8 năm 1924 – 23 tháng 1 năm 2015) là quốc vương của Ả Rập Xê Út từ năm 2005 đến năm 2015.[1] Abdullah là con của vị quốc vương khai quốc Ibn Saud. Ông từng nắm giữ các chức vụ quan trọng trong hầu hết thời gian sau khi trưởng thành. Năm 1961, ông nhận chức vụ đầu tiên là thống đốc của Mecca.[2] Tiếp đó, ông trở thành tư lệnh của Vệ binh Quốc gia Ả Rập Xê Út, và giữ chức vụ này ngay cả sau khi đăng cơ làm quốc vương. Ông cũng được thăng làm thứ trưởng bộ quốc phòng và trở thành thái tử khi Fahd đăng cơ vào năm 1982. Sau khi Quốc vương Fahd bị một cơn đột quỵ nặng vào năm 1995, Abdullad trở thành người cai trị Ả Rập Xê Út trên thực tế.
Trong thời gian cai trị, ông duy trì quan hệ mật thiết với Mỹ và Anh, chi hàng tỉ USD để mua trang thiết bị phòng thủ từ hai đối tác này.[3] Ông duy trì được nguyên trạng bất chấp các làn sóng kháng nghị trong nước vào Mùa xuân Ả Rập.[4] Hai vị thái tử Sultan và Nayef qua đời trước ông, Abdullah sau đó phong bộ trưởng quốc phòng 76 tuổi là Salman bin Abdulaziz Al Saud làm thái tử. Theo nhiều tường thuật, Abdullah kết hôn 30 lần và có hơn 35 con.[5][6][7][8] Tài sản cá nhân của ông ước tính là 18 tỉ USD, nhờ đó trở thành nguyên thủ quốc gia giàu có thứ ba trên thế giới vào năm 2008.[9]
Thời kỳ đầu
Abdullah được thuật là sinh vào ngày 1 tháng 4 năm 1924 tại Riyadh.[10][11][12] Tuy nhiên, một số nguồn cho rằng mốc thời gian này không chính xác, và ông thực ra lớn hơn khoảng tám tuổi.[13] Ông là con trai thứ mười của Quốc vương Abdulaziz.[14] Mẹ ông tên là Fahda bint Asi Al Shuraim, bà xuất thân từ vương triều Rashid, từng là đối thủ trường kỳ của vương triều Saud.[15][16] Bà là hậu duệ của bộ lạc Shammar hùng mạnh – và là con gái của cựu tù trưởng bộ lạc là Asi Shuraim.[17] Bà mất khi Abdullah được sáu tuổi.[18] He had younger full-sisters.[18]
Madawi Al-Rasheed cho rằng do xuất thân của mẹ ông và việc ông từng bị trở ngại về khả năng nói, nên tiến trình thăng tiến của ông bị trì hoãn so với các con trai khác của Quốc vương Abdulaziz.[19]
Năm 1963, Abdullah trở thành tư lệnh của Vệ binh Quốc gia Ả Rập Xê Út (SANG). Chức vụ này cho phép ông củng cố vị trí của mình trong Nhà Saud. SANG từng dựa trên Ikhwan, song đã trở thành một lực lượng quân sự hiện đại dưới quyền chỉ huy của ông. Từ năm 1985, SANG cũng bảo trợ lễ hội Janadiriyah, nhằm thể chế hoá vũ đạo dân gian truyền thống, các cuộc đua lạc đà và di sản bộ lạc.[19]
Quốc vương Khalid bổ nhiệm Abdullah làm phó thủ tướng thứ hai vào tháng 3 năm 1975, phán ánh vị thế của ông là đứng thứ hai trong thứ bậc kế vị.[20][21] Nói cách khác, Hoàng tử Abdullah trở thành nhân vật đứng thứ ba trong chính quyền Ả Rập Xê Út.[22] Tuy nhiên, việc bổ nhiệm ông gây ra xích mích trong Nhà Saud.[23] Thái tử đương thời là Fahd cùng bảy vị hoàng tử cùng mẹ với ông ta ủng hộ việc bổ nhiệm một trong số họ là Hoàng tử Sultan.[23] Abdullah bị áp lực giao lại quyền kiểm soát SANG để đổi lấy việc được bổ nhiệm làm phó thủ tướng thứ hai. Đến tháng 8 năm 1977, việc này trở thành một đề tài của hàng trăm hoàng tử tại Riyadh.[23] Abdullah không từ bỏ quyền lực tại SANG vì ông lo ngại rằng điều này sẽ làm yếu quyền uy của mình.[23]
Thái tử và nhiếp chính
Đến ngày 13 tháng 6 năm 1982, tức ngày Quốc vương Khalid qua đời, Fahd trở thành quốc vương còn Abdullah trở thành thái tử và vẫn giữ lại chức vụ tư lệnh của Vệ binh Quốc gia. Trong thời gian là thái tử, Abdullah được mô tả là một người ủng hộ hoà giải.[24] Ông nỗ lực nhằm tập hợp một lượng lớn các hoàng tử đứng ngoài lề vốn đã bất mãn trước viễn cảnh việc kế vị được truyền trong các anh em có mẹ thuộc gia tộc Sudairi. Việc ông kiểm soát Vệ binh Quốc gia cũng là một yếu tố chủ chốt giúp ông trở thành thái tử thành công.[25] Đến khi Quốc vương Fahd bị mất năng lực do đột quỵ vào năm 1995,[26] Thái tử Abdullah có vai trò là người nhiếp chính trên thực tế tại Ả Rập Xê Út.
