Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tuồng”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n replaced: ( → ( (8), Chủ Tịch → Chủ tịch using AWB
Dòng 36: Dòng 36:
Ngôn ngữ ca ngâm thì dùng giọng thật to, thật cao và rõ. Điệu hát quan trọng nhất trong hát bội là "nói lối", tức là nói một lúc rồi hát, thường để mở đầu cho các khúc hát khác. "Nói lối" có hai giọng chính là "Xuân" và "Ai". "Xuân" là giọng hát vui tươi, còn "Ai" là bi thương, ảo não. Nói lối giọng Ai còn được gọi là "lối rịn". Ngoài ra còn có những "lối hằng", "lối hường", "lối giậm".
Ngôn ngữ ca ngâm thì dùng giọng thật to, thật cao và rõ. Điệu hát quan trọng nhất trong hát bội là "nói lối", tức là nói một lúc rồi hát, thường để mở đầu cho các khúc hát khác. "Nói lối" có hai giọng chính là "Xuân" và "Ai". "Xuân" là giọng hát vui tươi, còn "Ai" là bi thương, ảo não. Nói lối giọng Ai còn được gọi là "lối rịn". Ngoài ra còn có những "lối hằng", "lối hường", "lối giậm".


Các điệu
Hát thì có những điệu "Nam", "Khách", "thán", "oán", và "ngâm".

'''Khách:''' khách thường, Phú lục, xướng, Ngâm, Tẩu Mã,

'''Nam''': Nam ai, Nam xuân,

Nói lối, Hường, Tán,


Tuồng có yêu cầu đặc biệt là phải hát " thổ tận can tràng", đòi hỏi người hát hết sức cố gắng. Về Tuồng bắc, lối hát nhẹ hơn Tuồng Nam Trung bộ. Tuồng Nam Trung bộ hát to và vang, cao nên thường gọi là Tuồng "thét"
Tuồng có yêu cầu đặc biệt là phải hát " thổ tận can tràng", đòi hỏi người hát hết sức cố gắng. Về Tuồng bắc, lối hát nhẹ hơn Tuồng Nam Trung bộ. Tuồng Nam Trung bộ hát to và vang, cao nên thường gọi là Tuồng "thét"
Dòng 62: Dòng 68:
Trang phục Tuồng có vài nét tương tự Hí kịch Trung Quốc, như mão lông [[Trĩ đỏ khoang cổ|trĩ]], cờ lệnh sau lưng, vạt che trước, tuy nhiên trang phục Tuồng vẫn gần gũi với trang phục dân tộc Việt Nam và thường đơn giản, dễ dàng cho nghệ sĩ biểu diễn có thể lăn lộn, múa.
Trang phục Tuồng có vài nét tương tự Hí kịch Trung Quốc, như mão lông [[Trĩ đỏ khoang cổ|trĩ]], cờ lệnh sau lưng, vạt che trước, tuy nhiên trang phục Tuồng vẫn gần gũi với trang phục dân tộc Việt Nam và thường đơn giản, dễ dàng cho nghệ sĩ biểu diễn có thể lăn lộn, múa.


Áo giáp, áo thụng, áo đào văn, mão rồng, mão phụng, hia, đai lưng
Đạo cụ Tuồng thường có kiếm, đao, thương, búa, quạt, kim giản, roi ngựa,...[[Hình:Y phục dùng trong hát tuồng.jpg|nhỏ|200px|phải|Một số y phục dùng trong hát tuồng]]

Đạo cụ Tuồng thường có kiếm, đao, thương, búa, quạt, cờ, kim giản, roi ngựa, phất trần, đuốc, bầu rượu...[[Hình:Y phục dùng trong hát tuồng.jpg|nhỏ|200px|phải|Một số y phục dùng trong hát tuồng]]


