USS Sculpin (SS-191)

Tàu ngầm USS Sculpin (SS-191) ngoài khơi San Francisco, California, vào ngày 1 tháng 5 năm 1943, sau đợt đại tu.
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Sculpin (SS-191)
Đặt tên theo siêu họ Cá bống thuộc bộ Cá mù làn [1]
Xưởng đóng tàu Xưởng hải quân Portsmouth, Kittery, Maine [2]
Đặt lườn 7 tháng 9, 1937 [2]
Hạ thủy 27 tháng 7, 1938 [2]
Nhập biên chế 16 tháng 1, 1939 [2]
Xóa đăng bạ 25 tháng 3, 1944 [3]
Danh hiệu và phong tặng
Số phận Hư hại bởi tàu khu trục Nhật, đánh đắm ngoài khơi Truk, 19 tháng 11, 1943 [4]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Sargo
Kiểu tàu tàu ngầm tổ hợp dẫn động trực tiếp và diesel-điện [4]
Trọng tải choán nước
  • 1.450 tấn Anh (1.470 t) (mặt nước) [5]
  • 2.350 tấn Anh (2.390 t) (lặn) [5]
Chiều dài 310 ft 6 in (94,64 m) [5]
Sườn ngang 26 ft 10 in (8,18 m) [5]
Mớn nước 16 ft 8 in (5,08 m) [5]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa 11.000 hải lý (20.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h)[5]
Tầm hoạt động 48 giờ lặn ở tốc độ 2 hải lý trên giờ (3,7 km/h)[5]
Độ sâu thử nghiệm
  • 250 ft (80 m)
  • độ sâu bị ép vỡ khoảng 450 ft (140 m)[5]
Thủy thủ đoàn tối đa 5 sĩ quan, 54 thủy thủ[5]
Vũ khí

USS Sculpin (SS-191) là một tàu ngầm lớp Sargo được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên siêu họ Cá bống thuộc bộ Cá mù làn.[1] Nó đã phục vụ trong Thế Chiến II, thực hiện được chín chuyến tuần tra và đánh chìm ba tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 9.835 tấn.[8] Trong chuyến tuần tra thứ chín, nó bị hư hại nặng bởi hỏa lực từ tàu khu trục Yamagumo, nên đã tự đánh đắm ngoài khơi đảo Truk vào ngày 19 tháng 11, 1943. Sculpin được tặng thưởng tám Ngôi sao Chiến trận cùng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống Phlippines do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Đặc tính của lớp Sargo hầu như tương tự với Lớp Salmon dẫn trước, duy trì một tốc độ 21 hải lý trên giờ (39 km/h) để hoạt động phối hợp với các thiết giáp hạm trong đội hình hạm đội.[5] Ngoài ra, tầm hoạt động 11.000 hải lý (20.000 km) cho phép chúng tuần tra đến tận vùng biển nhà Nhật Bản.[5] Hệ thống động lực "tổng hợp" bao gồm bốn động cơ diesel, gồm hai chiếc vận hành trực tiếp trục chân vịt và hai chiếc để chạy máy phát điện dùng cho nạp ắc quy hay tăng tốc trên mặt nước.[9]

Lớp Sargo có chiều dài 310 foot 6 inch (94,64 m), với trọng lượng choán nước khi nổi là 1.450 tấn Anh (1.470 t) và khi lặn là 2.350 tấn Anh (2.390 t).[5] Chúng là lớp tàu ngầm đầu tiên được lắp đặt một kiểu ắc-quy a-xít chì mới "Kiểu Sargo" chịu đựng được hư hại trong chiến đấu nhờ lớp vỏ kép giúp ngăn ngừa việc rò rỉ acid sulfuric,[10] có dung lượng nhỉnh hơn với 126 cell và điện áp danh định tăng lên 270 volt.[11] Vũ khí trang bị chính gồm tám ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm bốn ống trước mũi và bốn ống phía đuôi, một hải pháo 3 inch/50 caliber trên boong tàu và bốn súng máy M1919 Browning .30-caliber (7,62 mm).[5]

