Bước tới nội dung

Phim mì ăn liền

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Phim mì ăn liền (tiếng Anh: Instant-noodles films) là một khẩu ngữ thông dụng để mô tả dòng phim thương mạiViệt Nam giai đoạn đầu thập niên 1990. Những bộ phim này hầu hết dùng chất liệu băng từ, phần lớn sản xuất tại miền Nam và nắm vai trò thống lĩnh thị trường phim toàn Việt Nam trong thời kì vài năm. Tuy nhiên, thoái trào trầm trọng đúng lúc chương trình Chấn hưng điện ảnh cấp nhà nước được triển khai là bằng chứng cho thấy, điện ảnh Việt Nam còn thụ động trước các trào lưu nghệ thuậtthương mại quốc tế[1].

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Cuối thập niên 1980 đầu thập niên 1990, điện ảnh Việt Nam rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Những năm trước, trong thời kỳ bao cấp, các hãng phim được nhà nước cấp kinh phí để sản xuất phim, khâu phát hành phim do cơ quan khác quản lý. Đây là một trong những lý do làm giảm chất lượng phim.

Thời kỳ này, việc cắt giảm ngân sách của Nhà nước làm cho điện ảnh không đủ kinh phí để sản xuất phim. Việc phân cấp các rạp và đội chiếu bóng về cho tỉnh, thành và quận, huyện được từ đầu thập niên 1980, tới thời gian này được thực hiện triệt để. Nhà nước bắt đầu xóa bỏ bao cấp dành cho điện ảnh, chuyển từ chế độ bao cấp sang chế độ hạch toán kinh tế, có sự tài trợ một phần của Nhà nước. Các máy móc thiết bị làm phim đã cũ kỹ, tiền của Nhà nước đầu tư cho điện ảnh cũng bị thất thoát.

Trong khi đó số bộ phim màn ảnh rộng được sản xuất rất ít và không hấp dẫn được khán giả, thì lượng máy chiếu phim video trên tivi nhập vào Việt Nam tăng nhanh, phim video đơn giản, không đòi hỏi đầu tư lớn nên nhiều hãng phim quay sang sử dụng chất liệu này. Với đặc điểm của phim video, các phim mì ăn liền được sản xuất trong một thời gian chóng vánh để thu hồi vốn. Dòng phim này đã tạo nên một thế hệ minh tinh điện ảnh mới như Lý Hùng,[2] Diễm Hương, Việt Trinh, Lê Công Tuấn Anh, Lê Tuấn Anh, Thái San, Y Phụng, Công Hậu, Thu Hà, Mộng Vân, Giáng My...[3]

1990 - 1993

[sửa | sửa mã nguồn]

Giai đoạn sơ khởi, số lượng phim điện ảnh được sản xuất giảm đáng kể, số lượng rạp chiếu phim cũng giảm bớt, nhiều rạp chiếu phim bị phá bỏ, hoặc chuyển sang kinh doanh lĩnh vực khác, biến thành vũ trường.

Vị đắng tình yêu,[4][5] được Hãng phim Giải Phóng sản xuất năm 1991 trình chiếu năm 1992, do Lê Hoàng đạo diễn với các diễn viên Thủy Tiên, Lê Công Tuấn Anh, Lê Cung Bắc, Y Phụng, Phước Sang... Vai Quang "Don Quixote" là vai diễn dấu ấn của Lê Công Tuấn Anh. Tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 10 năm 1993, Vị đắng tình yêu đã giành nhiều giải quan trọng: Bông sen vàng, Đạo diễn xuất sắc, Nam diễn viên chính xuất sắc. Đây được xem là một bộ phim vừa thành công về doanh thu lẫn nghệ thuật. Phạm Công - Cúc HoaVị đắng tình yêu thành công vang dội cả nghệ thuật lẫn doanh thu đã gây động lực cho tham vọng "sống dậy" của giới điện ảnh Việt Nam.

Năm 1993, chương trình Chấn hưng điện ảnh cấp Nhà nước[6] được chính phủ Việt Nam tạm thời thông qua. Đến năm 1995, Thủ tướng Chính phủ ký Nghị định 48/CP Tổ chức và hoạt động điện ảnh, cùng với chương trình Mục tiêu về điện ảnh được rót kinh phí 265 tỉ đồng để điện ảnh Việt có cơ hội thăng hoa, tuy nhiên càng về sau ngân sách đổ vào càng cao, do cả nhà nước và tư nhân đóng góp với kì vọng thúc đẩy điện ảnh Việt Nam tiến nhanh ra thị trường quốc tế, nếu có cơ hội thì vượt qua cái bóng điện ảnh Hồng Kông bấy giờ đang thống trị châu Á[7].

