U-18 (tàu ngầm Đức) (1935)

Tàu ngầm U-18 đang được lắp ráp lại tại Galați, România
Lịch sử
Đức Quốc Xã
Tên gọi U-18
Đặt hàng 2 tháng 2, 1935
Xưởng đóng tàu
Số hiệu xưởng đóng tàu 548
Đặt lườn 10 tháng 7, 1935
Hạ thủy 7 tháng 12, 1935
Nhập biên chế 4 tháng 1, 1936
Tình trạng
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Tàu ngầm duyên hải Type IIB
Trọng tải choán nước
  • 279 t (275 tấn Anh) (nổi)
  • 328 t (323 tấn Anh) (chìm)
  • 414 t (407 tấn Anh) (toàn phần)
Chiều dài
  • 42,7 m (140 ft 1 in) (chung)
  • 28,2 m (92 ft 6 in) (lườn áp lực)
Sườn ngang
  • 4,08 m (13 ft 5 in) (chung)
  • 4 m (13 ft 1 in) (lườn áp lực)
Chiều cao 8,60 m (28 ft 3 in)
Mớn nước 3,90 m (12 ft 10 in)
Công suất lắp đặt
  • 700 PS (510 kW; 690 shp) (diesel)
  • 410 PS (300 kW; 400 shp) (điện)
Động cơ đẩy
Tốc độ
  • 13 hải lý trên giờ (24 km/h; 15 mph) (nổi)
  • 7 hải lý trên giờ (13 km/h; 8,1 mph) (lặn)
Tầm xa
  • 3.100 hải lý (5.700 km; 3.600 mi) ở tốc độ 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) (nổi)
  • 35–43 hải lý (65–80 km; 40–49 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn)
Độ sâu thử nghiệm 150 m (490 ft)
Thủy thủ đoàn tối đa 3 sĩ quan, 22 thủy thủ
Vũ khí
Lịch sử phục vụ
Một phần của:
Mã nhận diện: M 23 452
Chỉ huy:
Chiến dịch:
  • 14 chuyến tuần tra
  • 1: 30 tháng 8 – 7 tháng 9 & 8 tháng 9, 1939
  • 2: 14 – 24 tháng 9, 1939
  • 3: 2 – 19 tháng 10, 1939
  • 4: 15 – 23 tháng 11, 1939
  • 5: 18 – 26 tháng 1, 1940
  • 6: 11 – 24 tháng 2 & 27 – 28 tháng 2, 1940
  • 7: 26 tháng 5 – 9 tháng 6, 1943
  • 8: 16 – 29 tháng 6 & 3 – 22 tháng 7, 1943
  • 9: 21 tháng 8 – 24 tháng 9, 1943
  • 10: 27 tháng 10 – 24 tháng 11, 1943
  • 11: 29 tháng 1 – 29 tháng 2, 1944
  • 12: 25 tháng 3 – 27 tháng 4, 1944
  • 13: 25 tháng 5 – 7 tháng 6, 1944
  • 14: 24 tháng 7 – 16 tháng 8, 1944
Chiến thắng:
  • 2 tàu buôn
    (1.500 GRT)
  • 1 tàu chiến phụ trợ bị đánh chìm
    (400 GRT)
  • 1 tàu buôn bị hư hại
    (7.745 GRT)
  • 1 tàu chiến bị
    (56 tấn)

U-18 là một tàu ngầm duyên hải Lớp Type II thuộc phân lớp Type IIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai sau khi bãi bỏ những điều khoản của Hiệp ước Versailles vốn cấm Đức sở hữu tàu ngầm. Những tàu ngầm Type II vốn quá nhỏ để có thể tiến hành các chiến dịch cách xa căn cứ nhà, nên U-18 đã đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện tại các trường tàu ngầm Đức. Được huy động do tình trạng thiếu hụt tàu ngầm sau khi xung đột bùng nổ, nó hoạt động tác chiến tại Bắc Hải cho đến cuối năm 1942 và sau đó tại Hắc Hải, thực hiện tổng cộng 14 chuyến tuần tra và đánh chìm ba tàu đối phương với tổng tải trọng 1.900 tấn. [3] U-18 bị hư hại nặng do không kích bởi máy bay Liên Xô tại cảng Constanţa, România vào ngày 20 tháng 8, 1945, rồi bị đánh đắm tại đây năm ngày sau đó.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Phân lớp Type IIB là một phiên bản mở rộng của Type IIA trước đó. Chúng có trọng lượng choán nước 279 t (275 tấn Anh) khi nổi và 328 t (323 tấn Anh) khi lặn); tuy nhiên tải trọng tiêu chuẩn được công bố chỉ có 250 tấn Anh (254 t).[4] Chúng có chiều dài chung 42,70 m (140 ft 1 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 28,20 m (92 ft 6 in), mạn tàu rộng 4,08 m (13 ft 5 in), chiều cao 8,60 m (28 ft 3 in) và mớn nước 3,90 m (12 ft 10 in).[4]

