Thành viên:Veritusvn/Jacques Derrida

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Veritusvn/Jacques Derrida

Catégorie:Article utilisant l'infobox Philosophe Catégorie:Article utilisant une Infobox Jacques Derrida (tên thật là Jackie Derrida) là một triết gia người Pháp sinh ngày 15/7/1930 tại El Biar (thuộc Algerie - thời kỳ vẫn là thuộc địa của Pháp) và mất ngày 9/10/2004 tại Paris.

Ông là giáo sư tại Trường sư phạm Paris (École Normale Supérieure_ENS) từ năm 1965 đến năm 1984, và sau là giám đốc nghiên cứu tai Trường nghiên cứu cao cấp về khoa học xã hội Pháp (École des Hautes Etudes en Sciences Sociales). Ông thành lập và phát triển trường phái tư tưởng xung quanh thuyết giải cấu trúc (déconstructionnisme). Cùng dòng với Heidegger, Derrida chất vấn lại về hiện tượng họcsiêu hình học truyền thống và đưa ra một cách tư duy mới về khoa học nhân văn.

Xuất phát điểm cho công trình của ông là một phê bình về ngôn ngữ học và về vị trí thống soát của nó trong lĩnh vực khoa học nhân văn. Trong tác phẩm De la Gramatologie (1967) của mình, Derrida chỉ ra rằng mô hình ngôn ngữ học thống trị lúc bấy giờ đặt trên một mâu thuẫn: ngôn ngữ được tạo thành bởi ngôn ngữ nói, với chữ viết là phiên âm cho nó. Do đó, ngôn ngữ thật sự (ngôn ngữ gốc) là ngôn ngữ nói. Nhưng ngôn ngữ học đặt trọng tâm vào ngôn ngữ viết để cấu trúc ngôn ngữ, nên là nguồn gốc của ngôn ngữ viết là ngôn ngữ nói, nhưng nguồn gốc của ngôn ngữ nói lại là ngôn ngữ viết. Derrida ở đây đã chuyển vị câu hỏi về nguồn gốc vốn của Edmund Husserl trong Nguồn gốc Hình học (L'Origine de la géométrie - 1954) [1] vào trong lĩnh vực ngôn ngữ học và đưa ra khái niệm "sự bổ sung nguyên thủy" (supplément originaire) hoặc đơn giản là "sự bổ sung" (supplément).

Mâu thuẫn về nguồn gốc này, được đặt ra trước hết ở cấp độ ngôn ngữ giữa lời nói và chữ viết, sẽ tiếp tục gây ảnh hưỡng trong tất cả các lĩnh vực mà Derrida nghiên cứu: hướng đến cấu trúc của một văn bản và sự bổ sung (supplément) nguyên thủy của văn bản đó, [2] giống như ngôn ngữ mà trong đó nó được viết ra, hướng tới nguyên tắc nền tảng và cái chết của một ý hệ (idéologie), hướng tới mang đến cái chết và chấp nhận trách nhiệm (sự an tử - euthanasia), hướng tới sự đối lập giữa sự chào đón và thù địch, tới câu hỏi mang tính chính trị về sự áp đặt các chuẩn mực mang tính giới.

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Thời thơ ấu ở Algeria[sửa | sửa mã nguồn]

Jacques Derrida là con trai thứ ba của Aimé Derrida và Georgette Sultana Esther Safar [3], Aimé là một người Do Thái gốc Sephardic. Georgette đến từ một gia đình Do TháiAlgeria mà tổ tiên của họ, định cư từ nhiều thế hệ trên đất nước này, đã nhận quốc tịch Pháp khi có sắc lệnh Crémieux (décret Crémieux) ban hành năm 1870. Jacques Derrida là anh em họ của nhà vật lý học Bernard Derrida.

Ông lớn lên ở Algeria (thời kì thuộc Pháp) và phải tuân theo bộ luật của chính phủ Vichy vào năm 1940, theo đó gia đình ông bị tước quốc tịch Pháp trong hai năm. Từ năm 1935 đến 1941, ông học mẫu giáo và tiểu học tại El-Biar. Thời đó, những đứa trẻ phải thể hiện sự gắn bó của mình với Quốc trưởng (Maréchal) theo nhiều cách. Derrida, do là một người Do Thái, phải để người đứng thứ hai trong lớp đứng vào vị trí giơ cờ của mình. Anh trai và em gái của ông đã bị đuổi học vì lý do tương tự.[4] Năm 1941, chính ông cũng bị đuổi khỏi trường trung học Ben Aknoun và ông đã đăng ký học tại trường trung học Émile-Maupas cho đến năm 1943. Nhưng ông không thể chịu được bầu không khí cộng đồng ở đây. Ông trở lại trường trung học Ben Aknoun vào năm 1944.

Như vậy, Derrida đã trải qua một đời học sinh đầy biến cố. Ông coi những người thành phố (les métropolitains) như những kẻ áp bức và đánh giá (oppresseurs et normatifs), những kẻ áp đặt chuẩn mực và áp đặt đạo đức (normalisateurs et moralisateurs). Ưa vận động, ông tham gia vào nhiều cuộc thi thể thao và ước mơ trở thành một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp. Vào thời gian này, ông cũng tìm hiểu một số nhà văn và triết gia như Jean-Jacques Rousseau, Friedrich Nietzsche, André GideAlbert Camus, và bắt đầu viết nhật ký. Năm 1947-1948, trong lớp triết học tại trường trung học phổ thông Gautier ở Algiers, ông đã đọc BergsonSartre. Năm 1948, học văn học cao cấp tại trường trung học phổ thông Bugeaud, việc đọc Kierkegaard và Heidegger để lại ấn tượng đối với ông. [5]

Những năm được đào tạo tại Pháp[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1949, ông chuyển đến Paris và theo học dự bị đại học (première supérieure) tại trường Lycée Louis-le-Grand. Ở đó, ông kết bạn với Pierre Bourdieu, Lucien Bianco, Michel Deguy và Louis Marin.

