U-15 (tàu ngầm Đức) (1936)

Tàu ngầm U-9, một chiếc Type IIB tiêu biểu
Lịch sử
Đức Quốc Xã
Tên gọi U-15
Đặt hàng 2 tháng 2, 1935
Xưởng đóng tàu Deutsche Werke, Kiel
Số hiệu xưởng đóng tàu 250
Đặt lườn 24 tháng 9, 1935
Hạ thủy 15 tháng 2, 1936
Nhập biên chế 7 tháng 3, 1936
Tình trạng Đắm do tai nạn va chạm tại Bắc Hải, 30 tháng 1, 1940[1][2]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Tàu ngầm duyên hải Type IIB
Trọng tải choán nước
  • 279 t (275 tấn Anh) (nổi)
  • 328 t (323 tấn Anh) (chìm)
  • 414 t (407 tấn Anh) (toàn phần)
Chiều dài
  • 42,7 m (140 ft 1 in) (chung)
  • 28,2 m (92 ft 6 in) (lườn áp lực)
Sườn ngang
  • 4,08 m (13 ft 5 in) (chung)
  • 4 m (13 ft 1 in) (lườn áp lực)
Chiều cao 8,60 m (28 ft 3 in)
Mớn nước 3,90 m (12 ft 10 in)
Công suất lắp đặt
  • 700 PS (510 kW; 690 shp) (diesel)
  • 410 PS (300 kW; 400 shp) (điện)
Động cơ đẩy
Tốc độ
  • 13 hải lý trên giờ (24 km/h; 15 mph) (nổi)
  • 7 hải lý trên giờ (13 km/h; 8,1 mph) (lặn)
Tầm xa
  • 3.100 hải lý (5.700 km; 3.600 mi) ở tốc độ 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) (nổi)
  • 35–43 hải lý (65–80 km; 40–49 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn)
Độ sâu thử nghiệm 150 m (490 ft)
Thủy thủ đoàn tối đa 3 sĩ quan, 22 thủy thủ
Vũ khí
Lịch sử phục vụ
Một phần của:
Mã nhận diện: M 06 991
Chỉ huy:
  • Trung úy / Đại úy Werner von Schmidt
  • 30 tháng 9, 1935 – 1 tháng 10, 1937
  • Đại úy Hans Cohausz
  • 16 tháng 5 – 2 tháng 8, 1936
  • Trung úy / Đại úy Heinz Buchholz
  • 1 tháng 10, 1937 – 26 tháng 10, 1939
  • Trung úy / Đại úy Peter Frahm
  • 27 tháng 10, 1939 – 30 tháng 1, 1940
Chiến dịch:
  • 5 chuyến tuần tra:
  • 1: 25 – 30 tháng 8 & 31 tháng 8 – 8 tháng 9, 1939
  • 2: 20 tháng 9 – 9 tháng 10 & 6 – 7 tháng 11, 1939
  • 3: 14 – 19 tháng 11, 1939
  • 4: 9 – 20 tháng 1, 1940
  • 5: 29 – 30 tháng 1, 1940
Chiến thắng: 3 tàu buôn bị đánh chìm
(4.532 GRT)

U-15 là một tàu ngầm duyên hải Lớp Type II thuộc phân lớp Type IIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai sau khi bãi bỏ những điều khoản của Hiệp ước Versailles vốn cấm Đức sở hữu tàu ngầm. Những tàu ngầm Type II vốn quá nhỏ để có thể tiến hành các chiến dịch cách xa căn cứ nhà, nên U-15 đã đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện tại các trường tàu ngầm Đức. Được huy động do tình trạng thiếu hụt tàu ngầm sau khi xung đột bùng nổ, nó thực hiện năm chuyến tuần tra và đánh chìm ba tàu buôn với tổng tải trọng 4.532 tấn. U-15 bị mất sau tai nạn va chạm với một tàu phóng lôi tại Bắc Hải vào ngày 30 tháng 1, 1940