[[Hình:Hatboie9.jpg|nhỏ|200px|phải|Hai diễn viên hát bội vào đầu thế kỷ 20]]
[[Hình:Hatboie9.jpg|nhỏ|200px|phải|Hai diễn viên hát bội vào đầu thế kỷ 20]]
== Dàn nhạc ==
== Dàn nhạc ==
Dàn nhạc dùng trong hát bội gồm có những nhạc cụ như: [[trống chiến]], [[đồng la]], kèn, [[đờn cò]] và có khi [[Sáo (nhạc cụ)|ống sáo]]. Dàn nhạc được đặt bên tay phải sân khấu (từ trong nhìn ra). Tay phải ứng với cửa "sinh" trong khi bên trái là cửa "tử".<ref>Trần Văn Khê. tr 302.</ref>
Dàn nhạc dùng trong hát bội gồm có những nhạc cụ như: [[trống chiến]], [[đồng la]], kèn, [[đờn cò|đàn cò]] và có khi [[Sáo (nhạc cụ)|ống sáo]]. Dàn nhạc được đặt bên tay phải sân khấu (từ trong nhìn ra). Tay phải ứng với cửa "sinh" trong khi bên trái là cửa "tử".<ref>Trần Văn Khê. tr 302.</ref>


Nếu là đám hát do tư nhân mướn để mua vui, khao vọng thì lại có một cỗ trống nhỏ gọi là ''trốnng lèo'' dành riêng cho các thân hào uy tín đến xem hát mà đánh chấm những câu hát hay. Người đánh trống lèo cũng phải đem theo tiền riêng để thưởng diễn viên.<ref name="Hà"/>
Nếu là đám hát do tư nhân mướn để mua vui, khao vọng thì lại có một cỗ trống nhỏ gọi là ''trống lèo'' dành riêng cho các thân hào uy tín đến xem hát mà đánh chấm những câu hát hay. Người đánh trống lèo cũng phải đem theo tiền riêng để thưởng diễn viên.<ref name="Hà"/>


==Tưởng thưởng==
==Tưởng thưởng==
Dòng 99: Dòng 107:
=== Những vở tuồng nổi tiếng ===
=== Những vở tuồng nổi tiếng ===
*''Sơn Hậu''
*''Sơn Hậu''
Với các trích đoạn hay như Ôn Đình chém Tá., Kim Lân thượng thành, Đổng Kim Lân biệt mẫu, Kim Lân qua đèo
Với các trích đoạn hay như Ôn Đình chém Tá., Kim Lân thượng thành, Đổng Kim Lân biệt mẫu, Kim Lân qua đèo, Phàn Định Công đề cờ
*Triệu Đình Long cứu Chúa
*Triệu Đình Long cứu Chúa
*''Tam nữ đồ vương'' ([[thế kỷ 17]])
*''Tam nữ đồ vương'' ([[thế kỷ 17]])
Với các trích đoạn hay như Lão Tạ lăn lửa, Phương Cơ giả điên qua ải, Phàn Định Công đề cờ
Với các trích đoạn hay như Lão Tạ lăn lửa, Phương Cơ giả điên qua ải,
* Trảm Trịnh Ân (Bây giờ thường gọi là Đào Tam Xuân)
* Trảm Trịnh Ân (Bây giờ thường gọi là Đào Tam Xuân)
Với các trích đoạn hay Đào Tam Xuân đề cờ, Cao Hoài Đức rọi đèn,
Với các trích đoạn hay Đào Tam Xuân đề cờ, Cao Hoài Đức rọi đèn,
Dòng 108: Dòng 116:
*''Ngoại tổ dâng đầu'' (soạn giả: [[Nguyễn Hiển Dĩnh]], thế kỷ 19).<ref name="a" />
*''Ngoại tổ dâng đầu'' (soạn giả: [[Nguyễn Hiển Dĩnh]], thế kỷ 19).<ref name="a" />
*Trầm Hương các ([[Đào Tấn]])
*Trầm Hương các ([[Đào Tấn]])
Với trích đoạn Đát Kỷ đoạt hồn, thường bị nhiều đoàn hát tránh diễn vì sợ ma quỷ
Với trích đoạn Hồ ly đoạt hồn, thường bị nhiều đoàn hát tránh diễn vì sợ ma quỷ
*''Phụng Nghi Đình''
*''Phụng Nghi Đình''
*''Đào Phi Phụng''
*''Đào Phi Phụng''

Phiên bản lúc 06:13, ngày 26 tháng 7 năm 2017

Diễn viên Tả Giang trong vai Lữ Bố, vở Phụng Nghi Đình 1960 diễn ở Sài Gòn

Tuồng, tức hát bộ, còn gọi là hát bội hay luông tuồng là một loại kịch hát cổ truyền ở Việt Nam.

