U-20 (tàu ngầm Đức) (1936)

Tàu ngầm chị em U-9, một chiếc Type IIB tiêu biểu
Lịch sử
Đức Quốc Xã
Tên gọi U-20
Đặt hàng 2 tháng 2, 1935
Xưởng đóng tàu
Số hiệu xưởng đóng tàu 550
Đặt lườn 1 tháng 8, 1935
Hạ thủy 14 tháng 1, 1936
Nhập biên chế 1 tháng 2, 1936
Tình trạng Bị đánh chìm ngoài khơi Thổ Nhĩ Kỳ, 11 tháng 9, 1944[1][2]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Tàu ngầm duyên hải Type IIB
Trọng tải choán nước
  • 279 t (275 tấn Anh) (nổi)
  • 328 t (323 tấn Anh) (chìm)
  • 414 t (407 tấn Anh) (toàn phần)
Chiều dài
  • 42,7 m (140 ft 1 in) (chung)
  • 28,2 m (92 ft 6 in) (lườn áp lực)
Sườn ngang
  • 4,08 m (13 ft 5 in) (chung)
  • 4 m (13 ft 1 in) (lườn áp lực)
Chiều cao 8,60 m (28 ft 3 in)
Mớn nước 3,90 m (12 ft 10 in)
Công suất lắp đặt
  • 700 PS (510 kW; 690 shp) (diesel)
  • 410 PS (300 kW; 400 shp) (điện)
Động cơ đẩy
Tốc độ
  • 13 hải lý trên giờ (24 km/h; 15 mph) (nổi)
  • 7 hải lý trên giờ (13 km/h; 8,1 mph) (lặn)
Tầm xa
  • 3.100 hải lý (5.700 km; 3.600 mi) ở tốc độ 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) (nổi)
  • 35–43 hải lý (65–80 km; 40–49 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn)
Độ sâu thử nghiệm 150 m (490 ft)
Thủy thủ đoàn tối đa 3 sĩ quan, 22 thủy thủ
Vũ khí
Lịch sử phục vụ
Một phần của:
Mã nhận diện: M 29 241
Chỉ huy:
  • Đại úy Hans Eckermann
  • 1 tháng 2, 1936 – 30 tháng 9, 1937
  • Trung úy / Đại úy Karl-Heinz Moehle
  • 1 tháng 10, 1937 – 17 tháng 1, 1940
  • Đại úy Harro von Klot-Heydenfeldt
  • 17 tháng 1 – 15 tháng 4, 1940
  • Trung úy Heinrich Driver
  • 2 – 15 tháng 4, 1940
  • Trung úy Hans-Jürgen Zetzsche
  • 16 tháng 4 – 7 tháng 6, 1940
  • Trung úy Ottokar Arnold Paulshen
  • 8 tháng 6, 1940 – 5 tháng 1, 1941
  • Đại úy Herbert Schauenburg
  • 6 tháng 1 – 19 tháng 5, 1941
  • Trung úy Wolfgang Sträter
  • 20 tháng 5 – 4 tháng 12, 1941
  • Trung úy Kurt Nölke
  • 5 tháng 12, 1941 – 27 tháng 3, 1942
  • Trung úy / Đại úy Clemens Schöler
  • 7 tháng 5 – 26 tháng 8, 1942
  • 27 tháng 5 – 31 tháng 10, 1943
  • Trung úy Karl Grafen
  • 1 tháng 11, 1943 – 10 tháng 9, 1944
Chiến dịch:
  • 16 chuyến tuần tra:
  • 1: 24 – 31 tháng 8 & 1 – 20 tháng 9, 1939
  • 2: 29 tháng 9 – 17 tháng 10 & 6 – 7 tháng 11, 1939
  • 3: 18 – 24 tháng 11, 1939
  • 4: 7 – 13 tháng 12, 1939
  • 5: 6 – 16 tháng 1, 1940
  • 6: 21 tháng 1 & 23 – 31 tháng 1 & 4 tháng 2, 1940
  • 7: 27 tháng 2 – 4 tháng 3, 1940
  • 8: 14 – 20 tháng 3 & 21 – 22 tháng 3, 1940
  • 9: 22 – 29 tháng 6, 1943
  • 10: 11 tháng 7 – 7 tháng 8, 1943
  • 11: 16 – 22 tháng 9 & 24 tháng 9 – 12 tháng 10, 1943
  • 12: 8 tháng 11 – 9 tháng 12, 1943
  • 13: 1 – 26 tháng 1, 1944
  • 14: 22 tháng 2 – 1 tháng 3 & 2 – 27 tháng 3, 1944
  • 15: 11 tháng 6 – 11 tháng 7, 1944
  • 16: 19 tháng 8 – 10 tháng 9, 1944
Chiến thắng:
  • 12 tàu buôn bị đánh chìm
    (30.058 GRT)
  • 1 tàu chiến bị đánh chìm
    (9 tấn)
  • 2 tàu buôn tổn thất toàn bộ
    (8.446 GRT)
  • 1 tàu buôn bị hư hại
    (1.846 GRT)