Đến tháng 5 năm 2001, Thái tử Abdullah không chấp nhận lời mời sang thăm Washington do Hoa Kỳ ủng hộ Israel trong cuộc nổi dậy lần thứ nhì của người Palestine. Ông cũng tỏ ra thiết tha hơn so với Quốc vương Fahd trong việc cắt giảm chi tiêu chính phủ và mở cửa Ả Rập Xê Út về mặt kinh tế. Ông thúc đẩy việc đưa Ả Rập Xê Út làm thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới, khiến một số người bất ngờ.[27]
Năm 2002, ông phát triển một Sáng kiến Hoà bình Ả Rập, thường được gọi là "kế hoạch Abdullah", nhằm đạt được một giải pháp đồng thuận về xung đột Ả Rập-Israel.[28] Sáng kiến được thông qua tại hội nghị thượng đỉnh Beirut của Liên đoàn Ả Rập trong tháng 3 năm 2002.[28]
Đến cuối năm 2003, sau khi nhánh al-Qaeda tại Ả Rập Xê Út tiến hành một loạt vụ đánh bom, đe doạ làm mất ổn định quốc gia, Thái tử Abdullah cùng với giới tinh hoa bắt đầu giải quyết các mối lo chính trị. Một trong các động thái như vậy là kế hoạch của ông nhằm thúc đẩy khoan dung hơn với đa dạng tôn giáo và kiềm chế thế lực của chủ nghĩa cực đoan chính trị-tôn giáo trong vương quốc, dẫn đến việc thành lập Đối thoại Quốc gia. Đến mùa hè năm 2003, Abdullah có cống hiến đáng kể đằng sau việc thành một một diễn đàn đối thoại quốc gia, giúp đưa các nhân vật tôn giáo hàng đầu thảo luận với nhau, trong đó có một cuộc họp có sự tham gia của học giả Shia ưu tú Hasan al-Saffar, cũng như một nhóm các giáo sĩ Sunni trước đây từng bày tỏ không ưa người Shia thiểu số.[29]
Quốc vương
Abdullah trở thành quốc vương khi Fahd mất, ông chính thức đăng cơ vào ngày 2 tháng 8 năm 2005. Chính quyền của Abdullad nỗ lực tiến hành cải cách trên các lĩnh vực khác nhau. Năm 2005, Abdullah thực hiện một chương trình học bổng chính phủ nhằm cử các nam nữ thanh niên Ả Rập Xê Út ra nước ngoài học đại học và sau đại học tại nhiều trường trên khắp thế giới. Theo ước tính, có trên 70.000 thanh niên Ả Rập Xê Út xuất ngoại học tập tại hơn 25 quốc gia, nhất là Hoa Kỳ, Anh và Úc. Chính quyền cũng hợp tác với CDC nhằm thiết lập một hệ thống sàng lọc dịch bệnh tiên tiến để bảo vệ ba triệu người hành hương Hajj vào năm 2010.
Quốc vương Abdullah thi hành nhiều biện pháp cải cách, ông tái tổ chức ban lãnh đạo của bộ giáo dục vào năm 2009 bằng cách đưa người con rể ủng hộ cải cách là Faisal bin Abdullah làm bộ trưởng mới. Ông cũng bổ nhiệm Nora Al Fayez, một cựu giáo viên học tại Mỹ, làm thứ trưởng giáo dục phụ trách về một cục mới dành cho nữ sinh viên.[30]
Ông tiến hành tái cơ cấu từ trên xuống dưới các toà án của quốc gia nhằm thực hiện phúc thẩm các quyết định tư pháp và đào tạo chuyên nghiệp hơn cho các thẩm phán Shari'a, cũng những hạng mục khác. Ông phát triển một cơ quan xúc tiến đầu tư mới để xét lại quá trình khởi nghiệp phức tạp tại Ả Rập Xê Út và lập ra một cơ cấu điều tiết thị trường vốn. Ông cũng thúc đẩy việc xây dựng Đại học Quốc vương Abdullah về Khoa học-Kỹ thuật. Quốc vương Abdullah đầu tư vào giáo dục lực lượng lao động cho các công việc tương lai. Chính phủ cũng khuyến khích phát triển các lĩnh vực phi hydrocarbon, trong đó vương quốc có lợi thế so sánh do có khai mỏ, năng lượng mặt trời, và du lịch tôn giáo. Ngân sách vương quốc năm 2010 phản ánh các ưu tiên này, với khoảng 25% được dành cho giáo dục, và là một gói kích thích kinh tế quan trọng.[31][32]
Nhằm phản ứng trước chủ nghĩa khủng bố trong nước, chính quyền của ông tiến hành một loạt hành động trấn áp, bao gồm tấn công, bắt giữ, tra khảo và hành hình.[33] Ông thề chiến đấu với các hệ tư tưởng khủng bố trong nước. Ông cũng đưa việc bảo vệ cơ sở hạ tầng quan trọng của Ả Rập Xê Út là một ưu tiên an ninh cao nhất.[34] Chiến lược chống chủ nghĩa khủng bố của ông có hai hướng, ông tấn công căn nguyên của chủ nghĩa cực đoan vốn hỗ trợ cho Al-Qaida thông qua các cải cách giáo dục và tư pháp nhằm làm suy yếu ảnh hưởng của các phần tử phản động trong tổ chức tôn giáo.[cần dẫn nguồn]
Trong tháng 10 năm 2010, Quốc vương Abdullah ra sắc lệnh rằng chỉ có các học giả tôn giáo được phê chuẩn chính thức liên kết với Hội đồng Cấp cao Ulema mới được phép ban hành các fatwa. Các sắc lệnh tương tự từ năm 2005 trước đó hiếm khi được thi hành. Các fatwa cá nhân liên quan đến các vấn đề cá nhân được miễn theo sắc lệnh hoàng gia. Sắc lệnh cũng chỉ thị Đại Mufti xác định các học giả đủ tư cách.[35]
Trong bối cảnh Mùa xuân Ả Rập, Abdullah ban bố một chương trình chi tiêu mới trị giá 37 tỉ USD, bao gồm trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp giáo dục và nhà ở, xoá nợ và một kênh thể thao mới. Ngoài ra, còn có cam kết chi tiêu tổng cộng 400 tỉ USD đến hết năm 2014 nhằm cải thiện về giáo dục, y tế và cơ sở hạ tầng trong nước.[36] Sau đó, trong bối cảnh các cuộc biểu tình trong nước, vào tháng 9 năm 2011, Quốc vương công bố trao quyền bầu cử cho nữ giới trong cuộc bầu cử hội đồng đô thị năm 2015. Ông cũng phát biểu rằng nữ giới đủ điều kiện để tham gia Hội đồng Tư vấn phi tuyển cử.[37][38]