Giáo viên triết học của ông, Étienne Borne, nhận thấy rằng các bài luận của ông mang tính chất của Plotin (plotiniennes). Sau hai lần thất bại, năm 1952, ông vào được Trường Sư phạm Paris (École Normale Supérieure de Paris- ENS). Tại đây, ông gặp Louis Althusser, khi đó là trợ giảng (agrégé-préparateur). Derrida tham gia tích cực vào các nhóm cực tả mà không chia sẻ lý tưởng về chủ nghĩa cộng sản.

Sau khi lấy bằng cử nhân văn chương (licence en lettres) tại khoa văn học Paris, vào các năm 1953-1954, ông đến Khu lưu trữ về Husserl (Archives Husserl) tại Louvain. Ông lấy bằng cao học triết học với luận án về Vấn đề nguồn gốc trong triết học của Husserl (Le problème de la genèse dans la philosophie de Husserl) [6], mang ảnh hưởng từ các công trình của Jean Hyppolite, Trần Đức Thảo và Jean Cavaillès. Ông theo học các khóa học của Michel Foucault.

Đạt hạng mười bốn trong cuộc thi công chức giáo dục (concours d'agrégation) ngành triết học [của Pháp .ND] năm 1956 [7] sau thất bại vào năm trước đó (1955), ông đến Đại học Harvard với tư cách một special auditor.

Ông bắt đầu dịch và giới thiệu Nguồn gốc của hình học (L'Origine de la géométrie) của Husserl. Tháng sáu năm 1957, ông kết hôn với Marguerite Aucouturier, nhà phân tâm học ông gặp năm 1953 thông qua người anh trai lúc đó đang học cùng ông tại Trường Sư Phạm (ENS).

Ông thực hiện nghĩa vụ quân sự từ năm 1957 đến năm 1959 (trong chiến tranh Algeria), trong tư cách là giáo viên trong một trường học dành cho trẻ em của quân đội gần Alger. Ông thường gặp Pierre Bourdieu ở Algiers. Ông lên án chính sách thuộc địa của Pháp và mơ đến một hình thức độc lập cho Algeria, nơi người Algeria và người Pháp của Algeria [8] cùng chung sống.

Năm 1959, Derrida được phân về dạy lớp văn học cấp cao (lettres supérieures) tại trường trung học phổ thông Montesquieu ở Le Mans và được mời tham dự vào thập kỷ đầu tiên của Cerisy-la-Salle (chuỗi hội thảo mà ông đã được mời bốn lần). Ông có chuyến đi đầu tiên đến Praha để thăm gia đình vợ.

Năm sau đó, ông trở thành trợ giảng tại Khoa văn học Paris (Faculté des lettres de Paris). Ông giảng dạy tại đó cho đến năm 1964 ("triết học tổng quan và logic" - philosophie générale et logique). Ông xuất bản [các bài báo hay các công trình nghiên cứu (?) .ND] trên các tạp chí Phê bình (Critique)Tel Quel (nơi đóng góp đầu tiên của ông là từ năm 1965), kết bạn với Philippe Sollers và thường xuyên lui tới Robert Antelme, Pierre Boulez, Jean Genet, Pierre Klossowski, Francis Ponge và Nathalie Sarraute. Năm 1968, ông gặp nhà triết học Sarah Kofman, người mà ông đã phát triển một (une collection) (mà Philippe Lacoue-Labarthe và Jean-Luc Nancy cũng có đóng góp) và thành lập Greph (Nhóm Nghiên cứu về Giáo dục Triết học).

Năm 1963, con trai đầu lòng của ông với Marguerite Aucouturier, tên Pierre, ra đời. Cùng năm đó, ông đã chủ trì một hội thảo về Michel Foucault tại Trường Triết học (Collège philosophique), với sự hiện diện của ông [Foucault .ND], nơi ông phê phán cuốn sách về sự điên rồ của Foucault dưới góc nhìn của Descartes [9] . Ông gặp Hélène Cixous, người mà ông sẽ duy trì một tình bạn lâu dài và chia sẻ nhiều hoạt động khác nhau cả về chính trị lẫn trí tuệ, chẳng hạn như những [hoạt động .ND] khởi đầu cho Đại học Paris-VIII, Trung tâm quốc gia về văn học [của Pháp .ND] (Centre national des lettres) (ngày nay là Trung tâm quốc gia về sách [của Pháp .ND] (Centre national du livre) - 1981-1983 -, Nghị viện Quốc tế của các nhà văn, Ủy ban chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, hay những hội thảo tại Trường Triết học Quốc tế (Collège international de philosophie). Họ cùng xuất bản một số ấn phẩm chung hoặc liên kết, chẳng hạn như Voiles, với các bức vẽ của Ernest Pignon-Ernest, (Galilée, 1998), Chân dung Jacques Derrida như một vị thánh Do Thái trẻ tuổi (Portrait de Jacques Derrida en jeune saint juif - Galilée, 2001), HC pour la vie, c’est-à-dire… (Galilée, 2002). Năm 1964, ông nhận được giải thưởng về nhận thức luận (giải thưởng Jean Cavaillès) cho bản dịch và chú giải Nguồn gốc Hình học của Edmund Husserl. [10] Sau đó, ông được bổ nhiệm làm giảng viên (maître-assistant) lịch sử triết học tại Trường Sư phạm Paris (ENS) theo lời đề nghị của Althusser và Jean Hyppolite [11]. Ông giữ chức vụ này trong hai mươi năm.

Những thành công đầu tiên và sự phát minh ra "giải cấu trúc" (déconstruction)[sửa | sửa mã nguồn]

