Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bản”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 3: Dòng 3:
Về địa lý đó là vùng bắc phần [[bán đảo Đông Dương]] và lân cận. Ngày nay vùng này ở trong lãnh thổ của [[Thái Lan]], [[Lào]], bắc [[Việt Nam]], bắc [[Campuchia]], phía nam [[tỉnh Vân Nam]] và tây tỉnh [[Quảng Tây]] [[Trung Quốc]], [[Myanmar]], và bang [[Assam]] ở đông bắc [[Ấn Độ]]. <ref>Nhiều người nghĩ rằng ''bản'' và ''mường'' cũng được sử dụng trong vùng [[người Mường]], tuy nhiên đơn vị hành chính dưới cấp xã ở vùng dân tộc Mường lại là ''xóm'' (tương đương với ''bản'' của người Thái), còn ''mường'' tương đương với một xã, vài xã, thậm chí vài huyện. Ví dụ như [[Phong Phú, Tân Lạc|xã Phong Phú]], huyện [[Tân Lạc]], tỉnh [[Hòa Bình|Hoà Bình]] là vùng dân tộc Mường, gồm có các xóm: Lồ, Trọng, Đóng, Ải, Lũy, Vặn, Mận, Lầm và xóm Khu Phố.</ref>
Về địa lý đó là vùng bắc phần [[bán đảo Đông Dương]] và lân cận. Ngày nay vùng này ở trong lãnh thổ của [[Thái Lan]], [[Lào]], bắc [[Việt Nam]], bắc [[Campuchia]], phía nam [[tỉnh Vân Nam]] và tây tỉnh [[Quảng Tây]] [[Trung Quốc]], [[Myanmar]], và bang [[Assam]] ở đông bắc [[Ấn Độ]]. <ref>Nhiều người nghĩ rằng ''bản'' và ''mường'' cũng được sử dụng trong vùng [[người Mường]], tuy nhiên đơn vị hành chính dưới cấp xã ở vùng dân tộc Mường lại là ''xóm'' (tương đương với ''bản'' của người Thái), còn ''mường'' tương đương với một xã, vài xã, thậm chí vài huyện. Ví dụ như [[Phong Phú, Tân Lạc|xã Phong Phú]], huyện [[Tân Lạc]], tỉnh [[Hòa Bình|Hoà Bình]] là vùng dân tộc Mường, gồm có các xóm: Lồ, Trọng, Đóng, Ải, Lũy, Vặn, Mận, Lầm và xóm Khu Phố.</ref>


[[Tập tin:Taikadai-en.svg|thumb|300px|<center>Phân bố của [[ngữ hệ Tai-Kadai]]</center>]]
[[Tập tin:Taikadai-en.svg|thumb|270px|<center>Phân bố của [[ngữ hệ Tai-Kadai]]</center>]]
== Từ nguyên ==
== Từ nguyên ==


Dòng 10: Dòng 10:
"Bản" tương đương với [[làng]] hay [[thôn]] của [[người Kinh]], với ''buôn'' (plei) ở [[Tây Nguyên]], [[Sóc (khu dân cư)|''sóc'']] ở vùng [[người Khmer]], và thường được dịch sang [[tiếng Anh]] là ''hamlet''.
"Bản" tương đương với [[làng]] hay [[thôn]] của [[người Kinh]], với ''buôn'' (plei) ở [[Tây Nguyên]], [[Sóc (khu dân cư)|''sóc'']] ở vùng [[người Khmer]], và thường được dịch sang [[tiếng Anh]] là ''hamlet''.


Chú ý phân biệt rằng "''mường''" ([[muang]]) và "''chiềng''" (chiang, xiang, xieng), cấp độ cao hơn của khu dân cư gồm nhiều bản, và tương đương với xã, tổng (liên xã) hoặc huyện. Điều này hiện tồn tại ở [[Thái Lan]], [[Lào]], nhưng không còn sử dụng ở Việt Nam.
Cấp độ cao hơn của khu dân cư, gồm nhiều bản, là "''mường''" ([[muang]]) và "''chiềng''" (chiang, xiang, xieng), thể tương đương với xã, tổng (liên xã) hoặc huyện ở vùng của [[người Kinh]]. Điều này hiện tồn tại ở [[Lào]], nhưng không còn sử dụng ở Việt Nam và [[Thái Lan]].