Lịch sử

Theo nhiều học giả, Tuồng xuất phát từ ca vũ dân tộc Việt Nam, song trong quá trình phát triển, Tuồng đã tiếp nhận nhiều trình thức biểu diễn và hóa trang của Hí Kịch Trung Quốc.

Lối hát tuồng du nhập vào Việt Nam vào thời điểm nào chưa được minh xác nhưng có truyền thuyết ghi rằng vào thời Tiền Lê năm 1005, một kép hát người Hoa tên là Liêu Thủ Tâm đến Hoa Lư và trình bày lối hát xướng thịnh hành bên nhà Tống và được vua Lê Long Đĩnh thâu dụng, bổ là phường trưởng để dạy cung nữ ca hát trong cung.[1]

Sang thời nhà Trần, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn bắt được một tên quân nhà Nguyên tên là Lý Nguyên Cát vốn là kép hát. Vương tha tội chết cho Cát và sai dạy lối hát đó cho binh sĩ. Cát cho diễn vở Vương mẫu hiến đào để vua ngự lãm cùng các triều thần xem. Ai cũng cho là hay.[1] Các loại vai diễn cũng theo sự kiện này lần đầu được ghi nhận, như đán nương (đào), châu tử (tướng), sửu nô (hề),..

Tuy nhiên người đầu tiên đặt nền móng cho nghệ thuật tuồng Việt Nam là Đào Duy Từ (1572-1634). Ở Miền Trung Việt Nam trở ra gọi Tuồng do chữ "Liên Trường" là kéo dài liên tiếp thành một vở tuồng tích có khởi đầu truyện, có hồi kết cuộc, phân biệt với các ca diễn từng bài ngắn, từng trích đoạn. Từ "liên trường" do ngôn ngữ địa phương mà thành "luông tuồng", "luôn tuồng"... Còn trở vào trong, được gọi là Hát Bội hay Bộ.

Vào thời Nguyễn, Tuồng đạt tới đỉnh cao khi được các vị vua yêu thích, cho soạn vở, mở trường đào tạo nghệ sĩ. Hàng loạt tên tuổi lớn soạn Tuồng như Đào Tấn,...đã tạo nên nhiều tác phẩm lớn. Trong dân gian, Tuồng cũng có sức ảnh hưởng lớn, đặc biệt ở Bình Định. Ca dao có câu

" Bỏ cửa bỏ nhà vì ma hát Bội"

Sang thế kỷ 20 với sự ra đời của cải lươngkịch nói thu hút nhiều khán giả, nghệ thuật tuồng suy yếu nhiều tuy có cố gắng phục hưng với loại tuồng xuân nữ, tức là tuồng diễn theo đề tài xã hội tân thời và hát theo điệu "xuân nữ". Loại tuồng này pha phong cách cải lương, đánh võ Tàu... Dù vậy giới hâm mộ tuồng càng ngày càng ít.[2].

Hà Nội vào đầu thế kỷ 20 có một rạp hát riêng diễn tuồng hát bội, gọi là rạp Quảng Lạc. Lối diễn thì giống như lối tuồng miền Trung cả.[3]

Tới những năm khi Chính phủ VNDCCH thành lập, ban đầu Tuồng bị coi là tàn dư phong kiến, nhưng sau đó đã được đánh giá nghiêm túc và được chính Chủ tịch Hồ Chí Minh xem và khen ngợi, Tuồng trở thành loại hình sân khấu được công nhận là đặc sắc và được phát triển, với sự tập hợp các nghệ nhân Bắc, Trung, Nam, thành lập các đoàn hát và mở lớp truyền thụ, xuất hiện hàng loạt nhà nghiên cứu, các nghệ sĩ tiếp tục kế thừa và sáng tạo vốn quý của nghệ thuật Việt Nam, là một trong những loại hình sân khấu chủ yếu của Việt Nam suốt thế kỉ 20, được công chúng yêu thích.

Tuy nhiên, cũng như nhiều loại hình nghệ thuật cổ truyền khác của Việt Nam, bước vào thời kì hội nhập, từ những năm 90 của thế kỉ XX, Tuồng đang mất dần vị thế và khán giả, thiếu hụt nhân lực và có nguy cơ mai một.