  • Năm 1967, ông có một bài giảng tại Société française de Philosophie về sự khcá biệt [sic] và xuất bản ba cuốn sách quan trọng đầu tiên của mình: Về ngữ pháp, Chữ viết và sự khác biệt, Giọng nói và hiện tượng (De la grammatologie, L'écriture et la différence, La voix et le phénomène). Ông thường kề vai sát cánh với Edmond Jabès, Gabriel Bounoure và Maurice Blanchot và dần dần kết nối với Jean-Luc Nancy, Philippe Lacoue-Labarthe và Sarah Kofman. Nhà xuất bản Galilée được thành lập vào thời gian này và trở thành nơi phát ngôn cho giải cấu trúc. Năm 1967, con trai thứ hai của ông, Jean, chào đời. Derrida và gia đình định cư ở Ris-Orangis .
  • Derrida tham gia các cuộc diễu hành vào tháng 5 năm 1968 và tổ chức đại hội đồng đầu tiên tại Trường sư phạm Paris. Ông được chào đón nồng nhiệt tại Hoa Kỳ. Ông giảng dạy tại nhiều trường đại học tại đây khi công việc của ông gặp phải sự phản đối mạnh mẽ ở Pháp [12] .
  • Năm 1970, cha ông, Aimé, qua đời vì bệnh ung thư ở tuổi 74.
  • Năm 1971, sau chín năm vắng bóng, ông trở lại Algeria để giảng dạy và hội thảo.
  • Năm 1974, ông thành lập Nhóm Nghiên cứu về Giáo dục Đại học Triết học và cam kết chống lại Luật Haby .
  • Năm 1977, ông ký Đơn thỉnh cầu của Pháp chống lại đa số giới tính gửi tới Quốc hội, kêu gọi bãi bỏ một số điều khoản của Bộ luật Hình sự về đa số giới tính và loại bỏ tất cả các quan hệ đồng thuận giữa người lớn và trẻ vị thành niên dưới mười lăm tuổi (đa số tình dục ở Pháp) với René Scherer, Gabriel Matzneff, Tony Duvert, Louis Althusser, Jean-Paul SartreSimone de Beauvoir, André Glucksmann, Roland Barthes, Guy Hocquenghem, Jean Danet, Alain Robbe-Grillet, Philippe Sollers và Françoise Dolto .
  • Năm 1978, Jacques Derrida dạy Trạng thái tổng quan của triết học tại Sorbonne. Ông tham gia ngày một nhiều hơn vào các hoạt động chính trị, lĩnh vực mà ông dường như đã tránh xa trong hoạt động nghề nghiệp của mình (ông vẫn ở ẩn từ các sự kiện của tháng 5 năm 1968) [13]. Cũng vậy, ông ủng hộ sự nghiệp dân chủ ở Nam Phi suốt cuộc đời mình. Một trong những văn bản cuối cùng của ông, in articulo mortis, được dành cho chủ đề hòa giải (Ủy ban Sự thật và Hòa giải - Commission de la vérité et de la réconciliation).
  • Năm 1980, Derrida bảo vệ luận án[14] tiến sĩ cấp Nhà nước tại Đại học Paris-I trên cơ sở tập hợp các công trình cũ từ những năm 1967 đến 1972 [15] với mục đích ứng tuyển vị trí giáo sư tại Đại học Paris-Nanterre, vốn đang bị bỏ trống bởi sự ra đi của Paul Ricœur. Tuy nhiên, bộ trưởng Alice Saunier-Séïté đã bãi bỏ vị trí này.
  • Năm 1981, ông cùng với Jean-Pierre Vernant thành lập hiệp hội Jean-Hus, tổ chức hỗ trợ các trí thức bất đồng chính kiến người Séc. Ông bị bắt và bị giam trong một thời gian ngắn ở Praha khi kết thúc một cuộc hội thảo được tổ chức bí mật. François Mitterrand đã can thiệp để trả tự do cho ông.

Triết gia nổi tiếng thế giới[sửa | sửa mã nguồn]

Ông thành lập Trường cao đẳng quốc tế về triết học (Collège international de philosophie) vào năm 1983 cùng với François Chatelet, Jean Pierre Faye và Dominique Lecourt.

Năm 1984, vẫn là một giảng viên, ông trở thành Giám đốc nghiên cứu của Trường nghiên cứu cao cấp về khoa học xã hội (École des hautes études en sciences sociales)

Năm 1984, con trai thứ ba của ông, Daniel Agacinski, được sinh ra từ mối quan hệ ngoài giá thú với Sylviane Agacinski.

Ông trở thành Giáo sư ưu tú (Distinguished Professor) về triết học, tiếng Pháp và văn học so sánh tại Đại học California ở Irvine (Hoa Kỳ) từ năm 1986.

Ngày 5 tháng 12 năm 1991, mẹ ông mất. Những tháng cuối đời của bà đã truyền cảm hứng cho Derrida viết một bản tự truyện xen lẫn những hồi tưởng theo phong cách Augustinô: Circumfession [16]. Cùng năm đó, Pierre Bourdieu và Yves Bonnefoy đã nỗ lực để Derrida được bầu vào Collège de France, nhưng việc ứng cử của ông vấp phải một làn sóng phản đối kịch liệt và bị từ chối [17] .

Năm 1993, ông xuất bản Specters of Marx, đôi khi được xem là một bước trong quá trình chính trị hóa của ông. [18]

Năm 1995, Derrida là thành viên của ủy ban hỗ trợ tranh cử tổng thống của Lionel Jospin. Ông từ chối trở lại vào năm 2002 chủ yếu do không đồng ý với chính sách về nhập cư của chính phủ xã hội chủ nghĩa.

Năm 2002, Derrida và René Scherer ủng hộ Pierre Bourdieu trong cuộc tranh luận về vấn đề hiếu khách.

Từ năm 2003, do mắc ung thư tuyến tụy, Jacques Derrida đã giảm đáng kể các hoạt động của mình. Ông mất ngày 9/10/2004 tại một bệnh viện quận 5 Paris[19], ở tuổi 74. Ông được được an táng tại nghĩa trang Ris-Orangis.

Triết học[sửa | sửa mã nguồn]

"Différance" (Sự khcá biệt)[sửa | sửa mã nguồn]

[différance là cách viết "trại" đi của différence - sự khác biệt, ở đây người dịch sử dụng cách chơi chữ tương tự trong tiếng Việt, sự kh biệt .ND]

Derrida nhắc đến "sự khcá biệt" lần đầu tiên là ở trong một hội nghị mang tên "Sáng tạo và cấu trúc" và hiện tượng học (Genèse et structure" et la phénoménologie) [20], tổ chức tại Cerisy-la-Salle năm 1959 [21]; nó trở thành tên và đối tượng cho một bài thuyết trình của ông ngày 27 tháng giêng, 1968 [22], và được đăng trên Théorie d'ensemble (Lý thuyết tổng quan) [23]Marges de la Philosophie (Những lề lối của Triết học?) [24] .