Sculpin được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth Kittery, Maine vào ngày 7 tháng 9, 1937. Nó được hạ thủy vào ngày 27 tháng 7, 1938, được đỡ đầu bởi bà Bernice F. Defrees, phu nhân Chuẩn đô đốc Joseph R. Defrees, Sr., Tham mưu trưởng Lực lượng Tuần tiễu Hạm đội Hoa Kỳ. Nó được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 16 tháng 1, 1939 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Warren Dudley Wilkin.[1][3][12]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

1939 - 1941[sửa | sửa mã nguồn]

Đang trong quá trình chạy thử máy vào ngày 23 tháng 5, 1939, chuyển hướng để tham gia tìm kiếm tàu ngầm chị em Squalus, vốn bị mất tích trong khi lặn thử nghiệm. Nó phát hiện một phao cứu nạn và bom khói đỏ của Squalus, và liên lạc được với những người còn sống sót qua đường điện thoại cũng như qua mã Morse gỏ lên thân tàu. Sculpin ứng trực bên cạnh trong khi tàu cứu hộ tàu ngầm Falcon giải cứu những người sống sót. Nó cũng tham gia vào quá trình trục vớt Squalus, rồi khi hoàn tất đã tiếp tục hoạt động huấn luyện dọc bờ biển Đại Tây Dương.[1]

Được điều động sang Hạm đội Thái Bình Dương, nó rời Portsmouth vào ngày 28 tháng 1, 1940 và đi đến San Diego, California vào ngày 6 tháng 3. Con tàu tiếp tục hành trình vào ngày 1 tháng 4 để đi sang quần đảo Hawaii, đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 9 tháng 3, nơi nó đặt căn cứ trong suốt một năm rưỡi tiếp theo. Rời Trân Châu Cảng vào ngày 23 tháng 10 trong thành phần Đội tàu ngầm 22, nó đi đến Manila vào ngày 8 tháng 11,[13] và hoạt động tại vùng biển Philippines từ Xưởng hải quân Cavite cho đến khi Hải quân Nhật bất ngờ tấn công Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12 khiến chiến tranh bùng nổ tại Mặt trận Thái Bình Dương.[1]

Chuyến tuần tra thứ nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Rời Cavite ngay trong đêm 8-9 tháng 12 cho chuyến tuần tra trong chiến tranh, Sculpin cùng với tàu ngầm chị em Seawolf (SS-197) hộ tống tàu vận chuyển máy bay Langley (AV-3)tàu chở dầu Pecos (AO-65) đi đến eo biển San Bernardino, rồi tuần tra ngoài khơi vịnh Lamon trong biển Philippine về phía Bắc Luzon vào ngày 10 tháng 12, trong hoàn cảnh thời tiết xấu và tầm nhìn kém.[14] Sau khi Seawolf được điều đi, nó chuyển sang hoạt động ngoài khơi Aparri, lên đường vào ngày 21 tháng 12. Ba ngày sau đó, lực lượng Nhật Bản đổ bộ lên vịnh Lamon không được canh phòng;[14] và ngoài khơi Aparri, nó phát hiện một mục tiêu nhưng không thể đi đến vị trí tấn công. Sau khi tàu ngầm Tarpon (SS-175) gặp sự cố do biển động mạnh, Sculpin được điều quay trở lại khu vực vịnh Lamon, nhưng thời tiết quá xấu khiến nó không thể tấn công tàu bè đối phương.[14] Nó kết thúc chuyến tuần tra kéo dài 45 ngày[15] khi đi đến Soerabaja, Java vào ngày 22 tháng 1, 1945.[1]

1942[sửa | sửa mã nguồn]

Chuyến tuần tra thứ hai[sửa | sửa mã nguồn]