Diễn xuất

Hát tuồng trong lễ Kỳ yên tại đình Mỹ Phước (Long Xuyên) năm 2010

Lối diễn xuất của Tuồng nặng tính ước lệ và trình thức, tức là loại sân khấu ước lệ, cách biểu diễn khuếch đại hơn sự thật ngoài đời để khán giả dễ cảm nhận. Các động tác càng nhỏ càng nhanh, khi lên sân khấu càng cần tăng cường điệu thì khán giả mới kịp nhận thấy. Kiểu cách đi đứng còn dùng để biểu lộ cái "tâm" của nhân vật thiện, ác. Nhất là vào thời trước khi kỹ thuật âm thanh và ánh sáng chưa đáp ứng được cho nghệ thuật trình diễn, hình ảnh diễn xuất chưa thể kéo lại nhìn gần, không thể "trung cảnh", "cận cảnh", làm tăng cường độ các động tác giúp khán giả xem được toàn cảnh, dù ngồi xa hay gần chiếu diễn (sân khấu) đều nhìn thấy.

Tuồng đặc sắc và có tính bác học cao nhất phải kể tới Tuồng Bình Định và Tuồng Huế, với lối diễn xuất, hát múa đạt tới đỉnh cao, giàu giá trị và tinh vi.

Mỗi loại nhân vật của Tuồng lại có một lối diễn khác nhau, chính diện thường ngay thẳng, cương trực, đi đứng đàng hoàng, còn phản diện thì gian xảo, láo liên, uốn éo. Nhất nhất đều phân thành từng bộ riêng, không thể diễn bộ "Trung" cho vai "Nịnh". Thậm chí lên ngựa xuống ngựa còn phân biệt Bộ của trung tướng khác bộ dạng nịnh thần. Mọi động tác đã thành thông lệ hay ước lệ.

Lối múa, đi và đứng có những động tác cách điệu, trong nghề gọi là , xiên, lỉalăn[4], khai, ký, cầu, bẻ lông trĩ, bẻ cờ,...

Điệu hát

Ngôn ngữ ca ngâm thì dùng giọng thật to, thật cao và rõ. Điệu hát quan trọng nhất trong hát bội là "nói lối", tức là nói một lúc rồi hát, thường để mở đầu cho các khúc hát khác. "Nói lối" có hai giọng chính là "Xuân" và "Ai". "Xuân" là giọng hát vui tươi, còn "Ai" là bi thương, ảo não. Nói lối giọng Ai còn được gọi là "lối rịn". Ngoài ra còn có những "lối hằng", "lối hường", "lối giậm".

Các điệu

Khách: khách thường, Phú lục, xướng, Ngâm, Tẩu Mã,

Nam: Nam ai, Nam xuân,

Nói lối, Hường, Tán,

Tuồng có yêu cầu đặc biệt là phải hát " thổ tận can tràng", đòi hỏi người hát hết sức cố gắng. Về Tuồng bắc, lối hát nhẹ hơn Tuồng Nam Trung bộ. Tuồng Nam Trung bộ hát to và vang, cao nên thường gọi là Tuồng "thét"

Ngoài các điệu đặc trưng của mình, Tuồng còn có cả dân ca Trung bộ.

Hóa trang

Tuồng là loại hình sân khấu ước lệ, vậy nên cách hóa trang của Tuồng cũng đặc biệt, nhằm để thể hiện rõ các tuyến nhân vật, tương tự mục đích hóa trang của Hí kịch Trung Quốc hay Kabuki của Nhật

Các tuyến nhân vật của Tuồng chủ yếu là: Kép, Tướng, Đào, Đào võ, Lão,... với mỗi loại nhân vật lại có cách Hóa trang riêng

Nhìn thoáng qua, Hóa trang của Tuồng khá giống Hí kịch Trung Quốc, xong thực tế, các đường nét rất khác nhau.

Màu sắc dùng để hóa trang trên mặt phổ biến là trắng, đỏ, xanh và màu đen. Mặt trắng (diện mạo đẹp đẽ, tính cách trầm tĩnh), mặt đỏ (người trí dũng, chững chạc), mặt rằn (diện mạo xấu xí, tính cách nóng nảy), mặt tròng xéo đen (tướng phản, hai bên thái dương có vết đỏ là người nóng nảy, nếu tròng xéo đen nền đỏ thắm hay xanh là người vũ dũng), mặt mốc (xu nịnh), mặt lưỡi cày (người đoản hậu, nhát gan)...