Bản thân sự khcá biệt không phải là một khái niệm, nó là một sự can thiệp về cách viết nhằm tạo nên một sắc thái (une nuance?) mà ta có thể "viết hay đọc được, nhưng [...] không [nói hay .ND] nghe được." (s'écrit ou se lit, mais [...] ne s'entend pas) [24] (tr.4). Với Derrida, nó là phương tiện để thăm dò mối quan hệ giữa ý nghĩa (le sens) và chữ viết (l'écriture) [24] (tr.4). "Không có chữ viết được phiên âm [một cách .ND] thuần nhất và chặt chẽ" [24] (tr.5).

Bên dưới tất cả cái gọi là chữ viết phiên âm,



Nói cách khác, đã có sẵn chữ viết bên trong lời nói.


sự đối lập giữa chữ viết và lời nói




tuyên bố có thể nói ý nghĩa một cách lý tưởng và do đó có thể nói mà không cần viết theo nghĩa thông thường, cái sau luôn bị siêu hình học phân biệt, có một trò chơi thầm lặng (do đó không phải ngữ âm) của sự khác biệt (đối với khoảng cách-thời lượng) mà đã được làm việc trên nó. Nói cách khác, đã có chữ viết rồi. Do đó, đối với Derrida, việc đổi mới sự đối lập giữa chữ viết và lời nói sẽ không còn là vấn đề nữa mà chỉ ra rằng cái thứ hai bao gồm (trong khi kìm nén nó) cái thứ nhất.

Derrida chỉ ra rằng động từ khác nói cũng như không đồng nhất với trì hoãn . ; mặt khác, danh từ dẫn xuất, sự khác biệt, không mang nghĩa thứ hai này. Do đó, sự khác biệt, đề xuất Derrida nên bù đắp cho sự mất ý nghĩa này » [24] ( tr. 8 ), a " đến ngay lập tức từ phân từ hiện tại (khác biệt) và đưa chúng ta đến gần hơn với hành động khác biệt đang diễn ra, ngay cả trước khi nó tạo ra một hiệu ứng được cấu thành là khác biệt hoặc khác biệt. » [24] ( tr. 8-9 ). Derrida chỉ ra rằng bằng tiếng Pháp, kết thúc bằng ance " vẫn chưa quyết định giữa chủ động và thụ động » [24] ( tr. 9 ) và do đó gợi lại hai mô-típ mà Saussure coi là không thể tách rời và tương quan với nhau. : tính tùy tiện của dấu hiệuđặc tính khác biệt của nó. " Có thể có sự tùy tiện chỉ vì hệ thống các dấu hiệu được cấu thành bởi sự khác biệt, không phải bởi sự đầy đủ của các thuật ngữ. » [24] ( tr. 11 ). Ý nghĩa chỉ được công bố từ hoạt động của một mạng lưới đối lập và phân biệt ; đó là để nói về sự khác biệt không có điều khoản tích cực » [24] ( tr. 11 ). Từ không phải là hạt nhân nhỏ gọn. Kết quả là, " khái niệm được biểu thị không bao giờ hiện diện trong chính nó, trong một sự hiện diện đầy đủ mà sẽ chỉ đề cập đến chính nó. » [24] ( tr. 11 ). Bất kỳ khái niệm nào cũng nhất thiết phải là một phần của một chuỗi, trong một trò chơi của sự khác biệt. Sự khác biệt là " chuyển động của trò chơi "tạo ra" [...] những khác biệt này, những tác động của sự khác biệt này » [24] ( tr. 12 ).

Differance là chuyển động. người sản xuất "sự khác biệt : cô ấy là quy trình bằng cách đó các ký hiệu được thay thế bằng quảng cáo nội bộ, dẫn đến nhu cầu về một lý tưởng mang ý nghĩa của nó cho ngôn ngữ[cần dẫn nguồn] .

Cùng thời với chủ nghĩa cấu trúc,


Ferdinand de Saussure (Giáo trình ngôn ngữ học đại cương - Cours de linguistique générale)


mang nghĩa đến cho các yếu tố

sự lặp lại của dấu vết (trace(?) bền vững của thiết chế của một cái được biểu thị (un signifié), như là sự vắng mặt (absence) ở trung tâm của sự hiện diện (présence). Do đó, "dấu vết" không cho phép [cái gì? .ND] tìm về bất cứ nguồn gốc nào: các khái niệm khác nhau,

bất chấp sự đối lập rõ ràng: không hề có một sự thật nguyên thủy ngoại tại (vérité première externe) bởi lẽ

không hề có một sự khác biệt siêu việt (différence transcendantale) để theo đuổi.


Một người cùng thời với chủ nghĩa cấu trúc, Derrida đã nghĩ lại sự khác biệt mà trong Ferdinand de Saussure ( Khóa học về ngôn ngữ học đại cương ), mang lại ý nghĩa cho các yếu tố biểu hiện liên quan đến sự lặp lại dấu vết lâu dài của thể chế của cái được biểu thị, như một sự vắng mặt ở trung tâm của sự hiện diện. Ngoài ra, " dấu vết » [25] không cho phép quay lại bất kỳ nguồn gốc nào : các khái niệm khác nhau, không bao giờ hoàn toàn tự nó và bị vướng vào nhau mặc dù chúng có sự đối lập rõ ràng : không có sự thật chính bên ngoài vì phần bổ sung tạo thành nguồn gốc, không có sự khác biệt siêu việt để theo đuổi[cần dẫn nguồn] .

Nhà triết học Mikel Dufrenne phản đối những suy nghĩ cho phép trải nghiệm sự vắng mặt thuần túy, đặc biệt là Heidegger, Blanchot và Derrida [26] . Chính bằng cách tuyệt đối hóa sự vắng mặt, hoặc bằng cách biến nó trở thành cốt lõi của tất cả những gì chúng ta tin rằng chúng ta thấy nhất quán, triết học tự cho mình là thần học tiêu cực, và do đó dẫn đến sự tái hiện của một hình thức tôn giáo trong triết học. Do đó, sự khác biệt là một "khái niệm không thể khái niệm hóa", thoát ra khỏi tất cả các phạm trù kiến thức nhưng tự tìm đến chính cội nguồn của chúng, theo cách mà Thượng đế của các nhà thần bí hay Đấng duy tân Platon là không thể thực hiện được bởi vì "vượt ra ngoài bản thể".