Qua biến động lịch sử lâu dài thì một bản (hay mường, chiềng) có thể đã phát triển hay thu hẹp, và có thể thay đổi về sắc tộc đến cư trú nhưng vẫn giữ địa danh như cũ.


Ngày nay tại [[Thái Lan]], [[Lào]] thì ''ban'' được đặt trước tên chính thức của bản, tạo ra địa chỉ. Ví dụ thị trấn Lak Sao trên Đường 8 bên Lào, lối [[cửa khẩu Cầu Treo]], [[Hà Tĩnh]] sang, được ghi là "Ban Lak Sao".
Ngày nay tại [[Thái Lan]], [[Lào]] thì ''ban'' được đặt trước tên chính thức của bản, tạo ra địa chỉ. Ví dụ thị trấn Lak Sao trên Đường 8 bên Lào, lối [[cửa khẩu Cầu Treo]], [[Hà Tĩnh]] sang, được ghi là "Ban Lak Sao".
Dòng 32: Dòng 34:


==Bản ở Lào==
==Bản ở Lào==
{{chính|Phân cấp hành chính Lào}}
Tại Lào hệ thống phân cấp hành chính chủ yếu chia ra 4 cấp, trừ một số đơn vị đặc biệt:
Tại Lào hệ thống phân cấp hành chính chủ yếu chia ra 4 cấp, trừ một số đơn vị đặc biệt:
# Trung ương;
# Trung ương;
Dòng 42: Dòng 45:


Mặt khác sự phát triển kinh tế văn hóa dẫn đến hình thành các vùng đô thị hóa, các thị trấn,... Những vùng này bao gồm phần đất của nhiều bản.
Mặt khác sự phát triển kinh tế văn hóa dẫn đến hình thành các vùng đô thị hóa, các thị trấn,... Những vùng này bao gồm phần đất của nhiều bản.

==Bản ở Thái Lan==
{{chính|Đơn vị Hành chính của Thái Lan}}


== Tham khảo ==
== Tham khảo ==
Dòng 53: Dòng 59:
*[http://postcode.vnpost.vn/services/search.aspx Tra cứu mã bưu chính Việt Nam]
*[http://postcode.vnpost.vn/services/search.aspx Tra cứu mã bưu chính Việt Nam]


{{Commonscat|Administrate divisions}}
{{Commonscat|Administrative divisions}}
== Liên kết ngoài ==
== Liên kết ngoài ==
* {{TĐBKVN|26698}}
* {{TĐBKVN|26698}}

Phiên bản lúc 01:50, ngày 19 tháng 6 năm 2016

Bản hay Ban khi ghi bằng chữ Latinh, là đơn vị cư trú, đồng thời là đơn vị xã hội cơ sở thấp nhất ở vùng cư trú truyền thống của các dân tộc thuộc ngữ hệ Tai-Kadai.[1]

Về địa lý đó là vùng bắc phần bán đảo Đông Dương và lân cận. Ngày nay vùng này ở trong lãnh thổ của Thái Lan, Lào, bắc Việt Nam, bắc Campuchia, phía nam tỉnh Vân Nam và tây tỉnh Quảng Tây Trung Quốc, Myanmar, và bang Assam ở đông bắc Ấn Độ. [2]

Phân bố của ngữ hệ Tai-Kadai

Từ nguyên

Từ bản được sử dụng trong vùng cư trú của các dân tộc thuộc ngữ hệ Tai-Kadai với ngôn ngữ điển hình là tiếng Thái. Trong tiếng Thái หมู่บ้าน đọc là muban, nhưng thường nói gọn là ban, gồm hai thành phần là หมู่ là nhóm và บ้าน là nhà, từ đó mang ý mới là cấp độ thấp nhất của khu dân cư.

"Bản" tương đương với làng hay thôn của người Kinh, với buôn (plei) ở Tây Nguyên, sóc ở vùng người Khmer, và thường được dịch sang tiếng Anhhamlet.

Cấp độ cao hơn của khu dân cư, gồm nhiều bản, là "mường" (muang) và "chiềng" (chiang, xiang, xieng), có thể tương đương với xã, tổng (liên xã) hoặc huyện ở vùng của người Kinh. Điều này hiện tồn tại ở Lào, nhưng không còn sử dụng ở Việt Nam và Thái Lan.

Qua biến động lịch sử lâu dài thì một bản (hay mường, chiềng) có thể đã phát triển hay thu hẹp, và có thể thay đổi về sắc tộc đến cư trú nhưng vẫn giữ địa danh như cũ.

