Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bravely Default”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Mấy thuật ngữ trong game nếu không dịch thì có thể để cước chú tạm dịch.
Dòng 33: Dòng 33:
Trận chiến có hai loại: chạm trán ngẫu nhiên với kẻ địch bình thường và nhất định với các trận đánh trùm. Hệ thống chiến đấu xoay quanh kiểu chiến đấu theo lượt: mỗi bên được phép thực hiện một hành động hoặc nhiều hành động, với mỗi nhân vật có các chuyển động và lệnh độc lập: những hành động này bao gồm tấn công bằng vũ khí được trang bị, sử dụng phép thuật hoặc sử dụng một món đồ. Cả nhóm cũng có tùy chọn để rút lui gần như là hầu hết các trận chiến. Hai tùy chọn mới cho hệ thống chiến đấu là Brave và Default. Điểm dũng cảm (Brave Point - BP) quy định số lượng hành động mà một nhân vật hoặc kẻ địch có thể thực hiện trong một lượt, cùng với việc thực hiện một số khả năng nhất định. Các thành viên trong nhóm có thể sử dụng BP thành các số âm, cho phép thực hiện tối đa bốn hành động trong một lượt duy nhất. Khi thanh BP thành số âm, phải đợi bộ đếm HA về 0, trước khi có thể hoạt động trở lại. BP tự hồi phục sau mỗi lượt. Ngoài ra, bất kỳ thành viên nào trong nhóm đều có thể Default, lệnh này giúp giảm thiệt hại do các đòn tấn công của kẻ địch và tích lũy BP.<ref name="NinManual" /><ref name="GSreview" /><ref name="IGNreview" /> Một loại sức mạnh bổ sung khác là Bravely Second, có khả năng đóng băng thời gian của kẻ địch, cho phép một thành viên trong nhóm di chuyển bốn lần trong một lượt bất kể thế nào. Bravely Second yêu cầu SP, một loại tiền tệ tự tăng thêm khi Nintendo 3DS ở chế độ ngủ hoặc thông qua việc mua SP Drink thông qua [[Microtransaction|giao dịch ảo trong game]]. Người chơi có thể điều chỉnh tăng tốc độ chiến đấu trong giao tranh hoặc cho nó ở mức bình thường.<ref name="NinManual" /><ref name="IGNreview" />
Trận chiến có hai loại: chạm trán ngẫu nhiên với kẻ địch bình thường và nhất định với các trận đánh trùm. Hệ thống chiến đấu xoay quanh kiểu chiến đấu theo lượt: mỗi bên được phép thực hiện một hành động hoặc nhiều hành động, với mỗi nhân vật có các chuyển động và lệnh độc lập: những hành động này bao gồm tấn công bằng vũ khí được trang bị, sử dụng phép thuật hoặc sử dụng một món đồ. Cả nhóm cũng có tùy chọn để rút lui gần như là hầu hết các trận chiến. Hai tùy chọn mới cho hệ thống chiến đấu là Brave và Default. Điểm dũng cảm (Brave Point - BP) quy định số lượng hành động mà một nhân vật hoặc kẻ địch có thể thực hiện trong một lượt, cùng với việc thực hiện một số khả năng nhất định. Các thành viên trong nhóm có thể sử dụng BP thành các số âm, cho phép thực hiện tối đa bốn hành động trong một lượt duy nhất. Khi thanh BP thành số âm, phải đợi bộ đếm HA về 0, trước khi có thể hoạt động trở lại. BP tự hồi phục sau mỗi lượt. Ngoài ra, bất kỳ thành viên nào trong nhóm đều có thể Default, lệnh này giúp giảm thiệt hại do các đòn tấn công của kẻ địch và tích lũy BP.<ref name="NinManual" /><ref name="GSreview" /><ref name="IGNreview" /> Một loại sức mạnh bổ sung khác là Bravely Second, có khả năng đóng băng thời gian của kẻ địch, cho phép một thành viên trong nhóm di chuyển bốn lần trong một lượt bất kể thế nào. Bravely Second yêu cầu SP, một loại tiền tệ tự tăng thêm khi Nintendo 3DS ở chế độ ngủ hoặc thông qua việc mua SP Drink thông qua [[Microtransaction|giao dịch ảo trong game]]. Người chơi có thể điều chỉnh tăng tốc độ chiến đấu trong giao tranh hoặc cho nó ở mức bình thường.<ref name="NinManual" /><ref name="IGNreview" />


Gắn liền với hệ thống chiến đấu là hệ thống Job: bắt đầu với Freelancer, cả nhóm có thể kiếm thêm Job bằng cách lấy các viên đá quý gọi là Asterisks khi đánh bại những con trùm. Có 24 Jobs, từ Valkyrie nhanh nhẹn, cho đến White và Black Mage chuyên về chữa bệnh và chiến đấu, cũng như thi triển phép thuật. Mỗi Job có những điểm mạnh và yếu khác nhau trong trận chiến. Ngoài trận chiến, nhân vật có thể được chỉ định bất kỳ Job nào. Ngoài các kỹ năng của Job thì còn có cac các kỹ năng của Job thứ hai, cho phép tự do tùy chỉnh và kết hợp các kỹ năng của các Job trong trận chiến.<ref name="NinManual" /><ref name="GSreview" /><ref name="IGNreview" /> Sau khi có được Summoner Job, nhân vật có thể triệu hồi quái vật để tung ra các đòn tấn công gây sát thương cao lên tất cả kẻ địch. Nhân vật bạn bè cũng có thể được triệu hồi từ phần chơi của người chơi khác: càng sử dụng nhiều triệu tập bạn bè, nước đi của họ càng trở nên hiệu quả.<ref name="NinManual" /><ref name="BDsummons" /> Mô tả về những kẻ địch bị đánh bại, cùng với các bản tóm tắt câu chuyện và tả về các địa điểm, được đưa vào một mục có tên là nhật ký của D.<ref name="NinManual" />
Gắn liền với hệ thống chiến đấu là hệ thống Job: cả nhóm bắt đầu với nghề Freelancer, sau đó có thể kiếm thêm Job bằng cách thu thập những viên đá quý được gọi là Asterisks từ việc đánh bại quái trùm. Có 24 Job, từ Valkyrie nhanh nhẹn, cho đến White và Black Mage chuyên về chữa bệnh và chiến đấu, cũng như thi triển phép thuật. Mỗi Job có những điểm mạnh và yếu khác nhau trong trận chiến. Ngoài trận chiến, nhân vật có thể được chỉ định bất kỳ Job nào. Ngoài các kỹ năng của Job đã cài đặt thì còn có thể học kỹ năng của Job thứ hai, cho phép tự do tùy chỉnh và kết hợp các kỹ năng của nhiều Job trong trận chiến.<ref name="NinManual" /><ref name="GSreview" /><ref name="IGNreview" /> Sau khi có được Summoner Job, nhân vật có thể triệu hồi quái vật để tung ra các đòn tấn công gây sát thương cao lên tất cả kẻ địch. Nhân vật bạn bè cũng có thể triệu hồi từ phần game của người chơi khác: càng sử dụng triệu hồi bạn bè nhiều lần, nước đi của họ càng trở nên hiệu quả.<ref name="NinManual" /><ref name="BDsummons" /> Mô tả về những kẻ địch bị đánh bại, cùng với các bản tóm tắt câu chuyện và miêu tả về các địa điểm đều được đưa vào một mục có tên là nhật ký của D.<ref name="NinManual" />


Trong một số điều kiện nhất định, các nhân vật có thể thực hiện Special Moves, đây là chiêu thức cực mạnh có thể tùy chỉnh, gắn liền với Job: sau khi chọn Special Moves, toàn bộ nhóm được tăng sức trong một khoảng thời gian giới hạn. Giai đoạn này được thể hiện bằng một giai điệu cụ thể phát trên nhạc nền chiến đấu bình thường. Nhiều yếu tố khác nhau có thể được thêm vào Special Moves, chẳng hạn như phù phép trạng thái bệnh lên kẻ địch, phục hồi HP và MP, hay trạng thái miễn nhiễm tạm thời cho nhóm. Việc tùy chỉnh các Special Moves gắn liền trực tiếp với việc tạo ra các cửa hàng trong quá trình xây dựng lại Norende.<ref name="NinManual" /><ref name="HDtips" /> Điểm kinh nghiệm nhận được khi kết thúc trận chiến sẽ thăng cấp cho nhân vật và Job, mở khóa các khả năng mới và tăng chỉ số như HP và MP. Đáp ứng đủ các điều kiện nhất định cũng tăng lượng tiền thưởng. Khả năng và cấp độ Job cũng có thể được mượn từ bạn bè trực tuyến từ một tính năng được gọi là Abilink. Bất kỳ Job nào cũng có thể được mượn từ những người chơi khác, bất kể cấp độ hiện tại của họ.<ref name="NinManual" />
Trong một số điều kiện nhất định, các nhân vật có thể thực hiện Special Moves, đây là chiêu thức cực mạnh có thể tùy chỉnh, gắn liền với Job: sau khi chọn Special Moves, toàn bộ nhóm được tăng sức trong một khoảng thời gian giới hạn. Giai đoạn này được thể hiện bằng một giai điệu cụ thể phát trên nhạc nền chiến đấu bình thường. Nhiều yếu tố khác nhau có thể được thêm vào Special Moves, chẳng hạn như phù phép trạng thái bệnh lên kẻ địch, phục hồi HP và MP, hay trạng thái miễn nhiễm tạm thời cho nhóm. Việc tùy chỉnh các Special Moves gắn liền trực tiếp với việc tạo ra các cửa hàng trong quá trình xây dựng lại Norende.<ref name="NinManual" /><ref name="HDtips" /> Điểm kinh nghiệm nhận được khi kết thúc trận chiến sẽ thăng cấp cho nhân vật và Job, mở khóa các khả năng mới và tăng chỉ số như HP và MP. Đáp ứng đủ các điều kiện nhất định cũng tăng lượng tiền thưởng. Khả năng và cấp độ Job cũng có thể được mượn từ bạn bè trực tuyến từ một tính năng được gọi là Abilink. Bất kỳ Job nào cũng có thể được mượn từ những người chơi khác, bất kể cấp độ hiện tại của họ.<ref name="NinManual" />