Trong tháng 1 năm 2012, Quốc vương Abdullah bãi chức người đứng đầu cơ quan cảnh sát tôn giáo quốc gia, thay thế bằng một giáo sĩ ôn hoà hơn là Abdullatif Abdel Aziz al-Sheikh.[39]
Vào tháng 7 năm 2012, Ả Rập Xê Út công bố rằng sẽ cho phép các nữ vận động viên tham gia Thế vận hội lần đầu tiên. Việc nữ giới công khai tham gia thế thao gặp phải chống đối mạnh mẽ từ nhiều nhân vật bảo thủ tôn giáo trong nước. Các quan chức Ả Rập Xê Út nói rằng nếu đủ tư cách tham gia thì các vận động viên nữ sẽ mặc trang phục "bảo vệ phẩm giá của họ".[40] Ngày 11 tháng 1 năm 2013, Abdullah bổ nhiệm ba mươi phụ nữ vào Hội đồng Tư vấn và sửa đổi luật có liên quan để yêu cầu rằng có ít nhất 20% trong số 150 thành viên của hội đồng này là phụ nữ.[41]
Trong tháng 8 năm 2013, nội các Ả Rập Xê Út lần đầu tiên thông qua một điều luật quy định bạo lực gia đình là tội hình sự.[42] Luật hình sự hoá việc lạm dụng về tâm lý, tình dục cũng như thể xác.[43]
Đối ngoại
Trong tháng 11 năm 2007, Abdullah sang thăm Giáo hoàng Benedicto XVI tại Điện Tông Tòa, trở thành quân chủ đầu tiên của nước này đến Vatican.[44][45] Vào tháng 3 năm 2008, ông kêu gọi về đối thoại chân thành giữa tín đồ các tôn giáo.[46]
Trong tháng 6 năm 2008, ông tổ chức một hội nghị tại Mecca nhằm thúc giục các nhà lãnh đạo Hồi giáo nhất trí với các nhà lãnh đạo Do Thái giáo và Cơ Đốc giáo.[47] Ông thảo luận với các học giả Hồi giáo trong và ngoài nước, và được tán thành tổ chức đối thoại liên tôn giáo. Trong cùng tháng, Ả Rập Xê Út và Tây Ban Nha đồng ý tổ chức đối thoại liên tôn giáo tại Tây Ban Nha.[48] Hội nghị lịch sử này cuối cùng diễn ra tại Madrid vào tháng 7 năm 2008.[49] Năm 2011, chính phủ Áo, Tây Ban Nha và Ả Rập Xê Út ký kết một thoả thuận về việc thành lập Trung tâm Quốc tế về Đối thoại liên tôn giáo và liên văn hoá Quốc vương Abdullah bin Abdulaziz tại Wien.[50]
Quốc vương Abdullah kêu gọi lập ra một thị trường chung Ả Rập vào tháng 1 năm 2011. Bộ trưởng Ngoại giao Ả Rập Xê Út Saud bin Faisal nói rằng Liên minh Thuế quan Ả Rập sẽ sẵn sàng vào năm 2015, và đến năm 2017 thì thị trường chung có thể có hiệu lực. Diễn ra các nỗ lực mạnh mẽ nhằm liên kết các quốc gia Ả Rập thông qua một hệ thống đường sắt và lưới điện. Công trình về dự án lưới điện đã được bắt đầu tại một số quốc gia Ả Rập.[51]
Quốc vương Abdullah từ lâu đã có tư tưởng thân Mỹ và là một đồng minh thân thiết lâu năm của Hoa Kỳ. Vào tháng 10 năm 1976, ông từng sang Hoa Kỳ để được đào tạo nhằm giữ các trách nhiệm lớn hơn tại Riyadh, ông từng gặp Tổng thống Gerald Ford. Ông đến Hoa Kỳ với thân phận thái tử vào năm 1987, gặp Phó Tổng thống George H. W. Bush. Vào tháng 9 năm 1998, Abdullah thực hiện một chuyến thăm cấp nhà nước sang Hoa Kỳ và gặp Tổng thống Bill Clinton tại Washington. Vào tháng 9 năm 2000, ông tham dự các lễ kỷ niệm thiên niên kỷ tại trụ sở Liên Hiệp Quốc tại New York. Vào tháng 4 năm 2002, Abdullah tiến hành chuyến thăm nhà nước đến Hoa Kỳ và gặp Tổng thống George W. Bush, ông trở lại Hoa Kỳ vào năm 2005 và gặp Tổng thống Bush. Vào tháng 4 năm 2009, tại một hội nghị thượng đỉnh của các nhà lãnh đạo thế giới Tổng thống Barack Obama đã gặp Quốc vương Abdullah, và đến tháng 6 năm 2009 ông đón tiếp Tổng thống Obama tại Ả Rập Xê Út. Trong cùng tháng, Tổng thống Obama đón tiếp Quốc vương tại Nhà Trắng. Quốc vương Abdullah thể hiện ủng hộ lớn đối với cương vị tổng thống của Obama, cho rằng việc Obama đắc cử tạo ra "hy vọng lớn" trong thế giới Hồi giáo.[52]
Chính quyền Bush phớt lờ lời khuyên từ ông về việc chống lại cuộc xâm chiếm Iraq.[34] Tuy nhiên, Riyadh cung cấp hỗ trợ quan trọng cho Hoa Kỳ trong cuộc chiến.[53] Quốc vương Abdullah tỏ ra hoàn toàn thiếu tin tưởng Thủ tướng Iraq Nouri Al Maliki và có ít hy vọng về cải thiện quan hệ giữa hai nước chừng nào al-Maliki còn tại vị.[54] Vào tháng 9 năm 2014, sau cuộc bành trướng của Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant (ISIL), ông ra tuyên bố kêu gọi các nhà lãnh đạo và học giả của thế giới Hồi giáo thực hiện bổn nhiệm của họ trước Đấng Toàn năng.[55]
Năm 2006, Nhà lãnh đạo tối cao của Iran là Khamenei cử cố vấn Ali Akbar Velayati mang thư đến yêu cầu Quốc vương Abdullah cho phép lập một kênh liên lạc chính thức giữa hai nhà lãnh đạo. Abdullah nói rằng ông đồng ý, và kênh này được lập ra, song chưa từng được sử dụng.[56] Vào tháng 4 năm 2008, theo một điện tín của Hoa Kỳ bị Wikileaks công khai, Quốc vương Abdullah nói với Đại sứ Hoa Kỳ tại Iraq Ryan Crocker, và Tướng quân David Petraeus về "cắt đầu con rắn". Đại sứ nước này tại Washington, Adel al-Jubeir, "nhắc lại lời kêu gọi thường xuyên của Quốc vương về việc Hoa Kỳ tấn công Iran" và chấm dứt chương trình hạt nhân của Iran.[57] Quốc vương Abdullah khẳng định rằng Iran đang nỗ lực lập ra các tổ chức giống như Hezbollah tại các quốc gia châu Phi.[52][56]