Chúng trang bị hai động cơ diesel MWM RS 127 S 6-xy lanh 4 thì công suất 700 mã lực mét (510 kW; 690 shp) để đi đường trường và hai động cơ/máy phát điện Siemens-Schuckert PG VV 322/36 tổng công suất 460 mã lực mét (340 kW; 450 shp) để lặn, hai trục chân vịt và hai chân vịt đường kính 0,85 m (3 ft). Các con tàu có thể lặn đến độ sâu 80–150 m (260–490 ft).[4] Chúng đạt được tốc độ tối đa 12 kn (22 km/h) trên mặt nước và 6,9 kn (12,8 km/h) khi lặn,[4] với tầm hoạt động tối đa 3.800 nmi (7.000 km) khi đi tốc độ đường trường 8 kn (15 km/h), và 35–42 nmi (65–78 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h) khi lặn.[4]

Vũ khí trang bị bao gồm ba ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in) trước mũi, mang theo tổng cộng năm quả ngư lôi hoặc cho đến 12 quả thủy lôi TMA. Một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) cũng được trang bị trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 25 sĩ quan và thủy thủ.[4]

U-18 được đặt hàng vào ngày 2 tháng 2, 1935.[2] Nó được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Germaniawerfttại Kiel vào ngày 10 tháng 7, 1935,[2] hạ thủy vào ngày 7 tháng 12, 1935,[2] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 1 tháng 4, 1936[2] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung úy Hải quân Hans Pauckstadt.[2]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

U-18 đã đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện tại các trường tàu ngầm Đức. Đang khi huấn luyện, nó bị đắm trong vịnh Lübeck lúc 09 giờ 54 phút ngày 20 tháng 11, 1936 sau khi mắc tai nạn va chạm với tàu phóng lôi T 156; tám người đã thiệt mạng và có 12 người sống sót được cứu vớt. Nó được trục vớt tám ngày sau đó và quay trở lại hoạt động vào ngày 30 tháng 9, 1937.[2]

Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ, vào ngày 3 tháng 9, 1939, U-18 đã tấn công một tàu ngầm Ba Lan, có thể là chiếc ORP Sęp, nhưng không trúng đích.[5] Khi được điều động sang Chi hạm đội U-boat 30 vào cuối năm 1942, chiếc tàu ngầm được tháo dỡ, vận chuyển dọc theo sông Danube đến cảng Galați của România. Tại đây nó được lắp ráp lại tại Xưởng tàu Galați và gửi đến Hắc Hải.[6] U-18 thực hiện tổng cộng 14 chuyến tuần tra trong chiến tranh, đánh chìm ba tàu đối phương với tổng tải trọng 1.900 tấn và gây hư hại cho hai chiếc khác.[3]

Tại cảng Constanţa, România trên bờ biển Hắc Hải, vào ngày 20 tháng 8, 1944, U-18 bị hư hại nặng do trúng bom trong một cuộc không kích của máy bay Liên Xô. Được xem là tổn thất toàn bộ, con tàu bị đánh đắm năm ngày sau đó.[1] Quân đội Liên Xô trục vớt con tàu vào cuối năm 1944, và sau chiến tranh nó bị đánh chìm như mục tiêu thực hành bởi tàu ngầm Liên Xô M-120 ngoài khơi Sevastopol vào ngày 26 tháng 5, 1947.[2]

Tóm tắt chiến công[sửa | sửa mã nguồn]

U-18 đã đánh chìm hai tàu buôn và một tàu chiến phụ trợ với tổng tải trọng 1.900 gross register tons (GRT), cũng như gây hư hại cho một tàu buôn và một tàu chiến khác:

Ngày Tên tàu Quốc tịch Tải trọng[Ghi chú 1] Số phận[3]
18 tháng 11, 1939 Parkhill  United Kingdom 500 Bị đánh chìm
24 tháng 1, 1940 Bisp  Norway 1.000 Bị đánh chìm
29 tháng 8, 1943 TSC-11 Dzhalita  Hải quân Liên Xô 400 Bị đánh chìm
30 tháng 8, 1943 SKA-0132  Hải quân Liên Xô 56 Hư hại
18 tháng 11, 1943 Josif Stalin  Soviet Union 7.745 Hư hại

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b Kemp 1999, tr. 215.
  2. ^ a b c d e f g h i j Helgason, Guðmundur. “The Type IIB U-boat U-18”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  3. ^ a b c Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-18”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  4. ^ a b c d e f Gröner 1991, tr. 39–40.
  5. ^ Bartelski, Jan (2014). “Nieudane ataki torpedowe U-Bootów na ORP Sęp”. Morze, Statki i Okręty (bằng tiếng Ba Lan). Warsaw (9-10/2014 (148)): 24. ISSN 1426-529X.
  6. ^ Paterson 2016, tr. 5.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Blair, Clay (1996). Hitler's U-Boat War: The Hunters, 1939-1942. ISBN 0394588398.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
  • Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
  • Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
  • Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
  • Paterson, Lawrence (2016). “5 - The Black Sea: War in the South 1942-43”. Steel and Ice: The U-boat Battle in the Arctic and Black Sea 1941-45. Naval Press Institute. ISBN 978-1591142584.</ref>

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]