Phiên bản lúc 14:32, ngày 1 tháng 2 năm 2021

Bravely Default
Nhà phát triểnSilicon Studio
Nhà phát hành
Giám đốcNakahara Kensuke
Nhà sản xuấtAsano Tomoya
Thiết kếNakahara Kensuke
Minh họaYoshida Akihiko
Kịch bảnHayashi Naotaka
Ajiro Keiichi
Âm nhạcRevo
Dòng trò chơiBravely Default Sửa đổi tại Wikidata
Nền tảngNintendo 3DS
Phát hành
11 tháng 10, 2012
  • Flying Fairy
    • JP: ngày 11 tháng 10 năm 2012
    For the Sequel
    • JP: ngày 5 tháng 12 năm 2013
    • EU: ngày 6 tháng 12 năm 2013
    • AU: ngày 7 tháng 12 năm 2013
    • NA: ngày 7 tháng 2 năm 2014
Thể loại Nhập vai
Chế độ chơi Một người chơi

Bravely Default (bản phát hành ở Nhật là Bravely Default: Flying Fairy[a]) là một trò chơi nhập vai do Silicon Studio phát triển cho máy chơi trò chơi điện tử cầm tay Nintendo 3DS. Bravely Default ban đầu được phát hành vào năm 2012, với phiên bản mở rộng của game có tựa là For the Sequel phát hành vào năm 2013 tại Nhật Bản, Châu Âu và Úc, và vào năm 2014 ở Bắc Mỹ. Square Enix là đơn vị phát hành trò chơi ở Nhật Bản, còn Nintendo xuất bản sản phẩm ra nước ngoài. Game sử dụng hệ thống chiến đấu theo lượt và hệ thống nghề nghiệp, kết hợp các tùy chọn với khả năng của từng nghề, điều chỉnh tốc độ chiến đấu và tỷ lệ gặp phải trận đánh ngẫu nhiên.

Bravely Default lấy bối cảnh ở thế giới giả tưởng tên là Luxendarc vốn được giữ cân bằng bởi bốn tinh thể. Crystal Orthodoxy là một tổ chức tôn giáo có tầm ảnh hưởng trên toàn thế giới, chịu trách nhiệm bảo vệ thế giới đó. Một ngày nọ, thế lực bóng tối nuốt chửng những viên tinh thể khiến thế giới chìm trong hỗn loạn. Agnès Oblige, vestal của tinh thể gió, buộc phải bắt đầu một hành trình thức tỉnh các tinh thể. Đồng hành cùng Agnès là Tiz Arrior, người duy nhất sống sót ở xứ Norende, tiếp đến là Ringabel bị mất trí nhớ và Edea Lee, kẻ lưu vong xứ Eternia. Tất cả bọn họ có nhiệm vụ đánh thức những viên pha lê và đối đầu với tai họa khủng khiếp hơn đứng đằng sau sự kiện.

Tác phẩm dựa trên phần tiếp theo của Final Fantasy: The 4 Heroes of Light. Nhà sản xuất của The 4 Heroes of LightAsano Tomoya đã quay trở lại với vai trò nhà sản xuất cho Bravely Default. Trò chơi chịu ảnh hưởng từ game và phim ảnh trên truyền hình phương Tây. Những yếu tố đặc trưng đều lấy cảm hứng từ loạt Dragon QuestHigurashi When They Cry. Âm nhạc của trò chơi do Revo của nhóm Sound Horizon phụ trách sáng tác và lấy cảm hứng tử những series kinh điển như Dragon QuestSaGa.

Bravely Default công bố lần đầu vào tháng 9 năm 2011 như một phần của dòng sản phẩm nổi bật năm 2012 của Nintendo dành cho nền tảng này. Trong thời gian chuẩn bị phát hành, nhóm phát triển từng phát hành nhiều bản chơi thử và điều chỉnh trò chơi theo các phản hồi từ phía người chơi. Phiên bản For the Sequel được bản địa hóa mà không có bất kỳ phụ đề nào và phát hành ra nước ngoài. Ở cả Nhật Bản và hải ngoại, Bravely Default đều đạt doanh thu cao và nhận sự hoan nghênh từ giới phê bình. Lời khen ngợi thường nhằm vào lối chơi, kết hợp giữa mechanic[b] truyền thống và các yếu tố mới, cùng với cốt truyện, đồ họa và âm nhạc. Chỉ trích đa phần hướng về giai đoạn cuối game đơn điệu và các yếu tố nhàm chán của thể loại trò chơi nhập vai xã hội, cũng như âm nhạc không có sự thay đổi gì nhiều. Bravely Default có tạo ra nhiều phương tiện truyền thông và phần spin-off khác. Phần tiếp theo, Bravely Second: End Layer phát hành vào năm 2015 ở Nhật Bản và năm 2016 ở nước ngoài cho hệ máy Nintendo 3DS. Ngoài ra còn có thông báo là sẽ phát hành phần tiếp theo khác với tựa là Bravely Default II cho nền tảng Nintendo Switch vào năm 2021.

Cách chơi

Bravely Default là một trò chơi nhập vai (RPG) gồm một nhóm bốn nhân vật phiêu lưu trong thế giới Luxendarc giả tưởng. Khi di chuyển trong các thị trấn, dungeon và ngoài bản đồ thế giới, nhân vật sẽ được điều khiển từ góc nhìn của người thứ ba, từ trên cao xuống: nhân vật vẫn đứng yên, máy quay phóng to ra một góc nhìn xa. Những yếu tố môi trường này được hiển thị ở màn hình trên của máy Nintendo 3DS, trong khi màn hình dưới hiển thị bản đồ, số liệu thống kê của nhóm và các thông tin khác như menu món đồ. Trên bản đồ thế giới, chu kỳ ngày-đêm làm thay đổi sự hiện diện của kẻ địch. Sau một thời điểm nhất định trong cốt truyện, người chơi sẽ có thể sử dụng thuyền bay để tăng tốc độ di chuyển và tiếp cận các khu vực không thể lui tới trước đây. Ở thị trấn, người chơi có thể tương tác với các nhân vật không phải người chơi (NPC), mua món đồ hoặc phép thuật tại các cửa hàng, mua hoặc bán vũ khí và trang bị hoặc nghỉ ngơi tại nhà trọ để hồi phục máu (HP) và điểm phép thuật (MP). Trong tất cả môi trường, nhóm có thể tìm thấy các rương chứa món đồ, vũ khí hoặc trang bị. Vào một số thời điểm nhất định, tùy chọn "Trò chuyện nhóm" xuất hiện, cho phép cho người chơi có quyền lựa chọn bắt đầu cuộc trò chuyện giữa các thành viên trong nhóm. Trong quá trình phiêu lưu, kẻ địch xuất hiện thông qua những cuộc chạm trán ngẫu nhiên: ngoài trận chiến, tỷ lệ chạm trán có thể điều chỉnh từ cao xuống thấp. Game có nhiều độ khó khác nhau, có thể điều chỉnh tự do ngoài trận chiến.[1][2]

Ngoài nhiệm vụ chính, Bravely Default tận dụng hết mức tính năng Streetpass mới của 3DS. Trọng tâm của trò chơi là tái thiết lại ngôi làng Norende, vốn bị phá hủy vào đầu game. Ngôi làng được xây dựng trên nền đất mới sau khi dỡ bỏ các chướng ngại vật và sẵn sàng để xây dựng. Việc xây dựng lại kết hợp các yếu tố trò chơi xã hội: bạn bè mà người chơi gặp qua StreetPass. Người chơi sẽ gửi những lời mời trực tuyến, kêu gọi bạn bè trở thành cư dân làng và xây dựng những tòa nhà khác nhau bao gồm cả nhà ở và cửa hàng. Khoảng thời gian để hoàn thành một dự án phụ thuộc vào số lượng bạn bè chịu nhận việc, mất từ ​​vài ngày đến vài tuần. Việc tăng số lượng dân làng sẽ đẩy nhanh quá trình tái thiết thị trấn. Khi quá trình xây dựng diễn ra, người chơi có quyền trao tặng các món đồ và trang bị mới. Xây các tòa nhà riêng lẻ sẽ đem về điểm kinh nghiệm, cấp quyền truy cập vào những phần thưởng lớn hơn và người chơi có thể điều chỉnh từng loại món đồ được thưởng. Những con trùm đặc biệt Nemeres thiết kế theo kiểu tùy chọn ngẫu nhiên sẽ xuất hiện trong khu vực. Đánh bại chúng sẽ nhận phần thưởng đặc biệt.[2][3]

Hệ thống chiến đấu

Ảnh chụp màn hình một trận chiến trong Bravely Default, cho thấy cả nhóm đang chiến đấu với một nhóm kẻ địch. Trận chiến được hiển thị trên màn hình phía trên, trong khi menu lệnh của nhóm được hiển thị bên dưới.