Được Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh tán thành, Ả Rập Xê Út cử 1.200 binh sĩ sang Bahrain để bảo vệ các cơ sở hạ tầng công nghiệp, dẫn đến căng thẳng quan hệ với Hoa Kỳ. Các quân nhân này thuộc Lực lượng lá chắn bán đảo, đóng tại Ả Rập Xê Út song không liên kết với riêng quốc gia nào.[58][59]
Từ khi Quốc vương Abdullah sang thăm Bắc Kinh vào tháng 1 năm 2006, quan hệ Ả Rập Xê Út-Trung Quốc chủ yếu tập trung vào năng lượng và mậu dịch. Ông là nguyên thủ quốc gia đầu tiên của Ả Rập Xê Út sang thăm Trung Quốc từ khi hai quốc gia thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1990.[60] Trung Quốc nhanh chóng trở thành đối tác nhập khẩu lớn nhất từ Ả Rập Xê Út, và Ả Rập Xê Út cũng cam kết đầu tư đáng kể vào Trung Quốc, trong đó có nhà máy lọc dầu trị giá 8 tỉ USD tại Phúc Kiến. Theo điện tín do WikiLeaks công bố, Quốc vương nói với Trung Quốc rằng sẵn sàng đảm bảo cung cấp dầu để đổi lấy việc Trung Quốc gây áp lực khiến Iran không phát triển vũ khí hạt nhân.[31] Vào cuối tháng 3 năm 2011, Quốc vương Abdullah phái Tổng thư ký Hội đồng An ninh Quốc gia Bandar đến Trung Quốc nhằm giành ủng hộ của nước này cho quan điểm của Ả Rập Xê Út về Mùa xuân Ả Rập. Đổi lại, các hợp đồng vũ khí có lợi được bí mật đề xuất với Trung Quốc. Ngoài ra, Quốc vương Abdullah cho rằng Trung Quốc và Ấn Độ là các thị trường tương lai đối với năng lượng của Ả Rập Xê Út.[61]
Đến tháng 9 năm 2009, Quốc vương Abdullah được Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy tiếp đón, họ đạt được nhiều cam kết ngoại giao khác nhau.[62] Đến tháng 1 năm 2011, Ả Rập Xê Út cấp quy chế tị nạn cho nhà lãnh đạo bị trục xuất của Tunisia là Zine El-Abidine Ben Ali.[51] Theo điện tín bị rò rỉ, Quốc vương Abdullah cảm thông với cựu Tổng thống Yemen Saleh nhiều hơn so với Thái tử Sultan.[63]
Quốc vương Abdullah ủng hộ khôi phục quan hệ ngoại giao với chính phủ Syria và Bashar al-Assad. Họ gặp nhau tại Damascus vào ngày 7 tháng 10 năm 2009.[64] Ngoài ra, Assad còn tham dự lễ khánh thành Đại học Quốc vương Abdullah về Khoa học và Công nghệ vào tháng 10 năm 2009. Quan hệ giữa Syria và Ả Rập Xê Út bị xấu đi do hậu quả của Nội chiến Syria. Trong tháng 8 năm 2011, Quốc vương Abdullah triệu hồi đại sứ của mình khỏi Damascus do bất ổn chính trị tại Syria và đóng cửa đại sứ quán.[65]
Vào tháng 12 năm 2011, Quốc vương Abdullah kêu gọi các nhà lãnh đạo của Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh củng cố liên minh của họ thành một "thực thể đơn nhất" đoàn kết trong khi đối phó với các mối đe doạ đến an ninh quốc gia.[66]
Kế vị
Người kế vị của Quốc vương Abdullah lúc đầu là em trai khác mẹ Thái tử Sultan, song vị thái tử ngày qua đời vào ngày 22 tháng 10 năm 2011. Ngôi vị thái tử sau được được chuyển cho em trai ruột của Sultan là Nayef, song người này qua đời vào ngày 16 tháng 6 năm 2002 tại Genève, Thuỵ Sĩ, trong lúc trải qua các xét nghiệm y tế về một bệnh chưa được tiết lộ. Người kế vị thứ ba của ông là vị em trai khác mẹ Salman, người này trở thành thái tử vào ngày 18 tháng 6 năm 2012,[67] và kế vị vào ngày 2015.
Năm 2006, Abdullah lập ra Hội đồng Trung thành, cơ cấu này gồm có các con trai và cháu trai ruột của vị quốc vương khai quốc Ả Rập Xê Út là Abdulaziz. Các thành viên trong hội đồng sẽ bỏ phiếu kín để chọn các quốc vương và thái tử tương lai. Nhiệm vụ của hội đồng chỉ bắt đầu sau khi cả Quốc vương Abdullah và Hoàng tử Sultan kết thúc nhiệm kỳ. Tình thế không rõ ràng khi Hoàng tử Sultan mất trước khi kết thúc thời kỳ trị vì của Abdullah, đặt câu hỏi về việc hội đồng có bỏ phiếu bầu thái tử mới hay không, hay là Hoàng tử Nayef sẽ tự động được lấp chỗ trống. Dù vậy, Hoàng tử Nayef trở thành thái tử vào ngày 27 tháng 10 năm 2011 sau khi Quốc vương tham vấn Hội đồng Trung thành.[68]
Vào tháng 11 năm 2010, Hoàng tử Nayef chủ trì một cuộc họp nội các do sức khoẻ của Quốc vương kém đi.[69] Trong cùng tháng, Quốc vương Abdullah chuyển giao nhiệm vụ tư lệnh Vệ binh Quốc gia cho con trai ông là Hoàng tử Mutaib. Quốc vương Abdullah được cho là gây dựng nên một đơn vị phần lớn mang tính nghi lễ này thành một đội quân hùng mạnh hiện đaị với 260.000 người, làm đối trọng với lục quân. Vệ binh Quốc gia là căn cứ quyền lực của Quốc vương Abdullah và có trách nhiệm bảo vệ hoàng gia. Điều này được cho là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy quốc vương bắt đầu giảm thiểu một số nhiệm vụ của mình.[70]
Qua đời
Quốc vương đã cắt giảm hoạt động từ tháng 6 năm 2010 dù không có giải thích rõ ràng. Các nhà ngoại giao cho biết có sự không chắc chắn về mức độ vấn đề sức khoẻ của ông từ khi Abdullah hoãn một chuyến thăm Pháp.[khi nào?] Trong một lần xuất hiện trên truyền hình, ông phải dùng đến gậy và nói rằng có sức khoẻ tốt song có một số thứ khiến ông "phiền muộn". Trong một chuyến thăm của các nhà ngoại giao Hoa Kỳ đến Ả Rập Xê Út vào tháng 4 năm 2014, Quốc vương Abdullah được nhìn thấy là dùng ống thở trong lúc nói chuyện.