Cố NSND Nguyễn Lai đã nghiên cứu, đúc kết từ một số hình ảnh mẫu hóa trang thành các loại mặt: Mặt trắng (diện mạo đẹp đẽ, tính cách trầm tĩnh), mặt đỏ (người trí dũng, chững chạc), mặt rằn (diện mạo xấu xí, tính cách nóng nảy), mặt tròng xéo đen (tướng phản, hai bên thái dương có vết đỏ là người nóng nảy, nếu tròng xéo đen nền đỏ thắm hay xanh là người vũ dũng), mặt mốc (nịnh), mặt lưỡi cày (người đoản hậu, nhát gan).[5]

Ca dao có câu

Người trung mặt đỏ, đôi tròng bạc/ Đứa nịnh râu đen, mấy sợi còi

Trang phục

Phục trang của các nhân vật Tuồng dựa theo kiểu phục trang của vua quan trong triều nếu là các vai vua quan hoặc theo kiểu phục trang của dân dã nếu là người bình thường.

Trang phục Tuồng có vài nét tương tự Hí kịch Trung Quốc, như mão lông trĩ, cờ lệnh sau lưng, vạt che trước, tuy nhiên trang phục Tuồng vẫn gần gũi với trang phục dân tộc Việt Nam và thường đơn giản, dễ dàng cho nghệ sĩ biểu diễn có thể lăn lộn, múa.

Áo giáp, áo thụng, áo đào văn, mão rồng, mão phụng, hia, đai lưng

Đạo cụ Tuồng thường có kiếm, đao, thương, búa, quạt, cờ, kim giản, roi ngựa, phất trần, đuốc, bầu rượu...

Một số y phục dùng trong hát tuồng
Hai diễn viên hát bội vào đầu thế kỷ 20

Dàn nhạc

Dàn nhạc dùng trong hát bội gồm có những nhạc cụ như: trống chiến, đồng la, kèn, đàn cò và có khi ống sáo. Dàn nhạc được đặt bên tay phải sân khấu (từ trong nhìn ra). Tay phải ứng với cửa "sinh" trong khi bên trái là cửa "tử".[6]

Nếu là đám hát do tư nhân mướn để mua vui, khao vọng thì lại có một cỗ trống nhỏ gọi là trống lèo dành riêng cho các thân hào uy tín đến xem hát mà đánh chấm những câu hát hay. Người đánh trống lèo cũng phải đem theo tiền riêng để thưởng diễn viên.[3]

Tưởng thưởng

miền Trung cho đến thập niên 1950 khi đám hát diễn thì người mướn gánh hát đến diễn, dù là tư nhân hay đền miếu, sẽ có sẵn những thẻ thưởng. Thẻ làm bằng tre gọt dẹp thành ba cỡ: lớn (dài ba gang tay, rộng bằng bề ngang hai ngón tay) giá trị một quan, nhỡ (dài hai gang, rộng một ngón rưỡi) giá trị một tiền, và nhỏ (dài gang rưỡi, rộng bề ngang một ngón) giá trị 30 đồng, tức nửa tiền.[3]

Khi đến những màn diễn khéo, giọng hát hay thì chủ nhà ném thẻ lên tấm chiếu trước sân khấu, tiếng thẻ tre nghe lách cách vui tai. Gánh hát sau đó gom thẻ, tính ra giá trị tiền để lãnh tiền thưởng.[3]

Kịch bản và đề tài

Vở tuồng tức bài tuồng là một thể văn riêng trong văn học Việt Nam. Lối trình bày tuồng dùng nhiều thể văn học như Đường thi, phú, song thất lục bátlục bát ghép với lễ nhạc và một số điệu múa.[2] Lời văn thì nhiều khi có vần và có đối.