Trận chiến có hai loại: chạm trán ngẫu nhiên với kẻ địch bình thường và nhất định với các trận đánh trùm. Hệ thống chiến đấu xoay quanh kiểu chiến đấu theo lượt: mỗi bên được phép thực hiện một hành động hoặc nhiều hành động, với mỗi nhân vật có các chuyển động và lệnh độc lập: những hành động này bao gồm tấn công bằng vũ khí được trang bị, sử dụng phép thuật hoặc sử dụng một món đồ. Cả nhóm cũng có tùy chọn để rút lui gần như là hầu hết các trận chiến. Hai tùy chọn mới cho hệ thống chiến đấu là Brave và Default. Điểm dũng cảm (Brave Point - BP) quy định số lượng hành động mà một nhân vật hoặc kẻ địch có thể thực hiện trong một lượt, cùng với việc thực hiện một số khả năng nhất định. Các thành viên trong nhóm có thể sử dụng BP thành các số âm, cho phép thực hiện tối đa bốn hành động trong một lượt duy nhất. Khi thanh BP thành số âm, phải đợi bộ đếm HA về 0, trước khi có thể hoạt động trở lại. BP tự hồi phục sau mỗi lượt. Ngoài ra, bất kỳ thành viên nào trong nhóm đều có thể Default, lệnh này giúp giảm thiệt hại do các đòn tấn công của kẻ địch và tích lũy BP.[2][1][4] Một loại sức mạnh bổ sung khác là Bravely Second, có khả năng đóng băng thời gian của kẻ địch, cho phép một thành viên trong nhóm di chuyển bốn lần trong một lượt bất kể thế nào. Bravely Second yêu cầu SP, một loại tiền tệ tự tăng thêm khi Nintendo 3DS ở chế độ ngủ hoặc thông qua việc mua SP Drink thông qua giao dịch ảo trong game. Người chơi có thể điều chỉnh tăng tốc độ chiến đấu trong giao tranh hoặc cho nó ở mức bình thường.[2][4]

Gắn liền với hệ thống chiến đấu là hệ thống Job: cả nhóm bắt đầu với nghề Freelancer, sau đó có thể kiếm thêm Job bằng cách thu thập những viên đá quý được gọi là Asterisks từ việc đánh bại quái trùm. Có 24 Job, từ Valkyrie nhanh nhẹn, cho đến White và Black Mage chuyên về chữa bệnh và chiến đấu, cũng như thi triển phép thuật. Mỗi Job có những điểm mạnh và yếu khác nhau trong trận chiến. Ngoài trận chiến, nhân vật có thể được chỉ định bất kỳ Job nào. Ngoài các kỹ năng của Job đã cài đặt thì còn có thể học kỹ năng của Job thứ hai, cho phép tự do tùy chỉnh và kết hợp các kỹ năng của nhiều Job trong trận chiến.[2][1][4] Sau khi có được Summoner Job, nhân vật có thể triệu hồi quái vật để tung ra các đòn tấn công gây sát thương cao lên tất cả kẻ địch. Nhân vật bạn bè cũng có thể triệu hồi từ phần game của người chơi khác: càng sử dụng triệu hồi bạn bè nhiều lần, nước đi của họ càng trở nên hiệu quả.[2][5] Mô tả về những kẻ địch bị đánh bại, cùng với các bản tóm tắt câu chuyện và miêu tả về các địa điểm đều được đưa vào một mục có tên là nhật ký của D.[2]

Trong một số điều kiện nhất định, các nhân vật có thể thực hiện Special Moves, đây là chiêu thức cực mạnh có thể tùy chỉnh, gắn liền với Job: sau khi chọn Special Moves, toàn bộ nhóm được tăng sức trong một khoảng thời gian giới hạn. Giai đoạn này được thể hiện bằng một giai điệu cụ thể phát trên nhạc nền chiến đấu bình thường. Nhiều yếu tố khác nhau có thể được thêm vào Special Moves, chẳng hạn như phù phép trạng thái bệnh lên kẻ địch, phục hồi HP và MP, hay trạng thái miễn nhiễm tạm thời cho nhóm. Việc tùy chỉnh các Special Moves gắn liền trực tiếp với việc tạo ra các cửa hàng trong quá trình xây dựng lại Norende.[2][3] Điểm kinh nghiệm nhận được khi kết thúc trận chiến sẽ thăng cấp cho nhân vật và Job, mở khóa các khả năng mới và tăng chỉ số như HP và MP. Đáp ứng đủ các điều kiện nhất định cũng tăng lượng tiền thưởng. Khả năng và cấp độ Job cũng có thể được mượn từ bạn bè trực tuyến từ một tính năng được gọi là Abilink. Bất kỳ Job nào cũng có thể được mượn từ những người chơi khác, bất kể cấp độ hiện tại của họ.[2]

Cốt truyện

Bravely Default lấy bối cảnh ở một thế giới tên là Luxendarc, Crystal Orthodoxy, một tổ chức tôn giáo, bảo vệ và giữ cân bằng cho thế giới này. Một ngày nọ, Bóng tối hấp thụ những viên pha lê và thế giới rơi vào hỗn mang với vô số tai họa. Agnès Oblige, Vestal của Wind Crystal, trốn thoát được, trong khi những tín đồ khác bỏ mạng khi bảo vệ cô. Cùng lúc đó, một hố sâu khổng lồ đột ngột xuất hiện bên dưới ngôi làng Norende, giết chết tất cả mọi người, ngoại trừ một người chăn cừu trẻ tuổi tên là Tiz Arrior. Khi anh quay trở lại vực với hy vọng tìm thấy những người sống sót khác, anh gặp Agnès và tiên cô Airy. Cả ba sau đó bị tấn công bởi các lực lượng từ Duchy of Eternia, bọn chúng đang tìm cách ngăn Agnès đánh thức các viên pha lê. Sau khi đánh bại những tay lính, Tiz quyết định lên đường cùng Agnès với tư cách là người bảo vệ cô. Họ quay trở lại Caldisla và gặp Ringabel, một anh chàng bị chứng mất trí nhớ, anh cầm một cuốn sách có thể dự đoán các sự kiện trong tương lai, và Edea Lee, một người lính phe Eternian, cô bị vỡ mộng và bỏ trốn khỏi lực lượng sau khi chứng kiến tội ác chiến tranh của vị sĩ quan chỉ huy. Cả nhóm đã đi đến ba trong bốn ngôi đền và đánh thức từng viên pha lê khỏi bóng tối, lẫn phải đối mặt với lực lượng của Eternia. Trong cuộc hành trình, cả nhóm được trợ giúp bởi Hiền nhân cổ đại Yulyana (Sage Yulyana) và Lãnh chúa DeRosso bất tử (Lord DeRosso). Cuối cùng cả nhóm đến được Eternia, quê hương của Earth Crystal, và buộc phải đánh bại người trị vì của Duchy, Braev Lee, cũng chính là cha của Edea. Một cột ánh sáng sau đó xuất hiện trong Great Chasm khi Earth Crystal được đánh thức. Airy hướng dẫn những người khác đưa cô đến Pillar of Light. Sau khi cả nhóm cố gắng chống cự lại bạn thân của Edea là Hiệp sĩ bóng đêm Alternis Dim (Dark Knight Alternis Dim), một người có khuôn mặt giống hệt Ringabel, nghi thức của Airy đột ngột đưa họ vào một thế giới song song.

Cuộc hành trình bị lặp lại nhiều lần; trong mỗi thế giới mà nhóm du hành qua, họ lại tìm thấy và đánh thức những viên pha lê bị hỏng, Airy thực hiện nghi thức, và rồi lại bị ném vào một thế giới song song mới. Ở mỗi thế giới song song đó, họ lại khám phá ra các các tình huống khác nhau mà họ gặp phải trong thế giới thực của chính họ, và dần dần biết được một số sự thật về bản thân và kẻ địch. Gần như tất cả những người Eternian mà họ phải đối mặt, đều bị Braev thu nhận vì lòng trắc ẩn khi họ bị Orthodoxy từ chối, Yulyana và DeRosso hóa ra là đồng minh của Braev và là những nhân vật chủ chốt trong việc thanh tẩy Orthodoxy khỏi sự mục ruỗng. Trong chuyến đi, cả Yulyana và DeRosso đều đưa ra những lời cảnh báo tinh ý cho Tiz và Agnès về ý định của Airy. Ringabel, được tiết lộ là một phiên bản của Alternis Dim, người bị kéo vào nhóm của Luxendarc, anh từ từ lấy lại ký ức khi đi theo nhóm ở thế giới của mình trước khi chứng kiến ​​họ bị giết bởi Airy sau khi cô biến thành quái vật. Trên thực tế, Airy đã thao túng cả nhóm và sử dụng các viên pha lê để liên kết các thế giới, cho phép chủ nhân của cô, ác quỷ Ouroboros, tiếp cận và chinh phục Thiên giới (Celestial Realm).

Tùy thuộc vào người chơi, sẽ có 2 kết thúc diễn ra:

  • Kết thúc bình thường: xảy ra nếu Agnès phá hủy một trong các tinh thể sau khi phát giác ra kế hoạch của Airy, Airy giận dữ tấn công. Cả nhóm sau đó đuổi theo cô đến Dark Aurora và đánh bại cô, bất chấp những lời trăn trối rằng chính quỷ Ouroboros mới là mối đe dọa cho thế giới.
  • Kết thúc kịch tính: người chơi đánh thức các viên pha lê trên 4 thế giới, Airy lộ mặt và bị đánh bại. Cả nhóm đi đến Yulyana và DeRosso, tiết lộ thông điệp của một "thiên thần", đó là một phiên bản của Agnès, từ một thế giới khác, đã chết vì bị Airy phản bội; cả hai đã lên kế hoạch cho sự xuất hiện của Ouroboros, và cả nhóm quyết tâm ngăn chặn con quỷ. Họ đi đến Dark Aurora và đánh bại Airy, sau đó bị nuốt chửng bởi Ouroboros. Sau khi biết Tiz vẫn còn sống và bị giam giữ ở Celestial Realm. Ouroboros tấn công, DeRosso hi sinh để ngăn chặn sự tái sinh của hắn. Cả nhóm dừng lại khi Ouroboros bắt đầu hút lấy các thế giới để lấy lại sức mạnh, nhưng các phiên bản của họ từ các thế giới khác đã phá vỡ các liên kết được tạo ra bởi Ouroboros, khiến cho cả nhóm có cơ hội tiêu diệt hắn. Trước khi con đường giữa các thế giới đóng lại, họ kịp quay trở lại thế giới của riêng mình.

Trong phần kết, Agnès và Edea trở lại nhóm để cải thiện mối quan hệ tốt hơn giữa Orthodoxy và Duchy; Ringabel trở về thế giới của chính mình và lấy lại danh tính là Alternis Dim; Tiz bị hôn mê sau khi đi đến khu nghĩa trang của Caldisla và giải phóng Celestial Being bên trong anh ta. Trong một đoạn phim đặc biệt giới thiệu phần thứ hai, Tiz tỉnh dậy trong một bể nước hỗ trợ sự sống ở Eternia, trước khi được giải cứu khỏi Magnolia Arch bí ẩn.