Giải cấu trúc[sửa | sửa mã nguồn]

Derrida nổi tiếng là một nhà văn khó tính [27], đòi hỏi ở độc giả của mình, kể cả đối với các triết gia. Phong cách của anh ấy dày đặc, anh ấy chơi nhiều trò chơi chữ và thích ám chỉ. Đọc nó, thường khiến người ta bối rối và cần phải đọc lại nhiều lần, để lộ ra những điều mở ra về tương lai của triết học.

Việc ông chất vấn Husserl và rộng hơn là triết học phương Tây đưa ông đến giải cấu trúc phương pháp tiếp cận hiện tượng học:

với ông, chữ viết từ lâu đã bị bỏ quên trong việc phát biểu.

ông tìm kiếm

Sau đó, anh ta tìm kiếm những ẩn ý về phương pháp luận.

Việc này diễn ra ở phần mở đầu cuốn

Nguồn gốc Hình học .

Từ Platon (Phèdre) đến RousseauLévi-Strauss, ông


được coi như là "đời sống"(vie) và "sự hiện diện"(présence)


ấy tố cáo tính ưu việt của lối nói truyền thống, được quan niệm là " sự sống " và " sự có mặt trên văn bản[cần dẫn nguồn] . Ông chỉ định hệ thống siêu hình này là thuyết logocentrism, thậm chí là phallogocentrism [28] . Anh ta " giải cấu trúc do đó, siêu hình học phương Tây, được thành lập trên cơ sở xác định sự hiện diện của nó, bằng cách cập nhật những tiền giả định làm nền tảng cho nó và những aporias mà nó dẫn đến.

Đặc biệt, vấn đề đặt ra là khám phá ra, trong các văn bản của truyền thống, sự khớp nối nhị phân của các khái niệm mà siêu hình học tuyên bố để phân biệt trong sự thuần túy của chúng. :

  • Sự hiện diện (présence) / sự vắng mặt (absence);
  • Hiện tượng (phénomène) / bản chất (essence);
  • ; thông minh / hợp lý, thực tế / xuất hiện ;[cần dẫn nguồn]
  • Nói / viết; tự nhiên (nature) / văn hóa (culture); kỹ xảo / tính xác thực ; nam tính / nữ tính...

Mỗi mặt đối lập này đồng lõa với những mặt đối lập khác và tạo thành một tập hợp các giá trị vượt ra ngoài khuôn khổ triết học. : nhị phân này đúng là chính trị[cần dẫn nguồn] và giảm giá một cách có hệ thống một trong những thuật ngữ, được coi là " Tai nạn »,« ký sinh trùng »,« phân ".

Tuy nhiên, ngôn ngữ, ngay cả bằng lời nói, chỉ biểu thị bằng cách ám chỉ cái chết hoặc sự vắng mặt của người tham chiếu [29] : khả năng lặp lại tạo thành khả năng của dấu hiệu được ghi trên cùng một mặt cắt của nó " gốc », Sự phi văn bản hóa, sự vắng mặt của người nói. Có nghĩa là ở trung tâm của nó đã giả định trước sự vắng mặt của một tham chiếu và ý thức, bởi vì nó mở ra trong khoảng ngăn cách chúng, trong quy ước ngôn ngữ làm cho bất kỳ dấu hiệu theo định nghĩa nào có thể tách rời khỏi ngữ cảnh của nó.

Tuy nhiên, công việc giải cấu trúc giả định không bao giờ tự giải phóng hoàn toàn khỏi những gì nó làm sáng tỏ.[cần dẫn nguồn] : cô ấy làm việc trực tiếp trên các khái niệm, chơi chúng để chơi chúng với chính họ, tìm cách thay thế các đối lập mà không tuyên bố hủy bỏ chúng.

Khao khát hiện diện bao gồm khao khát ý nghĩa (rằng thứ được nhắm đến được đưa ra như vậy trong mục tiêu) là mâu thuẫn, vì ý nghĩa chỉ xuất hiện trong chết người »[cần dẫn nguồn] khả năng lặp lại.

Derrida trải qua một trái tim mờ đục ở trung tâm của lý trí, được xác định là một khiếm khuyết cần thiết và nguyên gốc của sự hiện diện, như một khoảng trống nguyên thủy.

Theo nhà xã hội học người Đức Norbert Elias


, sự giải cấu trúc này chỉ đơn giản là một phân tích phản biện [30] .

Dấu vết[sửa | sửa mã nguồn]

Từ thực tế là trong ngôn ngữ chỉ có sự khác biệt, một trò chơi của sự khác biệt (x. La differance, trong Marges - de la Philosophie, Éditions de Minuit, 1972, ( tr. 11 ), và các thuật ngữ không tích cực, sẽ là “ đầy Derrida đề xuất gọi là dấu vết "cho phép quá trình ý nghĩa hóa, cụ thể là thực tế cho một yếu tố của ngôn ngữ được lưu giữ" trong đó dấu ấn của yếu tố quá khứ »Và rời khỏi« đã tìm hiểu kỹ về mối quan hệ của nó với yếu tố tương lai » [25] ( tr. 13 ).

Minh họa trò chơi của sự khác biệt, dấu vết không phải là sự vắng mặt cũng không phải là sự hiện diện : “ Dấu vết [là] không phải là một sự hiện diện mà là mô phỏng của một sự hiện diện bị lệch lạc, di chuyển, được phản ánh, không diễn ra đúng cách, sự tẩy xóa thuộc về cấu trúc của nó [...] ( tr. 25 ). Hiện tại " trở thành một hàm trong cấu trúc trả về tổng quát ".

Nói một cách tổng quát hơn, khái niệm về dấu vết như Derrida đã xây dựng nó khiến nó có thể tranh chấp theo một cách nào đó ( giải cấu trúc ) thẩm quyền của hiện tại, của ý thức đầy đủ, của cái như vậy (trong đó triết học luôn tin tưởng và dựa trên nó ). được thành lập), thẩm quyền của bản chất, của siêu việt được biểu thị, v.v. ( tr. 27 ).