Trong chuyến tuần tra thứ hai từ ngày 30 tháng 1 đến ngày 28 tháng 2, Sculpin hoạt động trong biển Molucca về phía Đông Celebes (nay là Sulawesi). Vào ngày 4 tháng 2, tại khu vực Kendari, nó phóng ba quả ngư lôi tấn công một tàu khu trục Nhật Bản,[16] và hai quả trúng đích[16] đã gây hư hại nặng cho tàu khu trục Suzukaze, ngập nước khoang thủy thủ đoàn và khiến chín thủy thủ tử trận.[17] Ba đêm sau đó, nó phát hiện một lực lượng đặc nhiệm Nhật Bản,[16] bao gồm một tàu sân bay, tàu tuần dương và tàu khu trục đang hướng đến Makassar, Celebes.[16] Nó phóng ngư lôi tấn công một tàu tuần dương, nhưng bị trượt, và bị đối phương phát hiện nên phải lặn xuống ẩn nấp. Nó phải chịu đựng suốt bốn giờ những quả mìn sâu được thả xuống từ sáu tàu khu trục đối phương, và sau khi thoát đi đã đánh điện bảo cáo mục tiêu, nhưng không được trả lời.[16] Đến đêm 17 tháng 2, nó phát hiện một tàu buôn và một tàu khu trục, tấn công mỗi mục tiêu với hai quả ngư lôi nhưng đều bị trượt. [Ghi chú 1] Nó bị phát hiện và phải lặn sâu để né tránh, nhưng những quả mìn sâu thả xuống đã làm hư hại trục chân vịt bên mạn phải. Nó kết thúc chuyến tuần tra kéo dài 28 ngày[18] khi về đến Fremantle, Australia vào ngày 28 tháng 2.[19][1]

Chuyến tuần tra thứ ba[sửa | sửa mã nguồn]

Xuất phát từ Fremantle cho chuyến tuần tra thứ ba từ ngày 13 tháng 3 đến ngày 27 tháng 4, Sculpin hoạt động tại khu vực biển Banda[20] ngoài khơi Kendari.[21] Thông tin tình báo vô tuyến giải mã được cho biết một lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay, Đội tàu sân bay 5, đã đến nơi vào ngày 24 tháng 3. Hai ngày sau đó, lực lượng này rời Kendari, nhưng Sculpin đã không thể phát hiện đối phương.[21] Nó phóng ba quả ngư lôi tấn công một tàu buôn, nhưng không trúng đích vì đi quá sâu bên dưới mục tiêu.[21] Một sự kiện tương tự diễn ra trong một đợt tấn công vào đêm 1 tháng 4, rồi trong vòng một tuần, một lượt tấn công khác với ba quả ngư lôi cũng đều bị trượt.[21] Giống như các tàu ngầm Hoa Kỳ khác vào đầu chiến tranh tại Thái Bình Dương, Sculpin bị ảnh hưởng do ngư lôi Mark 14 gặp nhiều lỗi như chạy loạn xạ hoặc đi quá sâu, và ngòi nổ Mark VI không kích nổ khi chạm mục tiêu. Nó quay về Fremantle vào ngày 27 tháng 4 sau 45 ngày tuần tra không có kết quả.[20][1]

Chuyến tuần tra thứ tư[sửa | sửa mã nguồn]

Sculpin hoạt động tại khu vực biển Đông trong chuyến tuần tra thứ tư kéo dài từ ngày 29 tháng 5 đến ngày 17 tháng 6. Vào ngày 8 tháng 6, nó tấn công một tàu chở hàng bất thành do ngư lôi bị lỗi, và đối phương phản công bằng mìn sâu giúp cho mục tiêu chạy thoát. Gần eo biển Balabac vào ngày 13 tháng 6, nó phóng ngư lôi vào một tàu chở hàng, và đối phương bắn trả bằng hải pháo và chạy thoát. Nó chuyển sang tấn công hai tàu chờ dầu đi tiếp theo, nhưng buộc phải lặn xuống khi một chiếc tìm cách húc nó. Trở lên mặt nước lúc trời tối, nó đuổi theo chiếc tàu chở hàng, nhưng mục tiêu chống trả quyết liệt bằng hải pháo, nên quay lại tấn công một tàu chở dầu, khiến mục tiêu bốc cháy và ngập nước. Tài liệu thu được của phía Nhật Bản sau chiến tranh không thể xác nhận việc này. Vào sáng sớm ngày 19 tháng 6, ngoài khơi mũi Dinh, Đông Dương thuộc Pháp, nọ phóng ngư lôi đánh trúng một tàu chở hàng; mục tiêu bốc cháy và hướng đến vùng biển nông để tự mắc cạn và tránh bị chìm. [1]