Phát triển

Theo nhà sản xuất Asano Tomoya, Bravely Default được coi như là như phần tiếp theo của Final Fantasy: The 4 Heroes of Light (2009), và sẽ là một phần của loạt Final Fantasy.[6] Sau khi hoàn thành 4 Heroes of Light, Asano xem xét những gì anh muốn làm sau đó. Mặc dù có nhiều lựa chọn để phát triển thứ gì đó thuộc về Square Enix, ông vẫn muốn tạo ra một thương hiệu mới.[7] Trong giai đoạn đầu tiên, nhóm phát triển ban đầu đã liên hệ với Silicon Studio, công việc trước đây của họ hầu như liên quan đến phát triển phần mềm trung gian. Silicon Studio đã làm một bản demo cho dự án và ngay sau đó được chọn để phát triển trò chơi. Mặc dù tách khỏi loạt Final Fantasy, trò chơi vẫn giữ lại hệ thống chiến đấu và thế giới chung với Final Fantasy. [6][8] Theo Asano, đây là một sự lựa chọn có chủ đích, nhằm đem lại cho người chơi Final Fantasy một cảm giác thoải mái quen thuộc. Trong phần trả lời dành cho người hâm mộ, Asano xác nhận rằng ông đã thiết kế câu chuyện theo phong cách Final Fantasy để người chơi ít gặp khó khăn khi bắt đầu chơi. Câu chuyện và lối chơi bị ảnh hưởng bởi các trò chơi điện tử và phim truyền hình phương Tây. Asano mô tả kết quả là một "trò chơi phong cách nhập vai kiểu Nhật Bản với nội dung kiểu Mỹ".[9] Thách thức chính đối với đội là làm cho Bravely Default trở thành một trò chơi nhập vai truyền thống mà không quá cổ điển. Mặc dù vậy, vì cả nhóm đều rất hậm mộ cả Final FantasyDragon Quest, các tính năng cũ đã được thêm vào và được đánh giá cao bởi cả những người mới chơi.[10] Asano muốn tập hợp những yếu tố cốt lõi của thể loại nhập vai (đánh trận, phát triển và kết nối) trong Bravely Default. Một yếu tố quan trọng tạo ra trải nghiệm mà bất cứ ai cũng có thể thưởng thức, ngay cả khi họ chưa từng chơi RPG.[7]

Trong quá trình phát triển, nhóm đã quyết định trò chơi này nhắm đến những người hâm mộ RPG Nhật Bản lâu năm, vì họ không tin rằng trò chơi có thể thành công ở phương Tây vào thời điểm đó. Ở giai đoạn phát triển ban đầu, Bravely Default sẽ là một trò chơi nhập vai hành động, một thể loại mà Silicon Studio đã từng làm việc với 3D Dot Game Heroes trước đây. Sau khi phát triển một bản dựng nguyên mẫu và đặt nó trước mặt Asano, họ đã quyết định biến hệ thống chiến đấu thành một mô hình đánh theo lượt truyền thống. Ban đầu, Asano đã hình dung ra một hệ thống tương tự như chỉ số Tension được sử dụng trong nhiều trò chơi Dragon Quest, nhưng nhà thiết kế Nakahara Kensuke muốn một cái gì đó thú vị hơn. Ông cũng rất bực mình khi phần lớn các trùm trong cả Dragon Quest lẫn Final Fantasy đều có hai hoặc nhiều hành động mỗi lượt, trong khi các nhân vật chỉ có một. Sau khi cân nhắc, Nakahara đã quyết định một hệ thống gồm các nhân vật có thể tăng điểm bằng cách không thực hiện các hành động trong một lượt, mà còn để sử dụng sau này, hoặc dự trữ để nhân vật có thể hành động nhiều lần trong một lượt, giống với hệ thống trong Higurashi When They Cry[7].Trong giai đoạn cuối của quá trình phát triển trò chơi, nhóm đã phải thực hiện một số chỉnh sửa và thay đổi vào phút cuối để đảm bảo trò chơi mang lại hiệu suất tốt nhất có thể. Việc cân bằng trở thành một phần chính trong quá trình phát triển sau này chính là do cơ chế của trò chơi.[7]

Khái niệm cốt lõi của Bravely Default được Asano định nghĩa là "mọi người đều chơi được", vì ông muốn đưa các yếu tố tích cực từ thị trường trò chơi mô phỏng xã hội đang phát triển vào Bravely Default. Trò chơi xã hội được tạo thành từ ba yếu tố khác nhau: khả năng sử dụng bạn bè StreetPass để giúp xây dựng lại Norende, khả năng triệu tập nhân vật của bạn bè vào trận chiến dưới dạng triệu hồi và tùy chọn "Abilink" cho phép người chơi mượn cấp độ nghề nghiệp của nhau. Tùy chọn triệu hồi ban đầu sẽ là một màn hình hiển thị đơn giản của nhân vật được triệu hồi, nhưng mọi người đã quyết định làm cho chuỗi triệu hồi phức tạp hơn. Asano muốn nó có tác động nhiều hơn, một phông chữ tươi hơn đã được sử dụng. Kiểu dáng này bị ảnh hưởng bởi nhóm nhạc thần tượng Nhật Bản AKB48 trong một bộ phim truyền hình. Việc sử dụng StreetPass được kết hợp là để tách biệt Bravely Default với các trò chơi nhập vai khác vào thời điểm đó, góp phần thỏa mãn một phần mong muốn của Asano là tạo ra một cái gì đó mới. Một tính năng đáng chú ý khác là tăng cường thực tế (AR). Những cảnh phim AR được phát triển bằng bộ công cụ phát triển phần mềm do Nintendo cung cấp và được Silicon Studio triển khai vào trò chơi.[11] Một mánh lới quảng cáo độc đáo có trong trò chơi là sử dụng máy ảnh của chính hệ máy để chiếu hình ảnh của người chơi vào khu vực đấu trường trong trận chiến với trùm cuối.

Âm nhạc của trò chơi được sáng tác bởi Revo, trưởng nhóm nhóm nhạc Nhật Bản, Sound Horizon. Asano đã liên lạc với Revo để nhờ cộng tác khi ông nghe qua album Chronicle 2nd năm 2004. Trong quá trình làm việc, Revo được phép xem trước bản ROM của trò chơi, sau đó thảo luận về tầm nhìn và mục tiêu phát triển của trò chơi với Asano. Mặc dù số lượng bản nhạc được thỏa thuận ban đầu là từ 20 đến 30, số lượng tăng lên gần gấp đôi trong quá trình sản xuất khi Revo thấy các tình huống trong trò chơi cần chất âm riêng. Revo nhắm vào phong cách âm nhạc hoài cổ, ám chỉ đến Final Fantasy, Dragon Quest và loạt SaGa.[12] Trong quá trình ghi âm, các bản nhạc được đặt tựa dựa theo mô tả cảnh hành động, chẳng hạn như "Scene of Normal Battle" hoặc "Song of Asterisk Holder Warfare". Nhạc sỹ đã sáng tác thêm nhiều bài chiến đấu, mỗi bài có nhịp độ nhanh hơn tùy thuộc vào tình hình. Các buổi thu âm của Revo liên kết chặt chẽ với cơ chế tạo ra nguồn âm của trò chơi, vì vậy âm nhạc phù hợp với không gian lưu trữ giới hạn của 3DS mà không làm mất chất lượng. Khi âm nhạc được ghi lại, một môi trường âm thanh được tạo ra để có thể nghe rõ bằng loa của 3DS. Mặc dù có những lo ngại về giới hạn lưu trữ của 3DS, nhưng điều này cuối cùng đã được chứng minh là rất ít.[13]

Khung cảnh và thiết kế nhân vật

Tên của trò chơi thể hiện chủ đề chính: không mù quáng đi theo ý muốn của người khác, và theo ý muốn của riêng bạn. "Bravely" tượng trưng cho lòng can đảm, trong khi "Default" tượng trưng cho sự từ chối.[11][14] Phụ đề là một trong nhiều đề xuất của nhóm, và được Asano chọn sau khi nó giúp đưa ra tên chính thức cho nhân vật Airy: trước thời điểm này, cô chưa có tên và thường được gọi là "nhân vật chủng tộc Navi".[11] Kịch bản dự thảo ban đầu có từ khóa là "lỗ hổng lớn", ám chỉ Great Chasm bên dưới Norende, và "thế giới song song", ám chỉ nhiều phiên bản thế giới Luxendarc, mà người chơi sẽ gặp phải trong suốt cuộc hành trình.[15] Phần lớn kịch bản chính và cốt truyện nhiệm vụ phụ được lồng tiếng hoàn toàn, với dàn lồng tiếng chính có lượng đối thoại lớn hơn nhiều so với các nhân vật khác.[16] Theo chủ đề cổ điển, máy móc hiện đại và nhiều thần thoại trên thế giới.[5]

Naotaka Hayashi, một biên kịch viên tại 5pb, đảm nhận viết kịch bản cho trò chơi. Công việc đáng chú ý nhất vào thời điểm đó là visual novel Steins; Gate. Sau khi chơi qua Steins; Gate theo lời đề nghị của một nhân viên khác, Asano quyết định Hayashi sẽ có thể tạo ra những nhân vật hấp dẫn và kịch bản đáng ngạc nhiên cần thiết cho câu chuyện, và hỏi ý Hayashi khi bắt đầu làm Bravely Default. Một trong những cây viết sau đó là Keiichi Ajiro của Silicon Studio, ông là người đã viết nội dung Notebook cho D. Ajiro cũng tạo ra các phác thảo ban đầu cho Asano. Khái niệm câu chuyện được giữ nhịp đơn giản, nhưng độ phức tạp tăng lên trong quá trình biên soạn. Trong quá trình đó, Square Enix đưa ra hướng dẫn về các nhân vật và câu chuyện cho Hayashi: ví dụ, Asano muốn các anh hùng và nhân vật phản diện phải có đối trọng như nhau, cùng với việc nâng cao lứa tuổi mục tiêu của trò chơi. Thứ mà Hayashi cần nhớ trong quá trình viết là phải giới hạn độ dài của đoạn đối thoại. Asano đưa ra các yêu cầu cụ thể như một câu thoại phải nằm trong giới hạn 22 ký tự và không quá nhiều hộp thoại.[17]