Phổ biến[sửa | sửa mã nguồn]

Phổ biến là một tiểu luận được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1969 trong bài phê bình Phê bình và sau đó diễn ra ở phần cuối của một tác phẩm mà nó đã đặt tên cho nó, vào năm 1972 tại Éditions du Seuil (Paris), một tác phẩm gồm ba văn bản, đó là hiệu thuốc của Plato., Phiên họp képPhổ biến . Tiểu luận này ( tr. 319-407 ) đặc biệt dựa vào một số văn bản nhất định của Mallarmé và tiểu thuyết của Philippe Sollers ( Drame, Numbers, v.v.) để phát triển một " ý tưởng »Miêu tả, như Derrida nói trong« chuỗi mở của sự khác biệt, về «bổ sung», «văn bản», «gam», « dược phẩm » [. . . ]. Phổ biến có nghĩa là không có gì trong trường hợp cuối cùng và không thể được tập hợp trong một định nghĩa [. . . ]. Nếu chúng ta không thể tóm tắt sự phổ biến, thì sự khác biệt về bản chất, trong nội dung khái niệm của nó, đó là bởi vì sức mạnh và hình thức của sự phá vỡ của nó đã phá vỡ chân trời ngữ nghĩa [31] .

Nói cách khác, phổ biến vượt quá đa nghĩa, bởi vì sau này “ được tổ chức trong chân trời tiềm ẩn của một sự lặp lại nhất thể của ý nghĩa, thậm chí của một phép biện chứng » [31] . " Ngược lại, sự phổ biến, để tạo ra một số lượng không hữu hạn các hiệu ứng ngữ nghĩa, không thể được đưa trở lại hiện tại có nguồn gốc đơn giản [...], hoặc đến một hiện diện cánh chung . Nó đánh dấu một sự đa dạng không thể học được và mang tính tổng quát. » [31] . Phổ biến là trò chơi của thứ ngăn cản việc chính thức hóa mà không còn sót lại ý nghĩa được cho là của một văn bản. Nó là tên của một tốc độ động cơ thừa (và thiếu) » [31] nghĩa của một văn bản (mà chúng ta luôn có xu hướng cho là đã hoàn thành, ngay cả khi có nhiều từ ngữ đa nghĩa ). Phổ biến là thứ làm gián đoạn quá trình tổng : “ chuỗi các giá trị ngữ nghĩa không còn có thể đóng lại hoặc đi cùng nhau » [32] . Thế mới nói, game tán thủ không hứa hẹn sẽ cởi mở hơn " về sự phong phú vô tận của ý nghĩa hoặc về sự siêu việt của sự dư thừa ngữ nghĩa » [32] .

Chúng ta có thể nói về sự phổ biến rằng nó có, rằng nó mang hoặc cho phép một " phê bình về ngữ nghĩa (ngây thơ hay không), a phê bình chuyên đề, một phê bình »Nội dung đơn giản [33] . Người đọc không quen với cách mà Derrida và ilk của ông quan niệm về việc đọc có thể có xu hướng bắt đầu đọc một văn bản với hy vọng tìm thấy trong nó một ý nghĩa sâu sắc (một ngữ nghĩa), một ý nghĩa có thể đến từ "bên ngoài văn bản" - ví dụ sẽ có dạng một ý tưởng thiết yếu - và văn bản sẽ đại diện (ý nghĩa do đó sẽ được "trình bày lại" trong văn bản, nghĩa là được trình bày lần thứ hai). Chúng ta cũng có thể thay thế "ý nghĩa sâu xa" bằng "nội dung" hoặc "chủ đề", phương pháp phê bình mà Derrida mang lại vẫn như cũ: thay vì vận hành theo logic tái tạo hoặc truyền tải một ý tưởng thiết yếu, một chủ đề chung chung hoặc nội dung vĩnh viễn, văn bản vận hành theo một phương thức - phương thức phổ biến - đảm bảo rằng "nội dung được người đọc hiểu" không bao giờ có thể được coi là cuối cùng, tổng thể, v.v. Không phải là những gì người đọc hiểu trong khi đọc là "sai lầm" hay "huyễn hoặc" ^, mà là cách hiểu này là ngẫu nhiên, rằng nó sẽ không giữ nguyên giá trị trong tương lai. Những gì tồn tại và được truyền đi trong việc đọc không phải là một hình thức cố định, mà là một thứ không bao giờ được gò bó, không nằm trong một cấu trúc giới hạn khả năng diễn giải của nó, cũng không phải trong một hệ thống mà mọi cách diễn giải đều bình đẳng, nơi mà mọi ý nghĩa đều trở nên hoàn toàn tương đối.

Derrida đã xuất bản hai tập về chủ đề quyên góp : Donner le temps, do Éditions Galilée xuất bản năm 1991, và Donner la mort, một văn bản được xuất bản lần đầu trong tập L'éthique du don, ed. Métailié Transitions năm 1992, được Galilée in thành tập vào năm 1999. Người ta có thể thêm các bài viết khác gợi lên món quà, cụ thể là Du " vô giá ", ở đâu" đúng giá ” của giao dịch, văn bản đăng trong tập Cách nghĩ về tiền ?, Le Monde Editions 1992.

Được tóm tắt trong một mệnh đề, món quà theo Derrida, để có, và nếu có, thì đó là thứ mà người ta không thể và không được biết, điều này để không có chỗ cho sự chiếm đoạt lại của lòng tự ái. Món quà là những gì phải làm gián đoạn vòng tròn kinh tế của cùng một ( Dành thời gian, op. cit. tr. 174 ) và đây là lý do tại sao cần thiết, ở mức giới hạn, không biết rằng mình đang cho hay mình đang cho cái gì. Do đó, món quà có một mối quan hệ với bí mật. Một đóng góp xứng đáng sẽ là “ một món quà không có mặt ( Để chết, op. cit . tr. 35 ). Derrida sau đó gợi lên " món quà của một cái gì đó vẫn không thể tiếp cận được, do đó không thể trình bày và do đó bí mật. Sự kiện của món quà này sẽ ràng buộc bản chất không có bản chất của món quà với bí mật. Đối với một món quà, người ta có thể nói, nếu nó được biết đến như vậy giữa thanh thiên bạch nhật, thì một món quà được công nhận sẽ ngay lập tức bị hủy bỏ. Món quà chính là bí mật, nếu chúng ta có thể nói chính bí mật đó . Bí mật là lời cuối cùng của món quà là lời cuối cùng của bí mật “.

