Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lê Huyền Tông”
Đã lùi lại sửa đổi 46658471 của Đói ăn - khát uống - có bệnh chữa - sai sửa (thảo luận) Thẻ: Lùi sửa |
Không có tóm lược sửa đổi Thẻ: Soạn thảo trực quan Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động |
||
Dòng 41: | Dòng 41: | ||
| mẹ = [[Phạm Thị Ngọc Hậu]] |
| mẹ = [[Phạm Thị Ngọc Hậu]] |
||
}} |
}} |
||
'''Lê Huyền Tông''' ([[chữ Hán]]: 黎玄宗, [[1654]] – [[1671]]), tên thật là '''Lê Duy Vũ''' (黎維禑), tên khác là '''Lê Duy Hi''' (黎維禧), là vị hoàng đế thứ tám của [[Nhà Lê trung hưng|nhà Lê trung hưng]], trong [[lịch sử Việt Nam]] |
'''Lê Huyền Tông''' ([[chữ Hán]]: 黎玄宗, [[1654]] – [[1671]]), tên thật là '''Lê Duy Vũ''' (黎維禑), tên khác là '''Lê Duy Hi''' (黎維禧), là vị hoàng đế thứ tám của [[Nhà Lê trung hưng|nhà Lê trung hưng]], trong [[lịch sử Việt Nam]]. |
||
== Việc lên ngôi == |
== Việc lên ngôi == |
Phiên bản lúc 10:22, ngày 12 tháng 2 năm 2019
Lê Huyền Tông 黎玄宗 | |||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Vua Việt Nam | |||||||||||||||||
Hoàng đế Đại Việt | |||||||||||||||||
Trị vì | 1662 - 1671 | ||||||||||||||||
Tiền nhiệm | Lê Thần Tông | ||||||||||||||||
Kế nhiệm | Lê Gia Tông | ||||||||||||||||
Thông tin chung | |||||||||||||||||
Sinh | 1654 | ||||||||||||||||
Mất | 1671 (16–17 tuổi) Đông Kinh, Đại Việt | ||||||||||||||||
| |||||||||||||||||
Triều đại | Nhà Lê trung hưng | ||||||||||||||||
Thân phụ | Lê Thần Tông | ||||||||||||||||
Thân mẫu | Phạm Thị Ngọc Hậu |
Lê Huyền Tông (chữ Hán: 黎玄宗, 1654 – 1671), tên thật là Lê Duy Vũ (黎維禑), tên khác là Lê Duy Hi (黎維禧), là vị hoàng đế thứ tám của nhà Lê trung hưng, trong lịch sử Việt Nam.
Việc lên ngôi
Việc Lê Huyền Tông lên ngôi được sách "Đại Việt sử ký toàn thư" chép như sau: "Tháng 9 (năm Nhân Dần, 1662), vua (tức Lê Thần Tông) nhiễm bệnh, xuống chiếu đổi niên hiệu là Vạn Khánh năm thứ nhất. Đại xá.
Bấy giờ, vua còn chưa khỏi bệnh, nên có chỉ dụ cho Thượng sư Tây Vương (chỉ Trịnh Tạc) rằng:
Trước đây, vì chưa có con nối dõi, cho nên mới lấy Duy Tào là người khác họ làm Thái tử. Nay, vì lo việc về sau, trên sợ anh linh của tổ tông đang ở cõi trời, không dám khinh suất, đem ngôi lớn phó thác cho người khác họ. Vậy, hãy phế Duy Tào đi rồi cho hắn theo về với họ mẹ. Nay, con đích (thực ra là con thứ, nhưng vì anh là Lê Duy Hựu tức vua Lê Chân Tông đã mất nên con thứ được coi là con đích) là Duy Vũ đã lên 9 tuổi, đã bắt đầu trưởng thành, nhờ vương (tức Trịnh Tạc) giúp đỡ nên người để nối nghiệp lớn, giữ yên lòng thần dân.
Vương thấy việc này rất hệ trọng, bèn sai các quan văn võ vào thềm son để đợi mệnh, đồng thời, uỷ cho bọn Tham tụng, Lễ bộ Thượng thư kiêm Đông các Đại học sĩ, Thiếu bảo, tước Yên Quận công là Phạm Công Trứ, cùng các quan Hữu Đô đốc kiêm Thái giám, tước Bái Quận công là Lê Viết Đăng, Hằng Quận công là Lê Đăng Tiến, vào chỗ vua nằm để đợi cố mệnh. Nhà vua khẩn khoản hiểu dụ đến hai ba lần. Y như lời dụ trước đó (với Thượng sư Tây Vương Trịnh Tạc). Phạm Công Trứ đem lời vua trình lại cho vương hay. Vương là các quan tôn lập Hoàng tử Duy Vũ làm Thái tử, phế Duy Tào làm thứ dân, cho theo về với họ mẹ.
Sau khi vua Lê Thần Tông qua đời, tháng 10 năm Nhâm Dần (1662), Lê Duy Vũ lên ngôi vua, và quyền chính do Tây vương Trịnh Tạc nắm giữ.
Ông là một vị vua yểu mệnh. Sau khi ở ngôi được 9 năm, ông mất vào ngày 15 tháng 10 năm Tân Hợi (1671), hưởng dương 17 tuổi, và không có con nối dõi.
Vua Lê Huyền Tông được an táng tại huyện Lôi Dương (nay là huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa).
Theo Việt Nam sử lược, khi mới lên ngôi, nhà vua cho thông sứ với nhà Thanh, và cấm đạo Thiên chúa[1].
Niên hiệu
Trong thời gian ở ngôi, Lê Huyền Tông chỉ đặt một niên hiệu duy nhất:
Chú thích
- ^ Theo Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược [1].