Từ năm 2010 đến năm 2012, Quốc vương Abdullah có bốn cuộc phẫu thuật lưng.[71] Hai cuộc phẫu thuật đầu tiên diễn ra tại New York, một vào năm 2010 vì thoát vị đĩa đệm và một cục máu đông ép vào dây thần kinh trên lưng, và lần thứ hai là để ổn định đốt sống vào năm 2011.[71] Cuộc phẫu thuật thứ ba diễn ra tại Riyadh vào năm 2011. Và cuộc phẫu thuật thứ tư diễn ra tại Riyadh vào ngày 17 tháng 11 năm 2012.[71]
Trong tháng 11 năm 2010, các vấn đề về lưng của ông được công khai trên truyền thông. Ông bị "tụ máu" quanh tuỷ sống. Ông bị thoát vị đĩa đệm và được các bác sĩ khuyến cáo nghỉ ngơi. Nhằm duy trì tính ổn định của quốc gia, Thái tử Sultan từ Maroc về nước khi Quốc vương vắng mặt.[72] Quốc vương nhập viện tại Bệnh viện New York-Presbyterian sau khi một cục máu đông làm phức tạp thêm căn bệnh thoát vị đĩa đệm, và trải qua ca phẫu thuật lưng thành công.[73][74][75] Sau đó ông lại trải qua một cuộc phẫu thuật thành công khác nhằm "ổn định một số đốt sống". Ông xuất viện vào ngày 22 tháng 12 năm 2010 và dưỡng bệnh tại The Plaza tại New York.[76] Vào ngày 22 tháng 1 năm 2011, ông rời Hoa Kỳ và sang Maroc,[77] rồi về nước vào ngày 23 tháng 2 năm 2011.[78]
Quốc vương Abdullah xuất cảnh để "nghỉ phép đặc biệt" vào ngày 27 tháng 8 năm 2012.[79] Báo Al-Quds tường thuật rằng ông trải qua một ca phẫu thuật tại Bệnh viện Mount Sinai, New York, trong hoặc trước ngày 4 tháng 9 năm 2012, sau một cơn đau tim.[80] Tuy nhiên, không có tường thuật chính thức về cuộc phẫu thuật giả thuyết này – thay vào đó họ công bố rằng Quốc vương tiến thành một chuyến đi riêng tư sang Maroc, vốn là nơi quen thuộc với ông. Quốc vương về nước từ Maroc vào ngày 24 tháng 9.[81] Gần hai tháng sau, vào tháng 11 năm 2012, Quốc vương Abdullah trải qua một ca phẫu thuật lưng khác tại Riyadh[82] và xuất viện vào ngày 13 tháng 12 năm 2012.[83] Một tường thuật vào tháng 4 năm 2014 nói rằng cuộc sống Quốc vượng còn khoảng sáu tháng nữa, dẫn theo một chuẩn đoán về thời hạn cuối của bệnh ung thư phổi.[84] Ngày 2 tháng 1 năm 2015, Abdullah nhập viện tại Riyadh vì bệnh viêm phổi[85] và mất vào ngày 23 tháng 1 ở tuổi 90.[86][87] Theo truyền thống Hồi giáo, tang lễ của ông được tổ chức trong cùng ngày, một buổi lễ công cộng tại Đại Thánh đường của Riyadh trước khi an táng tại một ngôi mộ vô danh trong nghĩa trang Al Oud.[88] Chính quyền tuyên bố ba ngày quốc tang, treo rủ quốc kỳ.[88]
Cuộc sống cá nhân
Quốc vương Abdullah theo con đường hôn nhân của cha mình khi kết hôn với con gái của al Shalan của Anizah, al Fayz của Bani Sakhr, và al Jarbah của nhánh Iraq thuộc bộ lạc Shammar.[19] Quốc vương Abdullah có khoảng 30 vợ, và có khoảng 35 con.[5][6][7][8] Một người vợ của ông là chị em gái của vợ Rifaat al-Assad.[89] Ông kết hôn với Jawahir bint Ali Hussein thuộc gia tộc Al Jiluwi, cùng bà sinh ra Công chúa Anoud và Hoàng tử Saud.[90][91] Aida Fustuq là một người vợ khác của Abdullah, họ có với nhau hai con là Adila và Abdulaziz.[92][93] They divorced later.[94] Munira bint Abdullah Al Al Shaykh là vợ của Abdullah, bà sinh được Hoàng tử Khaled.[95] Tathi bint Mishan al Faisal Al Jarba sinh cho ông Hoàng tử Mishaal.[96]
Con trai cả của Abdullah là Hoàng tử Khaled, người này là phó tư lệnh Vệ binh Quốc gia phía Tây cho đến năm 1992. Con trai thứ hai của ông là Hoàng tử Mutaib, từng là tư lệnh và bộ trưởng của Vệ binh Quốc gia, có mẹ là Munira Al Otaishan. Hoàng tử Mishaal từng là thống đốc của vùng Makkah (2013–2015).[97] Hoàng tử Abdulaziz là cựu cố vấn về Syria của ông[89] và từng là thứ trưởng ngoại giao từ năm 2011. Hoàng tử Faisal là người đứng đầu Hội Trăng lưỡi liềm đỏ Ả Rập Xê Út. Con trai thứ bảy của Abdullah là Hoàng tử Turki từng là một phi công của Không quân Hoàng gia Ả Rập Xê Út, từng là thống đốc của vùng Riyadh (2014–2015).[98] Người con trai út là Hoàng tử Badr, sinh năm 2003 tức khi Abdullah đã khoảng 79 tuổi.[99] Vào tháng 10 năm 2015, con trai ông là Hoàng tử Majed bin Abdullah bin Abdulaziz Al Saud bị bắt giữ tại Los Angeles do sử dụng cocaine, say rượu, đe doạ nữ nhân viên, và có quan hệ tình dục đồng tính với một nam nhân viên.[100]
Một người con gái của Abdullah là Công chúa Adila kết hôn với Faisal bin Abdullah.[101] Bà là một trong số ít công chúa của hoàng tộc Saud có vai trò bán công khai, và nổi tiếng vì tán thành cho phép nữ giới lái xe.[102] Bà còn được gọi là "bộ mặt công chúng của cha".[18] Một người con gái khác của Abdullah là Công chúa Sahab, cô sinh năm 1993.[103] Sahab bint Abdullah kết hôn với Khalid bin Hamad Al Khalifa, con trai của Quốc vương Bahrain Hamad bin Isa Al Khalifa, vào ngày 6 tháng 6 năm 2011.[104] Công chúa Sahab là con gái của quốc vương với một người vợ thuộc bộ lạc Al-Jarbah. Từ cuộc hôn nhân với Alanoud Al Fayez, là người mà ông đã ly hôn, ông có bốn con gái là Sahar, Maha, Hala và Jawahir.[105] Bốn công chúa bị quản thúc tại gia trong nhiều năm và không được phép rời khỏi đất nước.[106][107]. Quốc vương Abdullah còn có một người con gái tên là Nora, song cô mất vào năm 1990 trong một tai nạn ô tô. Công chúa Fayza là con gái của ông, bà là mẹ của Saud bin Abdulaziz bin Nasser Al Saud, người này bị buộc tội giết một người hầu tên là Bandar Abdulaziz tại London vào năm 2010.[108]
Vào năm 2012, Abdullah được bầu chọn là người Hồi giáo có ảnh hưởng nhất trong nhóm 500 người Hồi giáo trong vòng bốn năm trước đó.[109][110] Trong tháng 12 năm 2012, Forbes bầu chọn ông là nhân vật quyền lực thứ bảy trong danh sách Người quyền lực nhất thế giới vào năm 2012.[111]