U-20 là một tàu ngầm duyên hải Lớp Type II thuộc phân lớp Type IIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai sau khi bãi bỏ những điều khoản của Hiệp ước Versailles vốn cấm Đức sở hữu tàu ngầm. Những tàu ngầm Type II vốn quá nhỏ để có thể tiến hành các chiến dịch cách xa căn cứ nhà, nên U-20 đã đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện tại các trường tàu ngầm Đức. Được huy động do tình trạng thiếu hụt tàu ngầm sau khi xung đột bùng nổ, nó hoạt động tuần tra tại Bắc Hải trước khi quay lại vai trỏ huấn luyện, rồi chuyển sang hoạt động cùng Chi hạm đội U-boat 30 tại Hắc Hải. U-20 đã thực hiện tổng cộng 20 chuyến tuần tra, đánh chìm 13 tàu buôn với tổng tải trọng 30.058 tấn và một tàu chiến[3] trước khi bị đánh đắm ngoài khơi Thổ Nhĩ Kỳ vào ngày 11 tháng 9, 1944.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Phân lớp Type IIB là một phiên bản mở rộng của Type IIA trước đó. Chúng có trọng lượng choán nước 279 t (275 tấn Anh) khi nổi và 328 t (323 tấn Anh) khi lặn); tuy nhiên tải trọng tiêu chuẩn được công bố chỉ có 250 tấn Anh (254 t).[4] Chúng có chiều dài chung 42,70 m (140 ft 1 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 28,20 m (92 ft 6 in), mạn tàu rộng 4,08 m (13 ft 5 in), chiều cao 8,60 m (28 ft 3 in) và mớn nước 3,90 m (12 ft 10 in).[4]

Chúng trang bị hai động cơ diesel MWM RS 127 S 6-xy lanh 4 thì công suất 700 mã lực mét (510 kW; 690 shp) để đi đường trường và hai động cơ/máy phát điện Siemens-Schuckert PG VV 322/36 tổng công suất 460 mã lực mét (340 kW; 450 shp) để lặn, hai trục chân vịt và hai chân vịt đường kính 0,85 m (3 ft). Các con tàu có thể lặn đến độ sâu 80–150 m (260–490 ft).[4] Chúng đạt được tốc độ tối đa 12 kn (22 km/h) trên mặt nước và 6,9 kn (12,8 km/h) khi lặn,[4] với tầm hoạt động tối đa 3.800 nmi (7.000 km) khi đi tốc độ đường trường 8 kn (15 km/h), và 35–42 nmi (65–78 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h) khi lặn.[4]

Vũ khí trang bị bao gồm ba ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in) trước mũi, mang theo tổng cộng năm quả ngư lôi hoặc cho đến 12 quả thủy lôi TMA. Một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) cũng được trang bị trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 25 sĩ quan và thủy thủ.[4]

U-20 được đặt hàng vào ngày 2 tháng 2, 1935.[2] Nó được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Germaniawerft tại Kiel vào ngày 1 tháng 8, 1935,[2] hạ thủy vào ngày 14 tháng 1, 1936,[2] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 1 tháng 2, 1936[2] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Hans Eckermann.[2]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

U-20 đã đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện tại các trường tàu ngầm Đức. Được huy động do tình trạng thiếu hụt tàu ngầm sau khi xung đột bùng nổ, nó thực hiện được tám chuyến tuần tra tại khu vực Bắc Hải và chung quanh quần đảo Anh.[2]

Vào ngày 1 tháng 5, 1940, U-20 được rút khỏi nhiệm vụ tác chiến để quay trở lại vai trò huấn luyện. Khi được điều động sang Chi hạm đội U-boat 30 vào ngày 1 tháng 5, 1942, chiếc tàu ngầm được tháo dỡ, vận chuyển dọc theo sông Danube đến cảng Galați của România. Tại đây nó được lắp ráp lại tại Xưởng tàu Galați và gửi đến Hắc Hải.[5] U-20 đi đến cảng Constanța của România, nơi đặt căn cứ cho đến hết quãng đời hoạt động, và thực hiện thêm tám chuyến tuần tra chiến tranh tại khu vực Hắc Hải.[2]