Trong Donner le temps, Derrida cố gắng xác định mối quan hệ giữa quà tặng, hy sinh và bố thí. : “ Sự hy sinh chỉ cung cấp sự cống hiến của nó dưới hình thức hủy diệt mà nó trao đổi, hy vọng hoặc chiết khấu một khoản lợi nhuận, cụ thể là giá trị thặng dư hoặc ít nhất là sự khấu hao, sự bảo vệ và an ninh. [. . . ] Ngay khi việc bố thí được quy định bởi nghi thức thể chế, thì nó không còn là một món quà thuần túy nữa – nhưng không hoặc nhân từ, hoàn toàn hào phóng. Nó trở thành quy định, lập trình, bắt buộc, nói cách khác là liên kết ( tr. 174-175 ).

Sự kiện[sửa | sửa mã nguồn]

Biến cố dành cho Derrida là điều không thể lường trước. " Sức mạnh hoặc động lực của lưu trữ có thể mở ra tương lai, trải nghiệm về chân trời rộng mở : dự đoán về sự kiện sắp xảy ra và những gì chúng ta có thể giữ lại từ nó bằng cách gọi trước cho nó. Nhưng đồng thời, sự gia tăng này, sự tăng cường dự đoán này cũng có thể hủy bỏ tương lai. Đây là nghịch lý của dự đoán. Dự đoán mở ra tương lai, nhưng đồng thời nó vô hiệu hóa nó, nó giảm bớt, nó hiện diện, nó biến thành ký ức, thành tương lai quá khứ, do đó thành ký ức, những gì được thông báo là sẽ đến vào ngày mai. » [34] .

Trong Apories [35], Derrida cố gắng chứng minh sự không thỏa đáng trong khẳng định của Heidegger rằng chỉ có Dasein mới có mối quan hệ với cái chết như vậy, với cái chết như khả năng của sự bất khả tồn tại. Derrida hỏi ( tr. 125 ) : “ làm thế nào mà một khả năng (sạch nhất) là không thể vẫn có thể xuất hiện như vậy mà không biến mất ngay lập tức, không có cái "như vậy" chìm xuống trước và không có sự biến mất bản chất của nó khiến Dasein mất đi mọi thứ để phân biệt nó [...] của con thú. Và xa hơn một chút ( tr. 132 ) : “ động vật có mối quan hệ rất quan trọng với cái chết [...] ngay cả khi chúng không có mối quan hệ nào với cái chết như vậy và với "tên" của cái chết như vậy. [. . . ] Nhưng người đàn ông, chính xác là ! cũng không phải con người như Dasein [. . . ] » [Cf. cũng là những kết luận mà Derrida rút ra từ đó trong các trang tiếp theo, đặc biệt là trang 134 và 135.

Các nhà phê bình và hậu thế[sửa | sửa mã nguồn]

Hiện tượng học[sửa | sửa mã nguồn]

Derrida đã cống hiến những tác phẩm đầu tiên của mình cho tư tưởng của Husserl : năm 1954, khi vẫn còn là sinh viên triết học tại École Normale Supérieure, ông đã viết luận văn tốt nghiệp " được phép : Vấn đề nguồn gốc trong triết học của Husserl [6] (nhưng sẽ chỉ được xuất bản vào năm 1990, tại PUF ). Năm 1959, ông đã có một bài giảng : “ “Sáng tạo và cấu trúc” và hiện tượng học », Sẽ được đưa vào phần Viết và Sự khác biệt [36] . Năm 1962, ông viết một lời giới thiệu rất dài cho một tác phẩm quá cố của Husserl : Nguồn gốc của Hình học [37] . Năm 1966, ông giới thiệu tư tưởng của Husserl với tựa đề : “Hiện tượng học và sự khép lại của siêu hình học” (văn bản được xuất bản bằng tiếng Hy Lạp, bản dịch của Roxane Argyropoulos), sẽ chỉ được xuất bản bằng tiếng Pháp vào năm 2000 trên tạp chí Alter [38] . Năm 1967, một tập xuất hiện, được dành cho vấn đề về dấu hiệu trong hiện tượng học của Husserl, và được đặt tên là : Tiếng nói và hiện tượng [39], cũng như một bài luận : “Hình thức và ý nghĩa” [40], có phụ đề : “Ghi chú về hiện tượng học của ngôn ngữ”, về chủ đề tương tự, được đưa ra vào năm 1972 trong Marges - de la Philosophie [41] .

làm[sửa | sửa mã nguồn]

Tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Jacques Derrida là tác giả của hơn tám mươi đầu sách.