Năm 2011, tạp chí Forbes ước tính rằng tài sản của ông và gia đình riêng là 21 tỉ USD, do đó ông là một trong các quân chủ giàu nhất thế giới.[112] Abdullah thông thạo môn đua ngựa từ thời thanh niên, các chuồng ngựa của ông được cho là lớn nhất toàn quốc, với hơn 1.000 con ngựa ở khắp 5 phân khu do con trai ông là Mutaib bin Abdullah chỉ đạo.[113] Quốc vương còn có trang trại Janadria, một tổ hợp lớn nằm tại ngoại ô của Riyadh.[113] Quốc vương có một tổ hợ…p cung điện lớn với một vài khu dinh thự tại Casablanca, Maroc.[114]
Tổ tiên
Tổ tiên của Abdullah của Ả Rập Xê Út | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
|
Tham khảo
- ^ “King Abdullah bin Abdulaziz”. 18 September 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2015. Đã bỏ qua tham số không rõ
|deadurl=
(gợi ý|url-status=
) (trợ giúp) - ^ “Who's who: Senior Saudis”. BBC. 30 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2012.
- ^ US confirms $60bn Saudi arms deal Al Jazeera 20 October 2010
- ^ Saudi Arabia: Fundamental change? Al Jazeera 19 October 2010
- ^ a b “King Abdullah Ibn Abdulaziz Al Saud - Obituary”. The Daily Telegraph. 22 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2015.
- ^ a b Madawi Al Rasheed (22 tháng 1 năm 2015). “King Abdullah of Saudi Arabia Obituary”. The Guardian. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2015.
- ^ a b “'We are hostages': A Saudi princess reveals her life of hell”. New York Post. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2015.
- ^ a b “King Abdullah of Saudi Arabia”. Asian History. 1 tháng 8 năm 2005. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2011.
- ^ Anita Singh (21 tháng 8 năm 2008). “The world's richest royals”. The Telegraph. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2012.
- ^ “King Abdullah bin Abdulaziz”. Saudi Embassy. Bản gốc lưu trữ 18 Tháng sáu năm 2012. Truy cập 18 Tháng sáu năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ
|deadurl=
(gợi ý|url-status=
) (trợ giúp) - ^ “King of the Kingdom of Saudi Arabia”. Ministry of Higher Education of Saudi Arabia. Saudi Arabia. 4 tháng 8 năm 2010. Bản gốc lưu trữ 24 Tháng mười hai năm 2012. Truy cập 28 Tháng sáu năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ
|deadurl=
(gợi ý|url-status=
) (trợ giúp) - ^ “Kingdom Kings”. Ministry of Commerce and Industry – Kingdom of Saudi Arabia. Saudi Arabia. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ
|deadurl=
(gợi ý|url-status=
) (trợ giúp) - ^ “Too Many Saudi Princes” (bằng tiếng English). The National Interest. 7 tháng 12 năm 2012. tr. 1. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2016.
King Abdullah’s advanced age—a leaked U.S. cable placed him at ninety-six, much older than the previously estimated eighty-eight or eighty-nine
Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết) - ^ Nabil Mouline (April–June 2010). “Power and generational transition in Saudi Arabia” (PDF). Critique internationale. 46: 1–22. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2012.
- ^ A Brief History of Saudi Arabia by James Wynbrandt, Fawaz A. Gerges.
- ^ Winberg Chai (22 tháng 9 năm 2005). Saudi Arabia: A Modern Reader. University Press. tr. 193. ISBN 978-0-88093-859-4. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
- ^ Hassan Hanizadeh (2010). “Saudi Arabia without King Abdullah”. PPP. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ
|dead-url=
(gợi ý|url-status=
) (trợ giúp) - ^ a b c Christopher Dickey (30 tháng 3 năm 2009). “The Monarch who Declared His own Revolution”. Newsweek. 153 (13): 40. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2013. – via Questia (cần đăng ký mua)
- ^ a b c Madawi Al Rasheed (2009). “Modernizing authoritarian rule in Saudi Arabia”. Contemporary Arab Affairs. 2 (4): 587–601. doi:10.1080/17550910903244976.
- ^ Simon Henderson (1994). “After King Fahd” (Policy Paper). Washington Institute. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2013.
- ^ Nadav Safran (1985). Saudi Arabia: The Ceaseless Quest for Security. Cornell University Press. tr. 218. ISBN 978-0-8014-9484-0. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2013.
- ^ P. Edward Haley; Lewis W. Snider; M. Graeme Bannerman (1979). Lebanon in Crisis: Participants and Issues. Syracuse University Press. tr. 118. ISBN 978-0-8156-2210-9. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2012.
- ^ a b c d Simon Henderson (tháng 8 năm 2009). “After King Abdullah” (Policy Paper). Washington Institute. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2012.
- ^ Sherifa Zuhur. Saudi Arabia: Islamic Threat, Political reform, and the Global War on Terror. DIANE Publishing. tr. 17. ISBN 978-1-4289-1011-9. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2013.
- ^ Mai Yamani (2009). “From fragility to stability: A survival strategy for the Saudi monarchy” (PDF). Contemporary Arab Affairs. 2 (1): 90–105. doi:10.1080/17550910802576114. Bản gốc (PDF) lưu trữ 16 tháng Chín năm 2013. Truy cập 11 Tháng tư năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ
|deadurl=
(gợi ý|url-status=
) (trợ giúp) - ^ "King Fahd ibn Abdel-Aziz Al Saud: The Times obituary", Times Online, 1 August 2005. Retrieved 29 March 2008.
- ^ Daniel L. Byman (Spring 2005). “The Implications of Leadership Change in the Arab World”. Political Science Quarterly. 120 (1): 59–83. doi:10.1002/j.1538-165x.2005.tb00538.x. JSTOR 20202473.