Kết thúc chuyến tuần tra, Sculpin quay trở về Fremantle, Australia vào ngày 17 tháng 7, và cùng Hải đội Tàu ngầm 2 chuyển căn cứ hoạt động đến Brisbane, Australia vào tháng 8, trong thành phần Lực lượng Tàu ngầm dưới quyền Đại tá Hải quân Ralph Waldo Christie, trực thuộc Đệ Thất hạm đội của Phó đô đốc Arthur S. Carpender, lực lượng Hải quân Khu vực Tây Nam Thái Bình Dương, thuộ cquyền chỉ đạo chung của tướng Douglas MacArthur.[19][1]

Chuyến tuần tra thứ năm[sửa | sửa mã nguồn]

Trong chuyến tuần tra thứ năm từ ngày 8 tháng 9 đến ngày 26 tháng 10, Sculpin đã trinh sát các cảng Thilenius và Montagu thuộc New Ireland. Vào ngày 28 tháng 9, nó đánh trúng hai quả ngư lôi vào một tàu chở hàng, nhưng buộc phải lặn xuống khi một tàu khu trục đối phương xuất hiện, và bị đối thủ thả mìn sâu tấn công trong suốt ba giờ, gây ra những hư hại nhẹ. Ngoài khơi New Ireland lúc 11 giờ 45 phút ngày 7 tháng 10, nó phát hiện một đoàn tàu được hộ tống đang di chuyển sang hướng Đông. Nó phóng bốn quả ngư lôi tấn công lúc 13 giờ 20 phút, đánh trúng tàu vận tải Naminoue Maru (4.731 tấn) khiến mục tiêu đắm sau đó tại tọa độ 03°14′N 151°33′Đ / 3,233°N 151,55°Đ / -3.233; 151.550.[22]<[23] Chiếc tàu ngầm phải lặn xuống né tránh phản công từ các tàu hộ tống, và tiếp tục ở lại tuần tra tại khu vực. Một tuần sau đó, nó đánh chặn một đoàn tàu vận tải ba chiếc trên tuyến hàng hải giữa RabaulKavieng. Đợi cho đến khi chiếc tàu khu trục hộ tống chuyển sang càn quét cánh đối diện đoàn tàu, Sculpin tiếp cận và phóng một loạt bốn quả ngư lôi, đánh chìm tàu chở hàng Sumiyoshi Maru (1.921 tấn) về phía Tây Nam Kavieng, tại tọa độ 03°51′N 151°21′Đ / 3,85°N 151,35°Đ / -3.850; 151.350;[22][24] tám thủy thủ đã thiệt mạng cùng con tàu. Bốn ngày sau đó, 18 tháng 10, nó tấn công tàu tuần dương hạng nhẹ Yura,[25] nhưng bị hỏa lực bắn trả đáng kể nên phải rút lui. Nó tự nhận đã đánh trúng và gây hư hại phần mũi của Yura, nhưng tài liệu thu được của phía Nhật Bản sau chiến tranh không thể xác nhận việc này.[25][1]

Chuyến tuần tra thứ sáu[sửa | sửa mã nguồn]