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Phân lớp Type IIB là một phiên bản mở rộng của Type IIA trước đó. Chúng có trọng lượng choán nước 279 t (275 tấn Anh) khi nổi và 328 t (323 tấn Anh) khi lặn); tuy nhiên tải trọng tiêu chuẩn được công bố chỉ có 250 tấn Anh (254 t).[3] Chúng có chiều dài chung 42,70 m (140 ft 1 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 28,20 m (92 ft 6 in), mạn tàu rộng 4,08 m (13 ft 5 in), chiều cao 8,60 m (28 ft 3 in) và mớn nước 3,90 m (12 ft 10 in).[3]

Chúng trang bị hai động cơ diesel MWM RS 127 S 6-xy lanh 4 thì công suất 700 mã lực mét (510 kW; 690 shp) để đi đường trường và hai động cơ/máy phát điện Siemens-Schuckert PG VV 322/36 tổng công suất 460 mã lực mét (340 kW; 450 shp) để lặn, hai trục chân vịt và hai chân vịt đường kính 0,85 m (3 ft). Các con tàu có thể lặn đến độ sâu 80–150 m (260–490 ft).[3] Chúng đạt được tốc độ tối đa 12 kn (22 km/h) trên mặt nước và 6,9 kn (12,8 km/h) khi lặn,[3] với tầm hoạt động tối đa 3.800 nmi (7.000 km) khi đi tốc độ đường trường 8 kn (15 km/h), và 35–42 nmi (65–78 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h) khi lặn.[3]

Vũ khí trang bị bao gồm ba ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in) trước mũi, mang theo tổng cộng năm quả ngư lôi hoặc cho đến 12 quả thủy lôi TMA. Một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) cũng được trang bị trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 25 sĩ quan và thủy thủ.[3]

U-15 được đặt hàng vào ngày 2 tháng 2, 1935.[2] Nó được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Deutsche Werke tại Kiel vào ngày 24 tháng 9, 1935,[2] hạ thủy vào ngày 15 tháng 2, 1936,[2] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 7 tháng 3, 1936[2] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung úy Hải quân Werner von Schmidt.[2]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

U-15 đã đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện tại các trường tàu ngầm Đức. Được huy động do tình trạng thiếu hụt tàu ngầm sau khi xung đột bùng nổ, nó thực hiện được năm chuyến tuần tra trong chiến tranh, đánh chìm ba tàu buôn với tổng tải trọng 4.532 tấn. [4][2]

Vào ngày 30 tháng 1, 1940, nó gặp tai nạn bị tàu phóng lôi Iltis húc trúng và đắm ở vị trí về phía Bắc Heligoland, tại tọa độ 54°24′B 7°50′Đ / 54,4°B 7,833°Đ / 54.400; 7.833.[2][5] Toàn bộ 25 thành viên thủy thủ đoàn trên tàu đều thiệt mạng.[1]

Tóm tắt chiến công[sửa | sửa mã nguồn]

U-15 đã đánh chìm ba tàu đối phương với tổng tải trọng 4.532 gross register tons (GRT):

Ngày Tên tàu Quốc tịch Tải trọng[Ghi chú 1] Số phận[4]
10 tháng 9, 1939 Goodwood  Anh Quốc 2.796 Bị đánh chìm
21 tháng 10, 1939 Orsa  Anh Quốc 1.478 Bị đánh chìm
28 tháng 12, 1939 Resercho  Anh Quốc 258 Bị đánh chìm

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b Kemp 1997, tr. 63
  2. ^ a b c d e f g h Helgason, Guðmundur. “The Type IIA U-boat U-15”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2024.
  3. ^ a b c d e f Gröner 1991, tr. 39–40.
  4. ^ a b Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-15”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2024.
  5. ^ Rohwer 2005, tr. 2, 7-10, 14

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

  • Helgason, Guðmundur. “The Type IIB boat U-15”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2014.
  • Hofmann, Markus. “U 15”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2015.