Ghi chú và tài liệu tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Jacques Derrida (1961). Introduction à L'Origine de la géométrie de Husserl (bằng tiếng Pháp). Paris: PUF. tr. 224. ISBN 2-13-057916-7.
  2. ^ Jay Stevenson (2005). The complete idiot's guide to philosophy, third edition (bằng tiếng anglais). New York: Alpha, a member of Penguin Books Group Inc. tr. p.276-277. ISBN 978-1-59257-361-5. Đã định rõ hơn một tham số trong |pages=|page= (trợ giúp); |page= có văn bản dư (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  3. ^ (tiếng Anh) Geoffrey Bennington, Jacques Derrida, University of Chicago Press, 1999
  4. ^ Marc Goldschmidt, Jacques Derrida : une introduction, 2003, tr. 230
  5. ^ Goldschmidt (2003), tr. 231
  6. ^ a b Jacques Derrida (1990). Le problème de la genèse dans la philosophie de Husserl. Paris: PUF.
  7. ^ “Les agrégés de l'enseignement secondaire. Répertoire 1809-1960 | Ressources numériques en histoire de l'éducation”. rhe.ish-lyon.cnrs.fr. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2016.
  8. ^ Goldschmidt (2003), tr. 233
  9. ^ Derrida, « Cogito et Histoire de la Folie », dans L'Écriture et la différence, Seuil, 1967, tr. 51-97. Le texte est publié d'abord dans la Revue de métaphysique et de morale en 1964
  10. ^ Société des Amis de Jean Cavaillès. https://cavailles.hypotheses.org/societe-des-amis-de-jean-cavailles/prix-jean-cavailles (consulté le 25 octobre 2016)
  11. ^ Jacques Derrida par Jason Powell
  12. ^ Goldschmidt (2003), tr. 234
  13. ^ C'est contradictoire avec ce qui est dit plus haut.
  14. ^ L'Inscription de la philosophie : recherches sur l'interprétation de l'écriture : thèses soutenue sur un ensemble de travaux
  15. ^ Jason Powell, Jacques Derrida : a biography, Continuum, 2006.
  16. ^ Circonfession est publié dans la marge inférieure de l'ouvrage de G. Bennington consacré au philosophe. L'enregistrement de sa lecture par Derrida lui-même est édité en 1993 par les éditions Des femmes .
  17. ^ “Derrida, veilleur de la démocratie « à venir »”. L'Humanité (bằng tiếng Pháp). 7 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2017.
  18. ^ Houillon, Vincent (2006). “Les avances de la pensée : Marx lu par Derrida”. Actuel Marx. 39 (1): 173. doi:10.3917/amx.039.0173. ISSN 0994-4524. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2022. no-break space character trong |title= tại ký tự số 25 (trợ giúp)
  19. ^ “matchID - Fichier des décès - Jackie Derrida”. deces.matchid.io.
  20. ^ Maurice de Gandillac; Lucien Goldmann; Jean Piaget (2 tháng 5 năm 2011). Entretiens sur les notions de Genèse et de structure (bằng tiếng Pháp). Paris: Mouton, rééd. Hermann. tr. 364. ISBN 978-2-7056-8133-3.
  21. ^ Le texte en est repris ensuite dans Jacques Derrida (1967). L'Écriture et la différence (bằng tiếng Pháp). Paris: Seuil, rééd. Points Essais. tr. p. 239. ISBN 2-7578-4171-8. Đã định rõ hơn một tham số trong |pages=|page= (trợ giúp); |page= có văn bản dư (trợ giúp)
  22. ^ Bulletin de la Société française de philosophie (bằng tiếng Pháp). 62–3. Paris: Armand Colin. 1968.
  23. ^ Michel Foucault; Roland Barthes; Jacques Derrida (1968). Théorie d'ensemble (bằng tiếng Pháp). Paris: Seuil, coll. Tel Quel. tr. 414.
  24. ^ a b c d e f g h i j k Jacques Derrida (1972). Marges de la philosophie (bằng tiếng Pháp). Paris: Minuit, coll. Critique. tr. p. 1-29. ISBN 2-7073-0053-5. Đã định rõ hơn một tham số trong |pages=|page= (trợ giúp); |page= có văn bản dư (trợ giúp)
  25. ^ a b “Interdisciplinarité: La Controverse entre Lacan et Derrida, par Paul-Eric Langevin - Présentation faite à l'Espace Analytique lors du séminaire d'Olivier Douville”. interdisciplinarite.blogspot.fr. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2016.
  26. ^ Dufrenne (1977). Pour une philosophie non théologique ; Le Poétique. Paris: Seuil.
  27. ^ Voir, entre autres, Jean-Michel Salanskis (2008). La philosophie de Jacques Derrida et la spécificité de la déconstruction au sein des philosophies du linguistic turn (bằng tiếng Pháp). Paris: Presses universitaires de France. tr. 14. ISBN 978-2-13-057150-6. Đã định rõ hơn một tham số trong |pages=|page= (trợ giúp)Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  28. ^ Le terme de « phallogocentrisme » apparaît pour la première fois chez Derrida en 1972, dans le texte « tympan » (Marges - de la philosophie, p. xvii).
  29. ^ Cf. notamment la lecture du séminaire de La Lettre volée de Lacan, dans La Carte postale, de Socrate à Freud et au-delà, Flammarion, 1980.
  30. ^ Norbert Elias (2015). Théorie des symboles (bằng tiếng Pháp). Paris: Seuil. tr. p. 27. ISBN 978-2-02-017590-6. Đã định rõ hơn một tham số trong |pages=|page= (trợ giúp); |page= có văn bản dư (trợ giúp)
  31. ^ a b c d cf.Positions, Éditions de minuit, Paris, 1972, tr. 61
  32. ^ a b cf.Positions, Éditions de Minuit, Paris, 1972, tr. 63
  33. ^ Le passage le plus éclairant pour comprendre le jeu et l'enjeu de ce « concept » se trouve probablement aux pages 389 à 391 de La dissémination
  34. ^ Jacques Derrida (1996). Echographies – de la télévision. Paris: Galilée. tr. p. 119. |page= có văn bản dư (trợ giúp)
  35. ^ Jacques Derrida (1996). Apories. Paris: Galilée.
  36. ^ “« Genèse et structure » et la phénoménologie”, in L'écriture et la différence, Paris, Le Seuil, 1967, tr. 229-251.
  37. ^ Edmund Husserl (1962). L'origine de la géométrie. Paris: PUF.
  38. ^ Jacques Derrida (2000). “La phénoménologie et la clôture de la métaphysique”. Alter (8).
  39. ^ Jacques Derrida (1967). La voix et le phénomène. Paris: PUF.
  40. ^ Jacques Derrida (1967). “La forme et le vouloir-dire”. Revue internationale de philosophie (81).
  41. ^ Jacques Derrida (1972). Marges – de la philosophie. Paris: Les éditions de Minuit. tr. pp. 185-207. |page= có văn bản dư (trợ giúp)

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Của xây dựng
  • Giải cấu trúc (Heidegger)
  • triết học hậu hiện đại
  • Phonocentrism
  • Đọc cẩn thận
  • Lexicon of hiện tượng học
  • Lý thuyết Pháp

[[Thể loại:Thể loại:Học giả dịch thuật]] [[Thể loại:Thể loại:Học giả quyền động vật]] [[Thể loại:Thể loại:Bài viết chứa thông tin kiểm soát tính nhất quán]] [[Thể loại:Thể loại:Trang chứa nhận dạng ULAN]] [[Thể loại:Thể loại:Trang chứa nhận dạng RKDartists]] [[Thể loại:Trang có bản dịch chưa được xem lại]]