HMS Moorsom (K567)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu frigate HMS Moorsom (K567) trong Thế Chiến II
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi DE-522
Xưởng đóng tàu Xưởng hải quân Boston, Boston, Massachusetts
Đặt lườn 14 tháng 8, 1943 [1][2][3]
Hạ thủy 24 tháng 9, 1943 [1][2][3]
Hoàn thành 10 tháng 12, 1943
Số phận Chuyển cho Hải quân Hoàng gia Anh, 10 tháng 12, 1943 [1][2][3]
Anh Quốc
Tên gọi HMS Moorsom (K567)
Đặt tên theo Robert Moorsom[1][4]
Trưng dụng 10 tháng 12, 1943
Nhập biên chế 10 tháng 12, 1943[1][2][3]
Xuất biên chế 25 tháng 10, 1945 [1][2]
Tình trạng Hoàn trả cho Hoa Kỳ, 25 tháng 10, 1945 [1][2][3]
Hoa Kỳ
Trưng dụng 25 tháng 10, 1945
Xóa đăng bạ 5 tháng 12, 1945 [1][2]
Tình trạng Bán để tháo dỡ, 12 tháng 7, 1946 [1][2]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu
Kiểu tàu Tàu frigate
Trọng tải choán nước
  • 1.140 tấn Anh (1.160 t) (tiêu chuẩn);
  • 1.430 tấn Anh (1.450 t) (đầy tải)
Chiều dài
  • 283 ft 6 in (86,41 m) (mực nước);
  • 289 ft 5 in (88,21 m) (chung)
Sườn ngang 35 ft (11 m)
Mớn nước 10 ft (3,0 m)
Công suất lắp đặt 6.000 hp (4.500 kW)
Động cơ đẩy
Tốc độ 19 kn (22 mph; 35 km/h)
Tầm xa 4.150 nmi (4.780 mi; 7.690 km) ở vận tốc 12 kn (14 mph; 22 km/h)
Số tàu con và máy bay mang được
  • xuồng săn cá voi 27 foot (8,2 m) kiểu Hải quân Anh
  • xuồng tiêu chuẩn kiểu Hải quân Mỹ
Thủy thủ đoàn tối đa 175
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • Radar kiểu SA & SL
  • Sonar Kiểu 128D hoặc Kiểu 144
  • Ăn-ten định vị MF
  • Ăn-ten định vị cao tần Kiểu FH 4
Vũ khí

HMS Moorsom (K567) là một tàu frigate lớp Captain của Hải quân Hoàng gia Anh hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên được Hoa Kỳ chế tạo như là chiếc DE-522, một tàu hộ tống khu trục lớp Evarts, và chuyển giao cho Anh Quốc theo Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Anh được đặt tên theo Đô đốc Sir Robert Moorsom (1760-1835), người từng tham gia các cuộc Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ, Chiến tranh Cách mạng PhápChiến tranh Napoleon.[1][4] Nó đã phục vụ cho đến khi chiến tranh kết thúc tại Châu Âu, hoàn trả cho Hoa Kỳ năm 1945, và cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1946.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Những tàu frigate lớp Captain thuộc phân lớp Evarts có chiều dài chung 289 ft 5 in (88,21 m), mạn tàu rộng 35 ft 1 in (10,69 m) và độ sâu mớn nước khi đầy tải là 8 ft 3 in (2,51 m). Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.140 tấn Anh (1.160 t); và lên đến 1.430 tấn Anh (1.450 t) khi đầy tải. Hệ thống động lực bao gồm bốn động cơ diesel General Motors Kiểu 16-278A nối với bốn máy phát điện để vận hành hai trục chân vịt; công suất 6.000 hp (4.500 kW) cho phép đạt được tốc độ tối đa 21 kn (24 mph; 39 km/h), và có dự trữ hành trình 4.150 nmi (4.780 mi; 7.690 km) khi di chuyển ở vận tốc đường trường 12 kn (14 mph; 22 km/h).[2]

Vũ khí trang bị bao gồm ba pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm hoặc phòng không, một khẩu đội 1,1 inch/75 caliber bốn nòng và chín pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và tám máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[2]

DE-522 được đặt lườn tại Xưởng hải quân BostonBoston, Massachusetts vào ngày 14 tháng 8, 1943;[1][2][3] nó được hạ thủy vào ngày 24 tháng 9, 1943.[1][2][3] Con tàu được chuyển giao cho Anh Quốc vào ngày 10 tháng 12, 1943, đồng thời nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia Anh như là chiếc HMS Moorsom (K567) dưới quyền chỉ huy tạm thời của quyền Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Canada Gerald Maurice Greenwood.[3]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Trong quá trình phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh, Moorsom hoạt động trong vai trò chính là hộ tống các đoàn tàu vận tải tại Bắc Đại Tây Dương và biển Bắc Hải từ năm 1944 đến năm 1945. Ngoài ra nó còn hỗ trợ cho cuộc tấn công của Đồng Minh lên miền Bắc nước Pháp trong khuôn khổ cuộc đổ bộ Normandy vào tháng 6, 1944.[1]

Sau khi chiến tranh chấm dứt tại Châu Âu, Moorsom đi đến thành phố New York vào ngày 16 tháng 10, 1945, nơi con tàu được Anh hoàn trả cho Hoa Kỳ vào ngày 25 tháng 10, 1945, nhằm giảm bớt chi phí mà Anh phải trả cho Hoa Kỳ trong Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). USS Moorsom nằm trong thành phần Quân khu 3 Hải quân, nhưng bị bỏ không cho đến khi tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 5 tháng 12, 1945. Con tàu bị bán để tháo dỡ vào ngày 12 tháng 7, 1946.[1][2]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n Moorsom. Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command. ngày 24 tháng 6 năm 2015.
  2. ^ a b c d e f g h i j k l m “DE 522 HMS Moorsom (K-567)”. NavSource.org. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2021.
  3. ^ a b c d e f g h Helgason, Guðmundur. “HMS Moorsom (K 567)”. uboat.net. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2021.
  4. ^ a b “HMS Moorsom K567 (DE 522)”. Captain Class Frigate Association. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2021.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]