Khi một vai lên sân khấu thì mở bằng một câu xướng, còn gọi là câu bạch để tự giới thiệu mình. Câu này dùng thể thơ bảy chữ.[7]

Khi kể chuyện thì gọi là câu nói từ bốn đến bảy chữ, có đối, gieo vần cước vận (chữ cuối cùng mỗi câu). Câu kết thì gieo vần trắc.[7]

Khi muốn dứt ý thì hát câu vãn, dùng thể lục bát còn muốn nhấn mạnh ý cho quyết liệt thì hát câu loạn, dùng thể phú hay lục bát.[7]

Khi buồn thì hát câu than, cũng dùng lục bát trong khi vui thì hát câu khách, thường là chữ Nho dùng thể phú.[7]

Tuồng tích trong vở diễn của hát bộ thường là các cổ tích, kịch bản phóng tác từ kinh điển truyện cổ Trung Hoa như Tam Quốc Chí, Vạn Hoa Lầu, Ngũ Hổ Bình Tây... Tuồng tích đã sẵn trong sách nên người xem phần lớn đều biết rành kịch tình và đến rạp chỉ xem kịch tính của các nghệ sĩ và đạo diễn mà thôi. Loại này cũng được xem là tuồng pho. Tuồng pho thì theo sát đạo lý, có thể tóm tắt là:

Phụ tử đắc kỳ hiếu
Quân thần tận kỳ trung
Phu phụ đơn kỳ thuận
Bằng hữu chi kỳ tín
Huynh đệ toàn kỳ cung.[1]

Ngoài ra thì có tuồng hài với cốt truyện tự do hơn, không nhất thiết đề cao đạo lý tam cương ngũ thường như tuồng pho [8]

Thầy tuồng, tức đạo diễn, hay còn gọi là nhưng tuồng là người chọn vở tuồng cùng cách diễn cho kép đóng đúng vai. Thơ tuồng là người thuộc lời để nhắc tuồng khi các diễn viên lên sân khấu. Kép chính thì tên trong nghề gọi là biện tuồng.[1]

Những vở tuồng nổi tiếng

  • Sơn Hậu

Với các trích đoạn hay như Ôn Đình chém Tá., Kim Lân thượng thành, Đổng Kim Lân biệt mẫu, Kim Lân qua đèo, Phàn Định Công đề cờ

  • Triệu Đình Long cứu Chúa
  • Tam nữ đồ vương (thế kỷ 17)

Với các trích đoạn hay như Lão Tạ lăn lửa, Phương Cơ giả điên qua ải,

  • Trảm Trịnh Ân (Bây giờ thường gọi là Đào Tam Xuân)

Với các trích đoạn hay Đào Tam Xuân đề cờ, Cao Hoài Đức rọi đèn,

Với trích đoạn Hồ ly đoạt hồn, thường bị nhiều đoàn hát tránh diễn vì sợ ma quỷ

  • Phụng Nghi Đình
  • Đào Phi Phụng

Với các trích đoạn Châu Xương cấy râu

  • Lý Thiên Luông
  • Lý Phụng Đình
  • Võ Tam Tư trảm Cáo (Hồ Nguyệt Cô hóa cáo)
  • Hộ sanh đàn (Tác giả Đào Tấn)

Với lớp Tiết Cương chống búa, Lan Anh lạc đẻ,

  • Nghêu sò ốc hến (Tuồng hài dân gian)

Những diễn viên Tuồng nổi tiếng

  1. CÁC NGHỆ SĨ NHÂN DÂN
  • NSND Bạch Trà
  • NSND Quang Tốn
  • NSND Ngô Thị Liễu
  • NSND Nguyễn Nho Túy (Đội Tảo)
  • NSND Phạm Chương
  • NSND Nguyễn Phẩm
  • NSND Sáu Lai
  • NSND Võ Sĩ Thừa
  • NSND Nguyễn Ngọc Phương (Nguyên Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Nguyên Cục trưởng Cục NTBD, Nguyên Giám đốc Nhà hát Tuồng Việt Nam)
  • NSND Lê Tiến Thọ (Nguyên Thứ trưởng Bộ VHTTDL, Nguyên Cục trưởng Cục NTBD, Nguyên Giám đốc Nhà hát Tuồng Việt Nam, Chủ tịch Hội NSSK Việt Nam)
  • NSND Mẫn Thu (Nhà hát Tuồng Việt Nam)
  • NSND Đàm Liên (Nhà hát Tuồng Việt Nam)
  • NSND Hoàng Khiềm (Nguyên Giám đốc Nhà hát Tuồng Việt Nam)
  • NSND Minh Ngọc (Nhà hát Tuồng Việt Nam)
  • NSND Hoà Bình (Nhà hát Tuồng Đào Tấn)
  • NSND Trần Đình Sanh (Nhà hát Tuồng Đào Tấn)
  • NSND Gia Khoản (Phó Giám đốc Nhà hát Tuồng Việt Nam)
  • NSND Minh Gái (Nhà hát Tuồng Việt Nam)
  • NSND Hồng Khiêm (Nhà hát Tuồng Việt Nam)
  • NSND Xuân Hội (Nhà nhát tuồng Đào Tấn, Bình Định)
  • NSND Phương Thảo (Nhà nhát tuồng Đào Tấn, Bình Định)