- ^ a b Bruce Maddy-Weitzman (Summer 2010). “Arabs vs. the Abdullah Plan”. The Middle East Quarterly: 3–12. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2013.
- ^ Toby Jones (2007). “Saudi Arabia's not so New Anti-Shi'ism”. Middle East Report. 242: 29–32. JSTOR 25164776.
- ^ Julian Borger (16 tháng 2 năm 2009). “Woman Saudi Education Minister”. The Guardian. London. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2011.
- ^ a b Screensetter for Clinton's visit Wikileaks, 2010
- ^ Ursula Lindsey (3 tháng 10 năm 2010). “Saudi Arabia's Education Reforms Emphasize Training for Jobs”. The Chronicle of Higher Education. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2011.
- ^ Brown, Colin. Shouts of 'murderers' and 'torturers' greet King Abdullah on Palace tour Lưu trữ 2 tháng 11 2007 tại Wayback Machine, The Independent, 31 October 2007. Retrieved 17 May 2008.
- ^ a b 09RIYADH496 Wikileaks, 31 March 2009
- ^ Christopher Boucek (23 tháng 10 năm 2010). “Saudi Fatwa Restrictions”. Carnegie Endowment. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2011. Đã bỏ qua tham số không rõ
|deadurl=
(gợi ý|url-status=
) (trợ giúp) - ^ Evans-Pritchard, Ambrose (24 tháng 2 năm 2011). “Saudi ruler offers $36bn to stave off uprising amid warning oil price could double”. The Daily Telegraph. London.
- ^ Alsharif, Asma, "Saudi king gives women right to vote-UPDATE 2", Reuters, 25 September 2011. Retrieved 25 September 2011.
- ^ “Women in Saudi Arabia 'to vote and run in elections'”. BBC News. 25 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2011.
- ^ “Saudi king dismisses religious police head”. Google News. 13 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2012.
- ^ Gardner, Frank (24 tháng 6 năm 2012). “London 2012 Olympics: Saudis allow women to compete”. BBC. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2012.
- ^ “Saudi Arabia's Timid Flirtation With Women's Rights”. The Atlantic. 16 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2013.
- ^ Sebastian Usher (28 tháng 8 năm 2013). “Saudi Arabia cabinet approves domestic abuse ban”. BBC. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2013.
- ^ Anderson, Lisa (28 tháng 8 năm 2013). “Saudi Arabia passes historic domestic abuse legislation”. Reuters.
- ^ “Historic Saudi visit to Vatican”. BBC News. 6 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2011.
- ^ “The 500 Most Influential Muslims” (PDF). Center Muslim-Christian Understanding. 2009. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2013.
- ^ The King’s call for interfaith dialogue Lưu trữ 14 tháng 1 2009 tại Wayback Machine, Saudi Gazette.
- ^ Saudis launch Islamic unity drive, BBC News, 4 June 2008. Retrieved 10 June 2008.
- ^ Inter-faith meet to be held in Spain Lưu trữ 14 tháng 1 2009 tại Wayback Machine, Saudi Gazette.
- ^ Let concord replace conflict – Abdullah Lưu trữ 14 tháng 1 2009 tại Wayback Machine, Saudi Gazette.
- ^ Speech of Vice Chancellor and Foreign Minister Michael Spindelegger in the King Abdullah Center, Federal Ministry for European and International Affairs
- ^ a b "No Politics for Ben Ali in Kingdom" Lưu trữ 21 tháng 1 2011 tại Wayback Machine, Arab News, 19 January 2011.
- ^ a b Vilensky, Mike (20 tháng 4 năm 2008). “WikiLeaks: Saudi King Abdullah Encouraged U.S. to Attack Iran; Chinese Politburo Hacked Into Google – Daily Intel”. Nymag.com. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2011.
- ^ “Who Will Be the Next King of Saudi Arabia...And does It Matter?”. The Washington Institute for Near East Policy. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2012.
- ^ Hough, Andrew (29 tháng 11 năm 2010). “Wikileaks: King Abdullah of Saudi Arabia 'wanted Guantánamo Bay detainees microchipped'”. The Daily Telegraph. London.
- ^ Custodian of the Two Holy Mosques King Abdullah bin Abdulaziz Al Saud’s statement to the Arab and Islamic Nations and the International Community Saudi Embassy in Washington DC. 1 August 2014. Retrieved 3 September 2014.
- ^ a b “US embassy cables: Saudi king's advice for Barack Obama”. The Guardian. London. 28 tháng 11 năm 2010.
- ^ Saudi King urged US to attack Iran, 28 November 2010, Agence France-Presse, copy at Internet Archive accessed 23 October 2011.
- ^ “Bahrain imposes state of emergency”. Al Jazeera. 15 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2011.
- ^ Doward, Jamie, and Philippa Stewart, "UK Training Saudi Forces Used to Crush Arab Spring" The Guardian, 28 May 2011.
- ^ “Chinese president arrives in Riyadh at start of "trip of friendship, cooperation"_English_Xinhua”. Xinhuanet. 10 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2011.
- ^ Riedel, Bruce (tháng 9 năm 2011). “Brezhnev in the Hejaz” (PDF). The National Interest. 115: 27–32. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 15 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2017.
- ^ Chrisafis, Angelique (30 tháng 11 năm 2010). “WikiLeaks cables: Nicolas Sarkozy, the Saudis and Carla Bruni”. The Guardian. London.
- ^ “Yemeni Tribal Leader: For Saleh, Saudi Involvement In Sa'Ada Comes Not A Moment Too Soon”. Al Akhbar. 28 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2011.
- ^ Hilal Khashan (Winter 2011). “Saad Hariri's Moment of Truth”. Middle East Quarterly. XVIII (1): 65–71. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2013.
- ^ “Saudi Arabia recalls ambassador to Syria”. BBC. 8 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2013.
- ^ Carey, Glen (19 tháng 12 năm 2011). “Saudi King Abdullah Calls for a Closer Arab Gulf Union”. Bloomberg L.P. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2012.
- ^ Neil MacFarquhar (18 tháng 6 năm 2012). “Defense Minister New Heir to Throne in Saudi Arabia”. The New York Times. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2012.
- ^ Aged Saudi ruler to fly to US over blood clot AP 21 November 2010
- ^ “Saudi king suffers herniated disc”. Google News. 12 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2011.