Ngày nay tại Thái Lan, Lào thì ban được đặt trước tên chính thức của bản, tạo ra địa chỉ. Ví dụ thị trấn Lak Sao trên Đường 8 bên Lào, lối cửa khẩu Cầu Treo, Hà Tĩnh sang, được ghi là "Ban Lak Sao".

Tại Việt Nam và Trung Quốc thì trong vùng cư trú của người Thái, Tày, Nùng, Choang, thói quen nói đã dẫn đến hiện tượng:

  1. Nếu tên bản đã có hai từ trở lên thì không nói "bản" nữa, ví dụ (bản) Nậm Sin, (bản) Cốc Lầy,...
  2. Nếu tên bản chỉ có một từ, thì có nói "bản", ví dụ "bản Phiệt", "bản Cầm",...

Tại Việt Nam điều này dẫn tới khi lập tên xã dựa trên tên của 1 bản trong xã, thì "bản" trở thành thành tố tạo địa danh, ví dụ xã Bản Phiệt, xã Bản Cầm,...

Bản ở Việt Nam

Bản tương đương với làng hay thôn của người Kinh. Số dân trong bản không đồng đều, thường có từ vài chục đến vài ba trăm người với mấy chục nóc nhà và ở rải rác cách nhau vài kilomet. Các bản nhỏ không phát triển thì có thể được quy về "xóm".

Trước đây (trước 1960) mật độ dân cư thấp, bản thường nhỏ, và có thể không có ranh giới rõ ràng, đặc biệt là những vùng chưa thực hiện định canh định cư.

Từ khi quản lý đất đai đi vào nề nếp, dân số tăng, thì bản có ranh giới lãnh thổ được xác định rõ ràng. Ở đó có nơi cư trú, canh tác, bãi chăn thả súc vật, rừng, sông suối, nghĩa địa, v.v. Trong bản thường có một họ gốc, họ lớn.

Trước đây, đứng đầu là trưởng bản, điều hành công việc theo tập quán và tinh thần cộng đồng.

Ngày nay một đơn vị hành chính cấp xã gồm nhiều bản. Tuy nhiên nếu bản lớn thì có thể xã chỉ có một bản.

Bản ở Lào

Tại Lào hệ thống phân cấp hành chính chủ yếu chia ra 4 cấp, trừ một số đơn vị đặc biệt:

  1. Trung ương;
  2. Tỉnh (tiếng Lào: ແຂວງ - khwaeng hoặc khoueng)
  3. Muang (tiếng Lào: ເມືອງ; mường hay huyện);
  4. Ban.

"Ban" được xếp là đơn vị dân cư cơ sở, có tư cách và con dấu hành chính. Đứng đầu "ban" là trưởng bản do dân bầu ra và sau đó phải được chính quyền cấp trên xét công nhận. Quan hệ "Muang - Ban" thể hiện như truyền thống lâu đời, và tất nhiên được áp dụng trên cả vùng các dân tộc phi Tai-Kadai khác.

Sự phát triển không đồng đều của từng bản, sự khác nhau giữa vùng thấp là đồng bằng thềm sông Mekong với vùng cao, dẫn đến quy mô bản hết sức khác nhau. Các bản vùng cao ở muang Ta Oy, Dak Cheung,... tại Nam Lào chỉ có vài nóc nhà với hai chục người, trong khi ở thềm sông Mekong có đến trăm hộ.

Mặt khác sự phát triển kinh tế văn hóa dẫn đến hình thành các vùng đô thị hóa, các thị trấn,... Những vùng này bao gồm phần đất của nhiều bản.

Bản ở Thái Lan

Tham khảo

  1. ^ Curzon Pr. (2007). Tai-kadai Languages. ISBN 978-0-7007-1457-5.
  2. ^ Nhiều người nghĩ rằng bảnmường cũng được sử dụng trong vùng người Mường, tuy nhiên đơn vị hành chính dưới cấp xã ở vùng dân tộc Mường lại là xóm (tương đương với bản của người Thái), còn mường tương đương với một xã, vài xã, thậm chí vài huyện. Ví dụ như xã Phong Phú, huyện Tân Lạc, tỉnh Hoà Bình là vùng dân tộc Mường, gồm có các xóm: Lồ, Trọng, Đóng, Ải, Lũy, Vặn, Mận, Lầm và xóm Khu Phố.

Xem thêm

Liên kết ngoài