Yoshida Akihiko là nhà thiết kế nhân vật chính kiêm giám đốc chỉ đạo nghệ thuật, công trình đáng chú ý trước đây của ông bao gồm Final Fantasy TacticsTactics Ogre: Let Us Cling Together. Trái ngược với nhiều tác phẩm nghệ thuật trước đây, Yoshida đã sử dụng một thiết kế mạnh mẽ hơn và chọn phong cách tô màu. Ông thiết kế Agnès nhằm thể hiện sự cô đơn và hiểu rõ về số phận của cô cũng như dễ thương và thân thiện. Tiz được thiết kế để truyền tải một nhân cách mạnh mẽ, như đại diện cho chính người chơi. Đối với các phân cảnh trong trò chơi, Yoshida đã vẽ theo văn thơ của trẻ em châu Âu. Các môi trường trong trò chơi như thị trấn và thế giới bên ngoài được tạo ra bằng cách sử dụng hình vẽ đặc biệt ánh xạ tới bố cục 3D, phong cách dùng để mô phỏng sách ảnh cổ xưa. Việc hoàn thiện phong cách nghệ thuật mất một thời gian dài, trải qua nhiều thử nghiệm và phát sinh rất nhiều lỗi.[18] Các họa sĩ khác phụ trách thiết kế dàn nhân vật phụ là Ōkubo Atsushi, nổi tiếng với phim hoạt hình Nhật Bản Soul Eater, thiết kế Einheria và trang phục cho Valkyrie, Erutus Profiteur và Merchant được thiết kế bởi Ishikawa Hideki, người có công thiết kế nhân vật cho trò chơi điện tử Lord of Vermilion, Dorin Makoto thiết kế Kamiizumi và Swordmaster, bà từng làm việc trong loạt Basara Sengoku. Take thiết kế Red Mage Flore DeRossa và Red Mage, ông từng làm việc trong loạt tiểu thuyết Katanagatari. Foo Midori thiết kế Qada và Salve Maker, một họa sĩ đã làm việc trên nhiều tiểu thuyết và trò chơi trực tuyến.[19]

Phát hành

Bravely Default công bố lần đầu tiên vào tháng 9 năm 2011 dưới tựa gốc tiếng Nhật, như một phần của dòng sản phẩm 3DS năm 2012 của Nintendo, cùng với các tựa như Monster Hunter 4 và Fire Emblem Awakening.[20] Từ tháng 2 đến tháng 9 năm 2012, năm bản chơi thử khác nhau đã được phát hành thông qua Nintendo eShop. Bản chơi thử đầu tiên giới thiệu Agnès và cách điều khiển nhân vật.[21] Phần thứ hai, phát hành vào tháng 3, xuất hiện nhân vật Tiz và vài cảnh khám phá thị trấn.[22][23] Bản chơi thử thứ ba, được phát hành vào tháng 6, giới thiệu hệ thống chiến đấu và Edea.[24] Bản chơi thử thứ tư, được phát hành vào tháng 8, Ringabel xuất hiện, các Job và hệ thống tùy biến nhân vật.[25] Bản chơi thử thứ năm và cuối cùng, phát hành vào tháng 9, bao gồm các tính năng từ tất cả các bản trước đó, các yếu tố như Friend Summons và tái thiết xã hội như Abilink và Norende. Việc phát hành bản chơi thử thứ năm cũng kết thúc việc bán các bản chơi thử khác.[26] Các bản chơi thử phát triển song song với trò chơi chính dưới dạng những trải nghiệm độc lập, vẫn dựa theo một số điểm trong trò chơi.[13] Họ cũng cung cấp một nhóm chuyên phản hồi để điều chỉnh lối chơi. Mỗi bản chơi thử bao gồm một bộ phim AR có một trong những nhân vật chính.[8]

Bravely Default chính thức phát hành vào ngày 11 tháng 10 năm 2012. Cùng với phiên bản tiêu chuẩn, Square Enix đã phát hành phiên bản sưu tập, bán độc quyền thông qua cửa hàng trực tuyến. Phiên bản nhà sưu tập bao gồm một poster AR, một bản nhạc, một cuốn sách hình vẽ và một vỏ bảo vệ 3DS cùng chủ đề.[27] Nội dung có thể tải xuống dưới dạng bổ sung trang phục cho nhân vật phát hành thông qua mã khuyến mại và nội dung sau phát hành. Một phiên bản cập nhật có tựa đề Bravely Default: For the Sequel,[c] công bố vào tháng 8 năm 2013 trong Weekly Shōnen Jump bản phát hành vào ngày 5 tháng 12 năm đó.[28] Đối với For the Sequel, có hơn một trăm cải tiến và điều chỉnh khác nhau: bao gồm các vị trí lưu bổ sung, độ khó bổ sung, tùy chọn lưu tự động, các cảnh phụ mới, các yếu tố trò chơi mới như khả năng "Bravely Second" và phụ đề bằng nhiều ngôn ngữ. Những thay đổi này dựa trên bảng câu hỏi do công ty gửi cho người dùng sau khi phát hành phiên bản gốc.[29] Theo các nhân viên, For the Sequel được dự định là "phiên bản thử nghiệm" cho phần tiếp theo, đã được phát triển sau thành công của Bravely Default.[30][31]

Phát hành ra ngoài

Trước bất kỳ thông báo chính thức nào về việc phát hành ở phương Tây, Bravely Default đã được nhiều nhà báo trích dẫn là một trò chơi nên được phát hành rộng ra cho các thị trường phương Tây.[32][33][34]Vào tháng 10 năm 2012, Asano tuyên bố không có kế hoạch cho phiên bản nước khác, nhưng người hâm mộ nên tiếp tục yêu cầu để xác định rõ ràng mong muốn của họ.[7] Bản dịch chính thức được công bố vào tháng 4 năm 2013.[35] Nintendo đảm nhận nhiệm vụ xuất bản ở nước ngoài.[36] Phiên bản phương tây dựa trên phiên bản mở rộng For the Sequel. Được phát hành ở Châu Âu vào ngày 6 tháng 12 năm 2013.[37] Một báo cáo sai trước đó trong báo cáo tài chính của Nintendo đã chỉ ra rằng bản phát hành tại Châu Âu sẽ là vào năm 2014, nhưng điều này sau đó đã được Nintendo of Europe sửa lại.[38] Tại Úc, trò chơi được phát hành vào ngày 7 tháng 12.[39] Tại Bắc Mỹ, trò chơi phát hành vào ngày 7 tháng 2 năm 2014.[40] Cả ở Bắc Mỹ và Anh, một phiên bản dành cho nhà sưu tập được phát hành, bao gồm nhạc phim, sách tranh nghệ thuật và hơn ba mươi thẻ AR.[40][41] Ấn bản ở Anh cũng có thêm một bức tượng nhỏ của Agnès.[8] Trò chơi cũng được phát hành tại Hàn Quốc vào ngày 16 tháng 4, mặc dù không được dịch sang tiếng Hàn, trái ngược với các bản phát hành khác của Nintendo như Shin Megami Tensei IV.[42]

Bill Black và công ty Binari Sonori của ông đảm nhận quá trình bản địa hóa, tác phẩm trước đó của công ty là Demons' Score cho Square Enix và World of Warcraft: The Burning Crusade cho Blizzard Entertainment.[43] Một nhân viên chủ chốt khác là Timothy Law, biên tập viên chuyên về dịch thuật của Square Enix, ông giám sát việc dịch và ghi âm giọng nói. Một yếu tố quan trọng của bản dịch đó là tạo ra một thách thức mới trong hội thoại khi bản tiếng nước ngoài cũng phải có cách chơi chữ đương với cách chơi chữ sử dụng trong tiếng Nhật gốc. Một ví dụ về điều này là nghề Performer và người chủ, sau này đã được điều chỉnh tên lại khi cân nhắc nhận thức về giới tính của người dân Châu Âu. Một ví dụ khác là nhu cầu tạo ra những câu đùa vô nghĩa trong tiếng Nhật, chẳng hạn như Agnès bình luận về việc tìm kiếm một "bùa may mắn". Tựa phụ "Flying Fairy" cũng bị bỏ đi khi phát hành ở phương Tây vì nó có thể gây ấn tượng sai về nội dung thân thiện với gia đình do nhận thức văn hóa khác nhau đối với Nhật Bản. Các diễn viên lồng tiếng người Anh được chọn lựa kỹ càng để có chất âm nghe giống với các diễn viên lồng tiếng người Nhật nhất có thể, và các điều chỉnh đối với các nhân vật thông qua diễn xuất của các diễn viên: những điều này bao gồm việc làm cho Ringabel thích tán tỉnh hơn và điều chỉnh tiếng gầm gừ giận dữ của Edea giữa các phiên bản ngôn ngữ. Trò chơi sử dụng cả bản lồng tiếng Anh và Nhật, cùng với phụ đề bằng nhiều ngôn ngữ.[44] Bản dịch phương Tây có sự kiểm duyệt liên quan đến một số tài liệu khiêu dâm trong bản gốc: độ tuổi của các nhân vật chính đã được tăng lên để không còn dưới tuổi vị thành niên theo tiêu chuẩn của phương Tây, với 15 tuổi được thay đổi thành 18 tuổi, và hai trong số trang phục của các nhân vật nữ chính đã được thay đổi để kín đáo hơn.[45]

Tiếp nhận

Đón nhận
Điểm số tổng gộp
Nhà tổng gộpĐiểm số
Metacritic85/100 (67 đánh giá)[46]
Các điểm số đánh giá
Xuất bản phẩmĐiểm số
Edge8/10[47]
EGM8/10[48]
Eurogamer8/10[49]
Famitsu38/40[50]
Game Informer8/10[51]
GameSpot8.5/10[1]
GameTrailers8.5/10[52]
IGN8.6/10[4]
ONM90%[54]
Polygon8/10[53]
Hardcore Gamer5/5[55]
RPGamer4/5[56]