2. CÁC NGHỆ SĨ ƯU TÚ

  • NSUT Kim Cúc
  • NSUT Hương Thơm
  • NSUT Hán Văn Tình

Những đạo diễn Tuồng nổi tiếng

  • NSND Ngọc Phương (Dàn dựng trên 200 vở Tuồng)
  • NSND Lê Tiến Thọ
  • NSND Hoàng Khiềm
  • NSUT Tạ Tạo
  • Đặng Bá Tài
  • Đoàn Anh Thắng

Những soạn giả Tuồng nổi tiếng

Các đoàn Tuồng chuyên nghiệp

Nghệ thuật sân khấu truyền thống Tuồng có 07 đơn vị phân bố ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam, trong đó có 04 nhà hát, 01 Đoàn nghệ thuật và 02 đoàn nghệ thuật trực thuộc nhà hát gồm:

  • Nhà hát Tuồng Việt Nam;
  • Nhà hát Nghệ thuật truyền thống cung đình Huế.
  • Nhà hát Tuồng Đào Tấn;
  • Nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh
  • Nhà hát Nghệ thuật Hát Bội Tp. HCM
  • Đoàn Nghệ thuật Tuồng Thanh Hóa;
  • Đoàn Tuồng thuộc Nhà hát Nghệ thuật truyền thống Khánh Hòa.

Hình ảnh

Xem thêm

Tham khảo và chú thích

  1. ^ a b c d e "Hát bội". Thế giới Tự do Tập Tập X Số 8. Sài Gòn: Sở Thông tin Hoa Kỳ, 1961. tr 25
  2. ^ a b Theo Hoàng Chương, "Tóm tắt về hành trình sân khấu Việt Nam" in trong Văn hóa Việt Nam tổng hợp 1989-1995, Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương, Hà Nội, 1989.
  3. ^ a b c d Hà Ngại. Khúc tiêu đồng, hồi ký của một vị quan triều Nguyễn. TP HCM: Nhà xuất bản Trẻ, 2014. Tr 73-8
  4. ^ Trần Văn Khê. tr 304.
  5. ^ “Nhận biết dạng nhân vật trong tuồng qua kiểu vẽ mặt”.
  6. ^ Trần Văn Khê. tr 302.
  7. ^ a b c d Dương Quảng Hàm. Quốc văn trích diễm. Paris: Institut de l'Asie du Sud-est, 1989. tráng77
  8. ^ Thông tin liên quan: Theo Vũ Đức Sao Biển, tuồng có hai thứ: Tuồng pho và tuồng đồ. 1/ Tuồng pho là những vở tuồng chính quy, lấy sự tích từ trong sử sách (phần lớn là của Trung Quốc) để viết ra, như: Phụng Nghi đình, Sơn hậu, Lưu Kim Đính giải giá Thọ Châu, v.v… Văn chương ở đây là văn chương bác học, có rất nhiều câu chữ Hán. 2/ Tuồng đồ là những vở tuồng được viết bằng chữ Nôm hay Quốc ngữ, nội dung lấy từ những sự tích văn chương trong văn học Việt Nam rồi cải biên thành tuồng. Tuồng đồ nặng về giải trí, giàu tính hài hước nên đáp ứng đông đảo thị hiếu và trình độ thưởng ngoạn của người bình dân. Thí dụ như các tuồng: Nghêu sò óc hến, Trần Bồ, Trinh thử, v.v...Các tác giả tuồng đồ thường không để lại danh tính, có lẽ vì mặc cảm cải biên từ văn chương người khác ("Hát bội Quảng Nam", tr. 92).

Liên kết ngoài