- ^ “Saudi king transfers National Guard duties to son”. The Washington Post. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2011.[liên kết hỏng]
- ^ a b c “Saudi King Abdullah has back surgery described as successful”. The Washington Post. Riyadh. AP. 17 tháng 11 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ
|deadurl=
(gợi ý|url-status=
) (trợ giúp) - ^ “Saudi prince returns as king readies for US treatment”. BBC. 22 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2013.
- ^ “Saudi king has back surgery in New York”. CNN. 25 tháng 11 năm 2010.
- ^ Peter S. Green (24 tháng 11 năm 2010). “Saudi Arabia King Abdullah's NY Back Surgery Successful, Royal Court Says”. Bloomberg L.P. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2011.
- ^ “Saudi king Abdullah has 'successful operation'”. BBC News. 24 tháng 11 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2010. Đã bỏ qua tham số không rõ
|deadurl=
(gợi ý|url-status=
) (trợ giúp) - ^ “Saudi Arabia's Oil Policy Vacancies”. Washington Institute. 7 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2012.
- ^ "Saudi King Arrives in Morocco After Treatment in US", New York Times, 22 January 2011
- ^ “Saudi King offers benefits as he returns from treatment”. BBC News. 23 tháng 2 năm 2011.
- ^ “(no title)”. Saudi Press Agency. 27 tháng 8 năm 2012. Bản gốc lưu trữ 27 Tháng tám năm 2012. Truy cập 3 tháng Chín năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ
|deadurl=
(gợi ý|url-status=
) (trợ giúp); Chú thích có tiêu đề chung (trợ giúp) - ^ “Saudi Arabia's King undergoes heart surgery in New York: Report”. Press TV. 3 tháng 9 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ
|deadurl=
(gợi ý|url-status=
) (trợ giúp) - ^ “Saudi King Abdullah returns after month-long Morocco trip”. The National. Riyadh. AFP. 24 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2012.
- ^ “Saudi king health fears calmed after back operation”. BBC. 28 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2013.
- ^ Bakr, Amena (13 tháng 12 năm 2012). “Saudi King Abdullah leaves hospital”. Reuters. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2013.
- ^ Saudi King may die in 6 months Press TV. 19 April 2014.
- ^ Saudi King, 90, Hospitalized; Pneumonia Is Diagnosed The New York Times. 3 January 2015.
- ^ “Saudi Arabia's King Abdullah dies”. BBC. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2015.
- ^ Martin, Douglas; Hubbard, Ben. “King Abdullah, Who Nudged Saudi Arabia Forward, Dies at 90”. New York Times. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2015.
- ^ a b Lubna Hussain; F. Brinley Bruton (23 tháng 1 năm 2015). “Saudi Arabia's King Abdullah Given Simple Muslim Burial”. NBC News. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2015.
- ^ a b Simon Henderson. "Outraged in Riyadh", Foreign Policy, 14 April 2011.
- ^ Abir, Mordechai (1988). Saudi Arabia in the Oil Era: Regime and Elites: Conflict and Collaboration. Kent: Croom Helm.
- ^ Sabri, Sharaf (2001). The House of Saud in commerce: A study of royal entrepreneurship in Saudi Arabia. New Delhi: I.S. Publications. ISBN 81-901254-0-0.
- ^ Regime Stability in Saudi Arabia: The Challenge of Succession.
- ^ “Power Behind the Veil: Princesses of the House of Saud”.
- ^ “More talk, less distortion”. The Daily Star. 27 tháng 3 năm 2007. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2014.
- ^ “A Princely Rivalry: Clash of The Titans?”. Datarabia. 13 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2014.
- ^ “Rediscovering Southern Arabia: Najran, The Emirate of King Abdullah's Son Prince”. Wikileaks.
- ^ "King Abdullah Arrives in Morocco" Lưu trữ 23 tháng 1 2011 tại Wayback Machine, Arab News, 22 January 2011.
- ^ “Khaled appointed Riyadh governor, Turki his deputy”. Arab News. Jeddah. 15 tháng 2 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2013. Đã bỏ qua tham số không rõ
|deadurl=
(gợi ý|url-status=
) (trợ giúp) - ^ “When kings and princes grow old”. The Economist. 15 tháng 7 năm 2010.
- ^ Styles, Ruth (20 tháng 10 năm 2015). “I am a prince and I do what I want”. The Daily Mail. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2015.
- ^ “Saudi Arabia's King Changes the Guard”. Saudiwave. 29 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2012.
- ^ “Saudi Arabia Changes Course, Slowly”. Washington Institute. 18 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2012.
- ^ Henderson, Simon (26 tháng 9 năm 2011). “All the King's Women”. Foreign Policy. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2012.
- ^ “Shaikh Khalid bin Hamad marries daughter of Saudi Monarch”. Bahrain News Agency. 16 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2012.
- ^ 'They are hanging to life' - Saudi king's ex-wife speaks out, Channel 4, Fatima Manji, 10 March 2014
- ^ 'We are cut off, isolated and alone': Imprisoned Saudi princesses blame their father King Abdullah as their mother calls on Obama to help free them. The Daily Mail. 28 March 2014,
- ^ Fatima Manji. 10 March 2014. 'They are hanging to life' - Saudi king's ex-wife speaks outChannel 4
- ^ Caroline Gammell (5 tháng 10 năm 2010). “Gay Saudi prince 'murdered servant in ferocious attack'”. Telegraph. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2015.
- ^ Choudhury, Sohail (9 tháng 6 năm 2012). “The philanthropist Saudi King”. Blitz. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ
|deadurl=
(gợi ý|url-status=
) (trợ giúp) - ^ “The Muslims 500: The World's Most Influential Muslims”. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2012.
- ^ “Saudi King Abdullah named 7th most powerful figure in the world”. Al Arabiya. 7 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2012.
- ^ “No. 3: King Abdullah bin Abdulaziz”. Forbes. 11 tháng 3 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2011. Đã bỏ qua tham số không rõ
|deadurl=
(gợi ý|url-status=
) (trợ giúp) - ^ a b “The stables of the king abdullah”. Janadria Farm. Riyadh. 2013. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2013.
- ^ “Metropolitan Emmanuel in Casablanca”. The National Herald. 20 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2013.
- ^ Al Sudayri Family Gale Encyclopedia of the Mideast & N. Africa. Retrieved 3 September 2014.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Abdullah của Ả Rập Xê Út. |
Wikiquote có sưu tập danh ngôn về: |
- Thêm tin tức và bình luận về King Abdullah trên The Guardian
- Thêm tin tức và bình luận về Abdullah, King of Saudi Arabia trên The New York Times
- Saudi king details succession law, BBC News, 9 October 2007
- Shifting Sands: On the power transition in Abdullah's death