Trò chơi đã nhận được những đánh giá rất tích cực. Famitsu rất thích cốt truyện, mặc dù những người đánh giá không đi sâu vào chi tiết.[50] Edge nói cốt truyện mang tính "phong phú và chi tiết", thích thú với sự thay đổi bất ngờ so với các thể loại hiện tại và các yếu tố kể chuyện theo chiều hướng đen tối, mặc dù trải nghiệm bị ảnh hưởng bởi chất lượng cốt truyện.[47] Andrew Fitch của Electronic Gaming Monthly nhận thấy cốt truyện và các nhân vật khá thú vị, và trong một số trường hợp là "xuất sắc",[48] trong khi Ben Moore của GameTrailers lưu ý cốt truyện có những khúc mắc thú vị, bất chấp rủi ro, và nhận thấy trò chơi bị sa lầy qua nhiều vào những điềm báo xung quanh cốt truyện chính.[51] Jeff Marchiafava của Game Informer thấy cốt truyện và các nhân vật của trò chơi "đầy rẫy những lời sáo rỗng", và gọi các màn đối thoại là "quá dài dòng" mặc dù diễn biến cuối có phần cải thiện trên cả hai khía cạnh.[51] Simon Parkin, viết cho Eurogamer, thấy cốt truyện ít "bất thường" hơn so với các khía cạnh khác, nhưng ca ngợi sự sẵn sàng thay đổi và thích thú với việc Hayashi tạo nên khác biệt đối với những trò chơi cùng thể loại.[49] John Robertson của GameSpot tỏ ra khá tiêu cực, nói trò chơi khởi đầu không tốt và không gây ấn tượng.[1] David Evans của IGN khen ngợi sức mạnh của các nhân vật, nhưng nhận thấy nhịp độ của cốt truyện đôi khi còn gặp khó khăn.[4] Danielle Riendeau của Polygon, mặc dù thấy có nhiều nhân vật hấp dẫn, đã gọi cốt truyện là "giống như một trò đùa của những trò đùa hơn là sự độc đáo của riêng nó [về mặt thể loại]".[53] Chandra Nair của Official Nintendo Magazine đánh giá cốt truyện và nhân vật "cực kỳ ấn tượng", trong khi Bradly Halestorm của Hardcore Gamer thấy cốt truyện được liên kết rất chắc chắn và dàn nhân vật chính thú vị.[54] Alex Fuller của RPGamer cũng thấy dàn nhân vật chính khá thú vị, khen ngợi các tương tác Party Chat và cốt truyện, mặc dù ban đầu trông trò chơi quá đơn giản.[56]

Về tổng thể, lối chơi cũng nhận nhiều lời khen ngợi. Chuyên trang đánh giá Edge rất thích cơ chế Bravely và Default, đánh giá là đơn giản mặc dù thời gian khởi chạy khá là "cồng kềnh".[47] Fitch cũng thích cơ chế trò chơi, nhưng nhận thấy các yếu tố xã hội kém thành công hơn, mặc dù không hẳn làm ông khó chịu.[48] Moore ca ngợi hệ thống chiến đấu và việc triển khai hệ thống Job, mặc dù hệ thống này đòi hỏi phải nghiên cứu mới có thể mở khóa giá trị. Ông cũng ca ngợi khả năng điều chỉnh tỷ lệ chạm trán và tốc độ chiến đấu, đồng thời ghi nhận các tính năng xã hội là tích cực và các hoạt động thứ cấp hấp dẫn.[52]Marchiafava nhận thấy hệ thống chiến đấu và nghề nghiệp được tổ chức hợp lý trong toàn bộ trò chơi, và cũng giống như Moore, thấy hệ thống xã hội thú vị.[51] Nair khen ngợi tính tích cực về chiến lược và chiều sâu mà lối chơi đem lại, mặc dù chỉ trích số lượng tùy chọn làm tăng lượng thời gian của trận chiến.[54] Cả Evans và Robertson đều khen hệ thống chiến đấu và lối chơi nói chung, trong đó, Robertson gọi đây là sự đổi mới đáng ghi nhận đối với thể loại này.[1][4] Riendeau nhận thấy chiều sâu và chất lượng mà hệ thống chiến đấu mang lại cho cô cảm giác phấn khích khi tiêu diệt thành công đối thủ, nhưng cũng thấy chuyện bị buộc phải tăng chỉ số kinh nghiệm xuất hiện sau đó gây ảnh hưởng tiêu cực đến trải nghiệm.[53] Parkin gọi cơ chế Brave và Default là "đúng ngay trọng tâm - và tuyệt vời - ý tưởng".[49] Fuller, nhận thấy các giao dịch gây "lãng phí tiền bạc", ông rất thích cơ chế chiến đấu và các tính năng thân thiện với người dùng. [57] Halestorm đã chia sẻ những ý kiến ​​tích cực của những người đánh giá khác về hệ thống chiến đấu, đồng thời ca ngợi số lượng và chất lượng nội dung của trò chơi.[56] Nhiều người có đánh giá tích cực so sánh lối chơi và phong cách với các trò chơi Final Fantasy trước đó.[47][48][50][52][55] Nhưng nhiều nhà phê bình ở phương Tây lại bình luận tiêu cực về chuyện các trận đánh bị lặp đi lặp lại vào cuối trò chơi.[48][51][52]

Hình ảnh và cách trình bày thu hút nhiều ý kiến ​​trái chiều. Famitsu khen ngợi mảng đồ họa, trong khi Edge ngưỡng mộ phong cách nghệ thuật và thiết kế quái vật, vui mừng vì những hạn chế phần cứng mà The 4 Heroes of Light gặp phải đã không xuất hiện trong Bravely Default.[47][50] Marchiafava khen đồ họa của trò chơi "đẹp" và nhạc nền, mặc dù nói phần lồng tiếng tiếng Anh là "nửa trúng nửa trượt".[51] Fuller ít bị ấn tượng về mặt hình ảnh, nhưng nhận thấy âm nhạc rất xuất sắc.[56] Halestorm cho rằng đây là đồ họa đẹp nhất trên 3DS, khen ngợi vẻ ngoài cách điệu và hiệu ứng 3D được thực thi tốt, và gọi nhạc nền "hết sức thôi miên".[55] Nair khen ngợi phần âm thanh, mặc dù có chút khác biệt trong phần nhạc và nhận xét hình ảnh "tuyệt đẹp".[54] Evens khen đồ họa từng nhân vật vì vẻ ngoài "đơn giản và nổi bật", và tác phẩm nghệ thuật trên khung nền cách điệu.[4] Riendeau nhận xét tính thẩm mỹ của trò chơi mới là thứ khiến bà để mắt đến, trong khi câu chuyện lại không làm đượ.[53] Parkin gọi ảnh nền là "không giống như bất kỳ cái gì khác".[49] Robertson đánh giá đồ họa của trò chơi là "nổi bật và hấp dẫn". [1]

Doanh số bán hàng

Trong tuần đầu tiên ra mắt, Bravely Default đã đứng đầu bảng xếp hạng với doanh số 141.529 bản, được đánh giá là màn ra mắt ấn tượng cho một trò chơi mới. Có tỷ lệ bán hơn 85%. Doanh thu và tỷ lệ bán hết của trò chơi cao hơn đáng kể so với tiền nhiệm The 4 Heroes of Light.[57] Vào cuối tháng 1 năm 2013, doanh số của trò chơi đạt 300.000 bản chỉ tính trong Nhật Bản.[58] For the Sequel ra mắt ở vị trí thứ 8 trong bảng xếp hạng trò chơi điện tử, bán được 35.617 bản.[59] Đến năm 2014, For the Sequel đã đã bán được 59.300 bản, trở thành trò chơi bán chạy thứ 160 trong năm.[60] Tại Bắc Mỹ, Bravely Default đạt doanh số bán ra đợt đầu tiên cao nhất, đứng vị trí thứ 10 trong bảng xếp hạng doanh số của NPD Group và bán được 200.000 bản.[61] Vào tháng 7 năm 2014, có báo cáo cho rằng Bravely Default bán được một triệu bản trên toàn thế giới: 400.000 bản ở Nhật Bản, và 600.000 ở nước ngoài.[62]

Giải thưởng

Famitsu đã trao cho trò chơi giải "Rookie Award" tại sự kiện Giải thưởng năm 2012, và cả Giải thưởng Dengeki Online Consumer Award năm 2012, giải thưởng được trao khi trò chơi đánh bại được Persona 4 Golden Rune Factory 4.[63][64] Tại Japan Game Awards, trò chơi nhận Giải thưởng Future Game Award vào năm 2012 và Excellence Award vào năm 2013.[65][66] Sau đó cũng giành giải thưởng 3DS Game of the Year năm 2014 của GameSpot.[67] Tại National Academy of Video Game Trade Reviewers (NAVGTR) năm 2014, Bravely Default được đề cử cho hạng mục Game, Original Role Playing.[68] IGN và GameSpot xếp hạng cho Bravely Default là một trong những trò chơi hay nhất trên 3DS vào năm 2013 và 2014.[69][70]

Ảnh hưởng

Thành công của trò chơi, đi ngược lại với những gì Square Enix từng cho là một trò chơi nhập vai truyền thống sẽ dễ gặp thất bại, đã khiến họ phải xem xét lại chiến lược ban đầu cho đến thời điểm đó. Hãng bắt đầu hướng tới việc phát triển các tựa trò chơi phù hợp với phương Tây thay vì chỉ tập trung vào thị trường Nhật Bản.[71] Theo các nhà phát triển, không ai trong số họ tin rằng trò chơi sẽ được phát hành ở nước ngoài và bị choáng ngợp bởi những phản hồi tích cực của người hâm mộ mà họ nhận được.[72] Một manga có tựa Bravely Default: Flying Fairy đã đăng tải trên mạng thông qua Famitsu.[73] Hai tập tổng hợp lần lượt được phát hành vào năm 2015 và 2016.[74][75] Hai cuốn sách bổ sung, được phát hành với tựa Bravely Default: The Pocketbook of R,[d] phát hành vào tháng 12 năm 2013.[76][77] Ngoài ra, hai CD phim truyền hình có các câu chuyện bổ sung đã ược phát hành trong năm 2013 và 2014.[78] [79] Nhạc nền của trò chơi còn được giới thiệu ở Theatrhythm Final Fantasy dưới dạng DLC.[80]