Ngay trong chuyến tuần tra đầu tiên trong môi trường mới, U-20 suýt gặp thảm họa. Vào ngày 26 tháng 6, 1943, tại Hắc Hải ngoài khơi Tuapse, nó tấn công một tàu săn ngầm Liên Xô bằng ngư lôi nhưng bị trượt, và đối phương phản công với tám quả mìn sâu được thả xuống, rồi chiếc tàu ngầm phải lặn trong hơn bốn giờ để né tránh máy bay tuần tra đối phương. Nó quay về căn cứ với nhiều hư hại cơ khí.[2]

Sau khi România chuyển sang gia nhập Khối Đồng Minh, U-20 bị mất căn cứ hoạt động, và không thể quay trở về Đức vì các eo biển BosphorusDardanelles do Thổ Nhĩ Kỳ trung lập kiểm soát. Để tránh bị lọt vào tay lực lượng Liên Xô, nó cùng các tàu ngầm chị em U-19U-23 được lệnh tự đánh đắm tàu tại vùng biển Hắc Hải ngoài khơi Thổ Nhĩ Kỳ vào ngày 10 tháng 9, 1944.[6][7][8][2]

Tóm tắt chiến công[sửa | sửa mã nguồn]

U-20 đã đánh chìm 12 tàu buôn tải trọng 30.058 GRT cùng một tàu chiến 9 tấn; cũng như gây hư hại cho ba tàu buôn 10.292 GRT:

Ngày Tên tàu Quốc tịch Tải trọng[Ghi chú 1] Số phận[3]
29 tháng 11, 1939 Ionian  Anh Quốc 3.114 Bị đánh chìm (mìn)
9 tháng 12, 1939 Magnus  Đan Mạch 1.339 Bị đánh chìm
10 tháng 12, 1939 Føina  Na Uy 1.674 Bị đánh chìm
10 tháng 12, 1939 Willowpool  Anh Quốc 4.815 Bị đánh chìm (mìn)
13 tháng 1, 1940 Sylvia  Thụy Điển 1.524 Bị đánh chìm
27 tháng 1, 1940 England  Đan Mạch 2.319 Bị đánh chìm
27 tháng 1, 1940 Faro  Na Uy 844 Tổn thất toàn bộ
27 tháng 1, 1940 Fredensborg  Đan Mạch 2.094 Bị đánh chìm
27 tháng 1, 1940 Hosanger  Đan Mạch 1.591 Bị đánh chìm
29 tháng 2, 1940 Maria Rosa  Ý 4.211 Bị đánh chìm
1 tháng 3, 1940 Mirella  Ý 5.340 Bị đánh chìm
29 tháng 11, 1943 Peredovik  Liên Xô 1.846 Bị hư hại
16 tháng 1 1944 Vaijan Kutur'e  Liên Xô 7.602 Tổn thất toàn bộ
7 tháng 4 1944 Rion  Liên Xô 187 Bị đánh chìm (mìn)
19 tháng 6 1944 Pestel  Liên Xô 1.850 Bị đánh chìm
24 tháng 6 1944 DB-26  Hải quân Liên Xô 9 Bị đánh chìm

Tái khám phá[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 3 tháng 2, 2008, báo The Telegraph thông tin U-20 được Kỹ sư hàng hải người Thổ Nhĩ Kỳ Selçuk Kolay phát hiện tại độ sâu 80 ft (24 m) ngoài khơi thành phố Zonguldak của Thổ Nhĩ Kỳ. Theo Kolay, ông nắm được tọa độ xác tàu đắm của U-19U-23, bị đánh chìm ở độ sâu sâu hơn gần U-20.[7][8]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Kemp 1997, tr. 217.
  2. ^ a b c d e f g h i j Helgason, Guðmundur. “The Type IIB U-boat U-20”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2024.
  3. ^ a b Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-20”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2024.
  4. ^ a b c d e f Gröner 1991, tr. 39–40.
  5. ^ Paterson 2016, tr. 5.
  6. ^ Kemp 1999, tr. 217.
  7. ^ a b Copping, Jasper (3 tháng 2 năm 2008). “Adolf Hitler's 'lost fleet' found in Black Sea”. The Daily Telegraph. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2024.
  8. ^ a b McSmith, Andy (11 tháng 2 năm 2008). “Hitler's 'lost fleet' of U-boats found in Black Sea”. The Independent. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2024.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Blair, Clay (1996). Hitler's U-Boat War: The Hunters, 1939-1942. ISBN 0394588398.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
  • Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
  • Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
  • Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
  • Paterson, Lawrence (2016). “5 - The Black Sea: War in the South 1942-43”. Steel and Ice: The U-boat Battle in the Arctic and Black Sea 1941-45. Naval Press Institute. ISBN 978-1591142584.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]