1994 - 1996

[sửa | sửa mã nguồn]

Sang giai đoạn kế, các nhà làm phim đua nhau khai thác đề tài dã sử võ hiệp như Thạch Sanh - Lý Thông, Tráng sĩ Bồ Đề, Thăng Long đệ nhất kiếm, Lửa cháy thành Đại La... phỏng theo dòng phim chưởng Hồng Kông Đài Loan, hấp dẫn hàng triệu lượt khán giả chen chân tới rạp. Những phim thời này được quảng cáo rất giản đơn, đôi khi chỉ bằng hình ảnh các tờ rơi hoặc bằng xe chở loa phát thanh chạy trên đường và trong hẻm thành thị.

Thời kì này gắn với giai đoạn thăng hoa đỉnh thịnh của văn hóa giải trí Hồng KôngĐài Loan, nên xu hướng điện ảnh Việt Nam có sự cố gắng sao phỏng những thói quen tiếp cận thể tài của hai nền điện ảnh lớn này. Đương đại, một số minh tinh như Lý Hùng, Hoàng Phúc, Đơn Dương, Giáng My, Lý Hương, Ngọc Hiệp, Lê Tuấn Anh, Nguyễn Quang Hải thường xuất hiện trong các sản phẩm điện ảnh hợp tác với Hồng Kông, Mỹ, Pháp.

1997 - 1999

[sửa | sửa mã nguồn]

Thời kỳ cuối cùng, cũng là giai đoạn phát triển mãnh liệt nhất, các phim mì ăn liền khai thác những truyện tình bi lụy như Sau những giấc mơ hồng[8], Em không dối lừa, Sau cơn mưa trời lại sáng, Tóc gió thôi bay, Sao em vội lấy chồng... Đương thời xuất hiện một quan điểm về phim chiếu rạp: Mua vé xem phim có hai loại "để suy nghĩ" và "để quên đi những điều đang suy nghĩ"[9].

Đây cũng là giai đoạn điện ảnh Việt Nam tích cực hợp tác với điện ảnh ngoại quốc một cách trực tiếp nhất, thay vì chỉ đóng vai trò phụ trợ trang thiết bị và diễn viên quần chúng như trước. Chủ yếu các đối tác là Hồng Kông, Đài LoanTrung Quốc. Đề tài thường nặng xu hướng du đãng võ hiệp, khai thác yếu tố bần cùng trong xã hội thành thị, duy một số ít phim hợp tác với điện ảnh Hoa lục thì khai thác giá trị nhân văn trong số phận con người sau chiến tranh biên giới.

Tuy nhiên, dần dà, các phim mì ăn liền bị đánh giá là kém thuyết phục về mặt nghệ thuật, chạy đua theo lợi nhuận. Từ "mì ăn liền" được hiểu với nghĩa phim sản xuất nhanh và ít đầu tư[10]. Hầu hết minh tinh của dòng phim mì ăn liền ít nhiều còn tham dự các trào lưu điện ảnh sau.

Kĩ thuật

[sửa | sửa mã nguồn]

Đơn vị

[sửa | sửa mã nguồn]

Chuyên viên

[sửa | sửa mã nguồn]

Nghệ sĩ

[sửa | sửa mã nguồn]

Xuất phẩm

[sửa | sửa mã nguồn]