Một trò chơi trên trình duyệt có tựa Bravely Default: Praying Brage,[e] bắt đầu mở phiên bản beta vào ngày 11 tháng 11 năm 2012. NHN Hangame phát triển, Praying Brage diễn ra ở bối cảnh 200 năm sau trò chơi gốc và bao gồm một dàn nhân vật mới, phù hợp với bốn lực lượng theo chủ đề các nguyên tố tinh thể của Luxendarc.[81][82][83] Một phần phụ khác, Bravely Archive: D's Report, phát hành cho thiết bị di động vào ngày 22 tháng 1 năm 2015.[84] Giống như Praying Brage, trò chơi lấy bối cảnh ở xa trong tương lai, dựa theo một kịch bản thay thế bắt nguồn từ các sự kiện của Bravely Default và các nhân vật nổi bật từ Praying Brage.[85] Đến tháng 8 năm đó, D's Report đạt hơn bốn triệu lượt tải xuống.[86] Phần tiếp theo được xác nhận là đang phát triển vào đầu năm 2013.[30] Trò chơi mới, Bravely Second: End Layer, chính thức công bố vào tháng 12 năm 2013.[87] Trò chơi phát hành tại Nhật Bản vào năm 2015 và ở nước ngoài vào năm 2016.[88][89] Trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí Nhật Bản Dengeki, Asano nói lý tưởng nhất là phát hành một trò chơi Bravely mới mỗi năm.[90]Sau khi phát hành trò chơi thứ hai, Asano sẽ hợp tác với nhà sản xuất của Square Enix là Masashi Takahashi và xưởng Acquire để phát triển một trò chơi nhập vai truyền thống mới, sau khi chứng kiến phản ứng quá tốt của loạt Bravely. Trò chơi này, sẽ trở thành Octopath Traveler, công bố vào tháng 1 năm 2017 và phát hành trên toàn thế giới cho Nintendo Switch vào tháng 7 năm 2018, theo sau là phiên bản PC, phát hành vào tháng 6 năm 2019.

Phần thứ ba trong loạt Bravely, Bravely Default II, đã công bố tại The Game Awards 2019, dành riêng cho Nintendo Switch.[91] Hai năm trước ngày Giáng sinh năm 2017, nhà thiết kế nhân vật Yoshida Akihiko đã đăng một hình ảnh lên Twitter, hình Edea đang cầm một cặp Joy-Con. Ngoài ra, sau khi Octopath Traveller bán ra hơn 1 triệu bản, một hình minh họa khác trên Twitter được tung ra để ăn mừng sự kiện này, với tám thành viên trong nhóm, tương tự như Airy trong trò chơi đầu tiên.[92] Cách thức hoạt động của phần tiếp theo sẽ đánh số tương tự như nhượng quyền thương mại Final Fantasy, phần mới này diễn ra trong một thế giới mới, tách biệt với các trò chơi trước đó, cùng một dàn nhân vật mới. Trò chơi một lần nữa sẽ được sản xuất bởi Team Asano và Revo sáng tác nhạc, với lối chơi cốt lõi hiện do Claytechworks đảm nhiệm thay vì Silicon Studio. Trò chơi lên kế hoạch sẽ phát hành trên toàn thế giới vào ngày 26 tháng 2 năm 2021. Bản chơi thử miễn phí đã có sẵn trên Nintendo eShop vào ngày 26 tháng 3 năm 2020, nhằm thu thập phản hồi từ người chơi và điều chỉnh trò chơi cho phù hợp.