Khởi hành từ Brisbane cho chuyến tuần tra thứ sáu từ ngày 18 tháng 11, 1942 đến ngày 8 tháng 1, 1943, Sculpin băng qua khu vực New Britain để đi đến khu vực căn cứ chủ lực Truk của Nhật Bản. Sau khi né tránh một cuộc không kích vào ngày 11 tháng 12, nó truy lùng một tàu sân bay đối phương đang hiện diện trong khu vực theo thông tin tình báo vô tuyến giải mã được. Trong đêm 17-18 tháng 12, nó tiếp cận một mục tiêu ở khoảng cách 9 mi (14 km)[26] nhưng bị đối phương phát hiện, nên chiếc tàu ngầm phải lặn xuống ẩn nấp trong khi đối phương kiên trì dò sonar và thả mìn sâu tấn công. Sang đêm sau, nó đánh trúng hai quả ngư lôi vào một tàu chở dầu nhưng không thể xác nhận kết quả.[27] Sau khi về đến Trân Châu Cảng vào ngày 8 tháng 1, 1943, Sculpin tiếp tục đi về vùng bở Tây đến San Francisco, California, và được đại tu tại Xưởng hải quân Mare Island trong ba tháng tiếp theo.[1]

1943[sửa | sửa mã nguồn]

Chuyến tuần tra thứ bảy[sửa | sửa mã nguồn]

Quay trở lại Trân Châu Cảng vào ngày 9 tháng 5, 1943, Sculpin lên đường vào ngày 24 tháng 5 cho chuyến tuần tra thứ bảy để hoạt động ngoài khơi bờ biển Tây Bắc Honshū. Khoảng nữa đêm ngày 9 tháng 6,[28] ba ngày sau khi đi đến khu vực tuần tra ngoài khơi Sōfu Gan thuộc quần đảo Izu,[29] nó phát hiện một lực lượng đặc nhiệm đối phương bao gồm hai tàu sân bay được các tàu tuần dương hộ tống. Chiếc tàu ngầm đi hết tốc độ, nhưng vẫn không thu ngắn được khoảng cách; nó phóng bốn quả ngư lôi tấn công[29] từ khoảng cách quá xa đến 7.000 yd (6.400 m).[28] Một quả ngư lôi bị kích nổ sớm làm bộc lộ vị trí chiếc tàu ngầm, khiến nó không thể phóng ngư lôi từ phía đuôi,[28] và trong khi nó lặn xuống để né tránh, hai quả mìn sâu đã được các tàu hộ tống thả xuống phản công. Sang ngày 14 tháng 6, nó tấn công và gây hư hại cho một tàu buôn, nhưng phải lặn sâu để né tránh phản công từ các tàu hộ tống. Đến ngày 19 tháng 6, nó phá hủy hai thuyền buồm bằng hải pháo. Trong thời gian còn lại của chuyến tuần tra, nó chỉ bắt gặp những mục tiêu chạy gần bờ ở vùng nước nông. Nó kết thúc chuyến tuần tra kéo dài 41 ngày khi quay về căn cứ Midway vào ngày 4 tháng 7.[30][1]

Chuyến tuần tra thứ tám[sửa | sửa mã nguồn]

Trong chuyến tuần tra thứ tám từ ngày 25 tháng 7 đến ngày 17 tháng 9, Sculpin hoạt động dọc bờ biển Trung Quốc, trong biển Hoa Đông và khu vực eo biển Đài Loan. Vào ngày 9 tháng 8, nó phóng ngư lôi đánh chìm tàu chở hành khách hàng hóa Sekko Maru (3.183 tấn) ngoài khơi bờ biển Đài Loan, tại tọa độ 24°51′B 122°12′Đ / 24,85°B 122,2°Đ / 24.850; 122.200.[22][31] Trong những ngày 1617 tháng 8, chiếc tàu ngầm phải né tránh tàu tuần tra đối phương trong eo biển Đài Loan, rồi đến ngày 21 tháng 8 nó đánh chặn một tàu chở hàng bằng một loạt ba quả ngư lôi, trúng đích nhưng không kích nổ. Các tàu hộ tống phản công buộc nó phải lặn sâu ẩn nấp, và mục tiêu chạy thoát. Một tình huống ngư lôi bị lỗi tương tự xảy ra vào ngày 1 tháng 9, trúng mục tiêu mà không phát nổ, và chiếc tàu ngậm lại phản lặn xuống do phản công của đối phương. Sau khi trinh sát hình ảnh đảo Marcus, nó quay trở về Midway sau chuyến tuần tra kéo dài 54 ngày.[1]