Phê bình

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Nguyễn Minh Ngọc (kí giả, tác giả sách Ba lô trên thảm đỏ): "Mì ăn liền là một món dễ ăn, thậm chí nhiều người cho là ngon, nhưng ít chất. Phim mì ăn liền cũng có những đặc điểm tương tự. Đó là dòng phim thương mại có câu chuyện đơn giản dễ xem, nhạc hay, diễn viên đẹp. Khai thác đủ đề tài về tình yêu, dã sử, kinh dị... những bộ phim ấy chủ yếu được sản xuất theo hình thức video trong thời gian ngắn và ít tốn kém. Mỗi phim chỉ tốn khoảng 150 triệu -200 triệu đồng, tức là bằng một nửa kinh phí sản xuất phim nhựa".
  • Đỗ Quốc Trung (đạo diễn điện ảnh): "Nhìn lại thời kỳ này có nhiều phim hay, được nhiều người yêu thích và dòng phim giải trí đã có chỗ đứng trong lịch sử điện ảnh Việt. Điển hình là năm 1993, phim 'Vị đắng tình yêu' giành giải Bông sen Vàng ở hạng mục Phim hay nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất và Nam diễn viên chính xuất sắc - Lê Công Tuấn Anh. Và điều đặc biệt nữa là thời kỳ này, chúng ta cũng có những ngôi sao điện ảnh thực thụ như Lý Hùng, Diễm Hương, Lê Tuấn Anh, Việt Trinh, Lê Công Tuấn Anh, Y Phụng, Thu Hà... Họ diễn xuất tự nhiên chân thực, lấy được cảm xúc khán giả và thực sự là những ngôi sao điện ảnh mà cho tới bây giờ cũng khó có được diễn viên nào được mến mộ đến như vậy".
  • Thu Hà (diễn viên): "Chúng tôi là những diễn viên được khán giả yêu mến vô cùng. Đến tận bây giờ, tôi vẫn không thể nào quên những kỷ niệm cũ, khi chúng tôi đi quay phim và được khán giả săn đón cuồng nhiệt. Lần nào, chúng tôi cũng phải tránh cửa chính của khách sạn khi ra vào nhưng cũng không thoát. Có lần, anh Lý Hùng còn bị khán giả gần như lột sạch cả áo trên người để làm kỷ niệm. Nổi tiếng khi đó có đi kèm một chút phiền toái nhưng thực sự đó là niềm hạnh phúc khó tả mà bất cứ diễn viên nào cũng mong muốn được trải qua".

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Tài liệu

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Phim Việt Nam chưa đạt tiêu chí của... chợ ?[liên kết hỏng]
  2. ^ Lý Hùng kể về thời vàng son cùng phim thị trường
  3. ^ Chuyện đời ít biết của Thu Hà "Lá ngọc cành vàng" - VietnamNet // 17.7.2014, 05:00 (GMT+7)
  4. ^ "Vị đắng tình yêu" và ký ức thời kỳ phim mì ăn liền
  5. ^ Ngày ấy - bây giờ của dàn diễn viên phim "Vị đắng tình yêu"
  6. ^ Điện ảnh Việt từng có những cuộc chấn hưng kém hiệu quả
  7. ^ Chấn hưng điện ảnh Việt Nam: Chỉ là giấc mơ ?
  8. ^ Sau những giấc mơ hồng : Bộ phim mì ăn liền đình đám
  9. ^ Một thời ăn nên làm ra của điện ảnh Việt Nam[liên kết hỏng]
  10. ^ Lý Hùng, Lê Tuấn Anh giờ ra sao ? - VietNamNet // 09.01.2014, 17:52 (GMT+7)
  11. ^ Để cười từ nhà ra phố
  12. ^ Vẻ điển trai của các tài tử Việt một thời
  13. ^ Công Hậu kể chuyện làm phim "mì ăn liền" với Lý Hùng
  14. ^ Vì sao diễn viên từng làm điên đảo dòng phim mì ăn liền vắng bóng - VietnamNet // 17.07.2014, 16:10 (GMT+7)
  15. ^ Diễm My - nhan sắc ngày ấy và bây giờ - Ngôi Sao // Thứ Bảy, 04.05.2013, 11:48 (GMT+7)
  16. ^ Mặc áo dài phải như Diễm Hương, Việt Trinh, Diễm My - VietnamNet // Thứ Bảy, 13.02.2016, 09:51:32 (GMT+7)
  17. ^ Ngỡ ngàng nhan sắc NSND Hồng Vân 24 năm trước
  18. ^ Sức hút mãnh liệt của Việt Trinh và cái giá đắt của sự ngạo mạn
  19. ^ Ngày ấy - bây giờ của "Sở Khanh" điển trai Lê Tuấn Anh
  20. ^ Chuyện ít biết về "hoàng tử phim Việt" biến mất khỏi showbiz tuổi 24 - VietnamNet // Thứ Năm, 03.12.2015, 03:00 (GMT+7)
  21. ^ Cuộc đời biến động của mĩ nhân phim "mì ăn liền" Mộng Vân
  22. ^ Cô diễn viên giỏi võ thuật nhất màn ảnh Việt[liên kết hỏng]
  23. ^ Đời riêng lận dận của "quả bom sex" Thanh Lan - VietnamNet // 22.08.2015, 03:15 (GMT+7)
  24. ^ Ngựa hoang mỏi gối

Tư liệu

[sửa | sửa mã nguồn]