Xem thêm

Tham khảo

  1. ^ a b c d e f g Robertson, John (13 tháng 12 năm 2013). “Bravely Default Review - Brave Days of Old”. GameSpot. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2016.
  2. ^ a b c d e f g h i “Bravely Default European Manual” (PDF). Nintendo. 2013. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2016.
  3. ^ a b Thew, Geoff (6 tháng 2 năm 2014). “Find Your Courage With These Bravely Default Tips”. Hardcore Gamer. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2016.
  4. ^ a b c d e f g Evans, David (5 tháng 12 năm 2013). “Bravely Default Review - To the Mana Born”. IGN. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2016.
  5. ^ a b Yip, Spencer (2 tháng 10 năm 2012). “Bravely Default Replaces Fire Summon Monster Ifrit With Prometheus”. Siliconera. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2016.
  6. ^ a b Brown, Peter (8 tháng 2 năm 2014). “Bravely Default: From Sequel to Sequel”. GameSpot. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2016.
  7. ^ a b c d e Janelle (8 tháng 10 năm 2012). “Bravely Default "Now THAT's an RPG!" – Square Enix Interview with RPG Land”. RPG Land. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2016.
  8. ^ a b c Yip, Spencer (1 tháng 5 năm 2013). “Bravely Default Was Originally Designed As An Action RPG”. Siliconera. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2013.
  9. ^ Sahdev, Ishaan (17 tháng 2 năm 2014). “Bravely Default Is A Japanese RPG Inspired By American TV, Says Producer”. Siliconera. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2014.
  10. ^ Gifford, Kevin (17 tháng 10 năm 2012). “Bravely Default and the struggle to make a standard (but not stodgy) JRPG”. Polygon. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2013.
  11. ^ a b c 『ブレイブリーデフォルト』ネタバレインタビュー! ストーリーの謎をキーマンの発言から読み解く (bằng tiếng Nhật). Famitsu. 10 tháng 12 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2016.
  12. ^ 『ブレイブリーデフォルト』全楽曲はSound HorizonのRevoによる書き下ろし! サントラやRevo新プロジェクトも発表 (bằng tiếng Nhật). Famitsu. 19 tháng 6 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2016.
  13. ^ a b やり込み要素やRevoさんの音楽について浅野プロデューサーに直撃! 『ブレイブリーデフォルト』発売直前インタビュー (bằng tiếng Nhật). Dengeki Online. 9 tháng 10 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2016.
  14. ^ Gantayat, Anoop (30 tháng 3 năm 2012). “The Meaning of Bravely Default”. Andriasang.com. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2012.
  15. ^ ブレイブリーデフォルト フライングフェアリー 公式コンプリートガイド [Bravely Default: Flying Fairy Official Complete Guide] (bằng tiếng Nhật). Square Enix. 8 tháng 11 năm 2012. ISBN 4-7575-3776-X.
  16. ^ Gantayat, Anoop (3 tháng 7 năm 2012). “Just One Save File For Bravely Default”. Andriasang.com. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2012.
  17. ^ [TGS 2012]「ブレイブリーデフォルト」,プロデューサー浅野智也氏インタビュー。ジョブデザインのアーティストコラボや,通信を利用して「みんなと遊べる1人用王道RPG」のシステムが明らかに (bằng tiếng Nhật). 4Gamer.net. 22 tháng 9 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2016.
  18. ^ 『ブレイブリーデフォルト』プロデューサー浅野智也氏&リードアーティスト吉田明彦氏インタビュー【完全版】 (bằng tiếng Nhật). Famitsu. 6 tháng 4 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2016.
  19. ^ 実は『ソウルイーター』の大久保篤さんも 『ブレイブリーデフォルト』に参加していた! 豪華ゲスト陣の貴重な設定画祭りをどうぞ!! (bằng tiếng Nhật). Dengeki Online. 28 tháng 9 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2016.
  20. ^ Romano, Sal (13 tháng 9 năm 2012). “Monster Hunter 4, Bravely Default, more announced at Nintendo 3DS showcase”. Gematsu. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2015.
  21. ^ Bivens, Danny (29 tháng 2 năm 2012). “Hands-On Preview: Bravely Default: Flying Fairy”. Nintendo World Report. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2016.
  22. ^ Gantayat, Anoop (24 tháng 3 năm 2012). “Second Bravely Default Flying Fairy Demo Detailed”. Andriasang.com. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2016.
  23. ^ Gantayat, Anoop (26 tháng 3 năm 2012). “Meet the Bravely Default Main Character on Wednesday”. Andriasang.com. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2016.
  24. ^ Gantayat, Anoop (25 tháng 6 năm 2012). “Bravely Default Battle Demo Set for Wednesday”. Andriasang.com. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2016.
  25. ^ Gantayat, Anoop (30 tháng 7 năm 2012). “Next Bravely Default Demo Hits on Wednesday”. Andriasang.com. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2016.
  26. ^ Gantayat, Anoop (10 tháng 9 năm 2012). “Final Bravely Default Flying Fairy Demo Hits on Wednesday”. Andriasang.com. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2016.
  27. ^ Gantayat, Anoop (27 tháng 6 năm 2012). “Bravely Default Dated for October 11”. Andriasang.com. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2016.
  28. ^ Romano, Sal (28 tháng 8 năm 2013). “Bravely Default: For the Sequel announced”. Gematsu. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2016.
  29. ^ Gantayat, Anoop (7 tháng 8 năm 2012). “Bravely Default Bonus DLC: Costumes for Anies and Ringabel”. Andriasang.com. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2016.
  30. ^ a b 『ブレイブリーデフォルト FTS』浅野P&中原Dインタビュー! “限界突破”やイベントビューワ、新システムなどさまざまなキーワードに迫る (bằng tiếng Nhật). Dengeki Online. 10 tháng 9 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2016.
  31. ^ 『ブレイブリーデフォルト FTS』浅野P&中原Dインタビュー! “限界突破”やイベントビューワ、新システムなどさまざまなキーワードに迫る (bằng tiếng Nhật). Dengeki Online. Ngày 9 tháng 10 năm 2013. Bản gốc lưu trữ vào ngày 26 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2016
  32. ^ Schreier, Jason (18 tháng 12 năm 2012). “Hey Square Enix, Where The Hell Is Bravely Default?”. Kotaku. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2013.
  33. ^ Parish, Jeremy (23 tháng 10 năm 2012). “A Final Fantasy by Any Other Name Plays Just as Sweet in Bravely Default”. 1UP.com. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2013.
  34. ^ Brown, Peter (28 tháng 2 năm 2013). “Eight 3DS Games Nintendo Needs to Bring to the West”. GameSpot. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2013.
  35. ^ Donaldson, Alex (17 tháng 4 năm 2013). “Bravely Default: Flying Fairy heading West, Nintendo Publishing”. RPG Site. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2016.
  36. ^ Gifford, Kevin (5 tháng 9 năm 2013). “Bravely Default producer discusses 'over 100' improvements made to English port”. Polygon. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2016.
  37. ^ Romano, Sal (1 tháng 10 năm 2013). “Bravely Default European release date set”. Gematsu. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2016.
  38. ^ Yip, Spencer (6 tháng 8 năm 2013). “Bravely Default Still Flying Out In Europe In 2013”. Silcionera. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2016.
  39. ^ Te, Zorine (1 tháng 12 năm 2013). “AU Shippin' Out December 2–6: Gran Turismo 6”. GameSpot. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2016.
  40. ^ a b Schulenberg, Thomas (17 tháng 11 năm 2013). “Bravely Default launching on February 7 in US, gets collector's edition”. Joystiq. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2014.
  41. ^ Thomas East (23 tháng 10 năm 2013). “Bravely Default Deluxe Collector's Edition comes with artbook and Agnès Figurine”. Official Nintendo Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2013.
  42. ^ Sahdev, Ishaan (11 tháng 4 năm 2014). “Nintendo To Publish Bravely Default In South Korea... But Not In Korean”. Siliconera. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2016.
  43. ^ Sahdev, Ishaan (16 tháng 12 năm 2013). “Here's Who Worked On Bravely Default's English Localization”. Siliconera. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2013.
  44. ^ 『ブレイブリーデフォルト FtS』ローカライズインタビュー! もっとも翻訳に苦労したのはダジャレや言葉遊びではなく、ソードマスター? (bằng tiếng Nhật). Dengeki Online. 27 tháng 12 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2016.
  45. ^ McFerran, Damien (3 tháng 1 năm 2014). “Western Version Of Bravely Default Features Costume Changes For Female Characters”. Nintendo Life. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2014.
  46. ^ “Bravely Default for Nintendo 3DS”. Metacritic. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2013.
  47. ^ a b c d e “Bravely Default review”. Edge. 3 tháng 12 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2016.
  48. ^ a b c d e Fitch, Andrew (7 tháng 2 năm 2014). “EGM Review: Bravely Default”. Electronic Gaming Monthly. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2016.
  49. ^ a b c d Parkin, Simon (3 tháng 12 năm 2013). “Bravely Default review”. Eurogamer. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2016.
  50. ^ a b c d Janelle (13 tháng 10 năm 2012). “Bravely Default Famitsu Review Translated”. RPGLand. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2016.
  51. ^ a b c d e f Marchiafava, Jeff (28 tháng 1 năm 2014). “Bravely Default - New Ideas, Old Problems”. Game Informer. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2016.
  52. ^ a b c d Moore, Ben (6 tháng 2 năm 2014). “Bravely Default - Review”. GameTrailers. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2016.
  53. ^ a b c d Riendeau, Danielle (30 tháng 1 năm 2014). “Bravely Default Review: Headstrong”. Polygon. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2016.
  54. ^ a b c d Nair, Chandra (27 tháng 11 năm 2013). “Bravely Default review”. Official Nintendo Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2016.
  55. ^ a b c Storm, Bradly (28 tháng 1 năm 2014). “Review: Bravely Default”. Hardcore Gamer. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2016.
  56. ^ a b c d Fuller, Alex (30 tháng 1 năm 2014). “Bravely Default Review - Not in the Way of Sir Robin”. RPGamer. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2016.
  57. ^ Sahdev, Ishaan (19 tháng 10 năm 2012). “Bravely Default Sees 85% Sell-Through; Project X Zone Only 57%”. Siliconera. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2016.
  58. ^ Nishioka, Koji (25 tháng 1 năm 2013). 2月からのコンテンツ拡充に期待——「ブレイブリーデフォルト プレイングブレージュ」プロデューサー山中氏にインタビュー。浅野氏からは今後の展開も? (bằng tiếng Nhật). 4Gamer.net. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2016.
  59. ^ Romano, Sal (11 tháng 12 năm 2013). “Media Create Sales: 12/2/13 – 12/8/13”. Gematsu. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2016.
  60. ^ Ashcraft, Brian (17 tháng 4 năm 2014). “The top 1,000 best-selling games in Japan for 2013”. Nintendo Everything. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2016.
  61. ^ Sahdev, Ishaan (13 tháng 3 năm 2014). “Both Lightning Returns And Bravely Default Were Among Last Month's Best-Sellers”. Siliconera. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2014.
  62. ^ Pereira, Chris (28 tháng 7 năm 2014). “Bravely Default's Strong Sales Continue, Reach 1 Million Worldwide”. GameSpot. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2016.
  63. ^ 『ブレイブリーデフォルト』インタビュー! 開発秘話満載の“中原D(ディレクター)の手帳”を初公開 (bằng tiếng Nhật). Dengeki Online. 13 tháng 5 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2016.
  64. ^ Contents:コンシューマーゲーム/シリコンスタジオ株式会社. Silicon Studio. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2013.
  65. ^ 日本ゲーム大賞2012 > 受賞作品 > フューチャー部門. Japan Game Awards. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2013.
  66. ^ 年間作品部門/受賞作品/日本ゲーム大賞2013. Japan Game Awards. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2015.
  67. ^ “Bravely Default - 3DS Game of the Year”. GameSpot. 12 tháng 12 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2014.
  68. ^ “NAVGTR Awards ( 2014)”. National Academy of Video Game Trade Reviewers. [http: //navgtr.org/archives/2445 Bản gốc] Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp) lưu trữ ngày 10 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2017.
  69. ^ Ramsay, Randolph (17 tháng 4 năm 2014). “The Best 3DS Games”. GameSpot. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2015.
  70. ^ Otero, Jose (26 tháng 2 năm 2015). “The Top 25 Nintendo 3DS Games”. IGN. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2015.
  71. ^ Sato (31 tháng 3 năm 2014). “Bravely Default's Success In The West Is Making Square Enix Rethink Their JRPGs”. Siliconera. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2014.
  72. ^ Sahdev, Ishaan (29 tháng 11 năm 2013). “Bravely Default Developers Deeply Moved By Anticipation From West”. Siliconera. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2013.
  73. ^ ブレイブリーデフォルト フライングフェアリー (bằng tiếng Nhật). Famitsu. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2016.
  74. ^ ブレイブリーデフォルト フライングフェアリー(1) (bằng tiếng Nhật). Kadokawa Corporation. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2016.
  75. ^ ブレイブリーデフォルト フライングフェアリー(2) (bằng tiếng Nhật). Kadokawa Corporation. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2016.
  76. ^ ブレイブリーデフォルト Rの手帳 Vol.1 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2016.
  77. ^ ブレイブリーデフォルト Rの手帳 Vol.2 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2016.
  78. ^ ブレイブリーデフォルト ドラマCD ~リユニオンの祝祭~ (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2016.
  79. ^ ブレイブリーデフォルト ドラマCD~エタニティの腕環~ (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2016.
  80. ^ Yip, Spencer (6 tháng 11 năm 2014). “Bravely Default Tunes Are Coming To Theatrhythm Final Fantasy Curtain Call”. Siliconera. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2016.
  81. ^ Yip, Spencer (23 tháng 10 năm 2012). “Bravely Default Free To Play Game Coming to PC, Connects With 3DS Game”. Siliconera. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2013.
  82. ^ Yip, Spencer (25 tháng 10 năm 2012). “Bravely Default PC Game Is Set 200 Years After The Nintendo 3DS Game”. Siliconera. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2016.
  83. ^ Gifford, Kevin (24 tháng 10 năm 2012). “Square Enix releasing Bravely Default-themed browser game”. Polygon. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2016.
  84. ^ iOS版「BRAVELY ARCHIVE D's report」が本日配信開始。実施中のキャンペーンではガチャを回すのに必要な“結晶石”を配布 (bằng tiếng Nhật). 4Gamer.net. 22 tháng 1 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2016.
  85. ^ Sato (24 tháng 12 năm 2014). “A Bravely Default Game Is Headed To Smartphones In Japan”. Siliconera. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2016.
  86. ^ Romano, Sal (25 tháng 8 năm 2015). “Bravely Archive: D's Report tops four million downloads”. Gematsu. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2015.
  87. ^ Phillips, Tom (4 tháng 12 năm 2013). “Bravely Default sequel announced for 3DS in Japan”. Eurogamer. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2013.
  88. ^ 「ブレイブリーセカンド」は2015年4月23日に発売。フィギュアなどが同梱するコレクターズパックの発売と,店舗別予約キャンペーンの実施も決定 (bằng tiếng Nhật). 4Gamer.net. 9 tháng 12 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2016.
  89. ^ Sahdev, Ishaan (1 tháng 6 năm 2015). “Bravely Second Coming West In 2016”. Siliconera. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2015.
  90. ^ Sato (23 tháng 12 năm 2013). “Bravely Second Producer Aims to Release New Bravely Game Every Year”. Siliconera. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2014.
  91. ^ Bravely Default II – Announcement Trailer – Nintendo Switch (bằng tiếng Anh), truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2019
  92. ^ https://m.youtube.com/watch?feature=youtu.be&v=hqXJb24h2H8


Ghi chú

  1. ^ ブレイブリーデフォルト フライングフェアリー, Bureiburī Deforuto: Furaingu Fearī
  2. ^ Game mechanic là các quy tắc hướng dẫn các bước di chuyển hoặc hành động của người chơi, cũng như cách mà trò chơi phản hồi lại lệnh mà người chơi yêu cầu.
  3. ^ ブレイブリーデフォルト フォーザ・シークウェル, Bureiburī Deforuto: Fōza Shīkuweru
  4. ^ ブ レ イ ブ リ ー デ フ ォ ル ト R の 手 帳, Bureiburī Deforuto: Aru no Techō
  5. ^ ブ レ イ ブ リ ー デ フ ォ ル ト プ レ レ イ グ ブ レ ー ジ ュ, Bureiburī Deforuto: Pureingu Burēju

Liên kết ngoài