Chuyến tuần tra thứ chín[sửa | sửa mã nguồn]

Phần thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Sculpin được tặng thưởng tám Ngôi sao Chiến trận cùng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống Philippines do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][3] Nó được ghi công đã đánh chìm ba tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 9.835 tấn.[32][8]

Bản mẫu:Ribbon devices/altBản mẫu:Ribbon devices/alt
Silver star
Bronze star
Bronze star
Bronze star
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bản mẫu:Ribbon devices/alt Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Dãi băng Hoạt động Tác chiến Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ
Huân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương
với 8 Ngôi sao Chiến trận
Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II Đơn vị Tuyên Dương Tổng thống Philippines

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Cho dù nó được ghi công đã đánh chìm một tàu buôn tải trọng 5.000 tấn vào lúc đó, tài liệu Nhật Bản thu được sau chiến tranh không thể xác nhận điều này.Blair (2001), tr. 179, 904

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p Naval Historical Center. Sculpin I (SS-191). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2024.
  2. ^ a b c d Friedman 1995, tr. 285–304
  3. ^ a b c d Yarnall, Paul R. “Sculpin (SS-191)”. NavSource.org. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2024.
  4. ^ a b c d e f g Bauer & Roberts 1991, tr. 269-270
  5. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Friedman 1995, tr. 305-311
  6. ^ Friedman 1995, tr. 202–204
  7. ^ Friedman 1995, tr. 310
  8. ^ a b The Joint Army-Navy Assessment Committee. “Japanese Naval and Merchant Shipping Losses During World War II by All Causes”. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2022.
  9. ^ Friedman 1995, tr. 203
  10. ^ “Sargo class, U.S. Submarine”. The Pacific War Online Encyclopedia. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2024.
  11. ^ Friedman 1995, tr. 265
  12. ^ Helgason, Guðmundur. “Sculpin (SS-191)”. uboat.net. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2024.
  13. ^ Blair 2001, tr. 83
  14. ^ a b c Blair 2001, tr. 137
  15. ^ Blair 2001, tr. 902
  16. ^ a b c d e Blair 2001, tr. 177
  17. ^ Nevitt, Allyn D. (1998). “IJN Suzukaze: Tabular Record of Movement”. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2024.
  18. ^ Blair 2001, tr. 904
  19. ^ a b Blair 2001, tr. 303
  20. ^ a b Blair 2001, tr. 906
  21. ^ a b c d Blair 2001, tr. 192
  22. ^ a b c The Joint Army-Navy Assessment Committee (tháng 2 năm 1947). “Japanese Naval and Merchant Shipping Losses During World War II by All Causes”. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2024.
  23. ^ Hackett, Bob (2014). “NAMINOUE MARU: Tabular Record of Movement”. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2024.
  24. ^ Rohwer, Jürgen; Hümmelchen, Gerhard (24 tháng 4 năm 2021). “Seekrieg 1942, Oktober”. Württembergische Landesbibliothek Stuttgart (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  25. ^ a b Blair 2001, tr. 913
  26. ^ Blair 2001, tr. 345
  27. ^ Blair 2001, tr. 921
  28. ^ a b c Blair 2001, tr. 429
  29. ^ a b Blair 2001, tr. 428
  30. ^ Blair 2001, tr. 931
  31. ^ Rohwer, Jürgen; Hümmelchen, Gerhard (3 tháng 2 năm 2023). “Seekrieg 1943, August”. Württembergische Landesbibliothek Stuttgart (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2024.
  32. ^ Blair 2001, tr. 913, 932

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]