Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bạc má lớn”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 105: Dòng 105:


Chim con được cho ăn khoảng {{convert|6|to(-)|7|g|oz|abbr=on}} thức ăn mỗi ngày.<ref name="HBW" /> Cả chim bố và mẹ đều cho chim con ăn, và vệ sinh tổ bằng cách loại bỏ phân. Không có sự khác biệt về nỗ lực kiếm ăn giữa hai giới.<ref>{{cite journal|last1=Wilkin|first1=Teddy A.|last2=King|first2=Lucy E.|last3=Sheldon|first3=Ben C.|date=2009|title=Habitat quality, nestling diet, and provisioning behaviour in great tits ''Parus major''|journal=Journal of Avian Biology|volume=40|issue=2|pages=135–145|doi=10.1111/j.1600-048X.2009.04362.x}}</ref> Thời gian ở tổ của chim con kéo dài từ 16 đến 22 ngày, và độc lập với bố mẹ tám ngày sau [[:en:Fledge|khi biết bay]]. Việc cho chim non ăn có thể tiếp tục sau khi chim con độc lập, kéo dài đến 25 ngày ở lứa chim con đầu tiên, nhưng lên đến 50 ngày ở lứa thứ hai.<ref name="HBW" /> Những cá thể con từ lứa thứ hai có hệ thống miễn dịch và tình trạng cơ thể yếu hơn so với những con từ lứa đầu tiên, do đó chim con có tỷ lệ sống sót thấp hơn.<ref name="cjz">{{cite journal|last1=Dubiec|first1=Anna|last2=Cichoñ|first2=Mariusz|date=2001|title=Seasonal decline in health status of Great Tit (''Parus major'') nestlings|journal=Canadian Journal of Zoology|volume=79|issue=10|pages=1829–1833|doi=10.1139/cjz-79-10-1829}}</ref>
Chim con được cho ăn khoảng {{convert|6|to(-)|7|g|oz|abbr=on}} thức ăn mỗi ngày.<ref name="HBW" /> Cả chim bố và mẹ đều cho chim con ăn, và vệ sinh tổ bằng cách loại bỏ phân. Không có sự khác biệt về nỗ lực kiếm ăn giữa hai giới.<ref>{{cite journal|last1=Wilkin|first1=Teddy A.|last2=King|first2=Lucy E.|last3=Sheldon|first3=Ben C.|date=2009|title=Habitat quality, nestling diet, and provisioning behaviour in great tits ''Parus major''|journal=Journal of Avian Biology|volume=40|issue=2|pages=135–145|doi=10.1111/j.1600-048X.2009.04362.x}}</ref> Thời gian ở tổ của chim con kéo dài từ 16 đến 22 ngày, và độc lập với bố mẹ tám ngày sau [[:en:Fledge|khi biết bay]]. Việc cho chim non ăn có thể tiếp tục sau khi chim con độc lập, kéo dài đến 25 ngày ở lứa chim con đầu tiên, nhưng lên đến 50 ngày ở lứa thứ hai.<ref name="HBW" /> Những cá thể con từ lứa thứ hai có hệ thống miễn dịch và tình trạng cơ thể yếu hơn so với những con từ lứa đầu tiên, do đó chim con có tỷ lệ sống sót thấp hơn.<ref name="cjz">{{cite journal|last1=Dubiec|first1=Anna|last2=Cichoñ|first2=Mariusz|date=2001|title=Seasonal decline in health status of Great Tit (''Parus major'') nestlings|journal=Canadian Journal of Zoology|volume=79|issue=10|pages=1829–1833|doi=10.1139/cjz-79-10-1829}}</ref>

[[Thoái hóa giống]] ở bạc má lớn xảy ra khi chim con được tạo ra do sự giao phối giữa những cá thể có họ hàng gần. Thể lực giảm sút thường được coi là hậu quả của sự gia tăng biểu hiện của các [[alen]] lặn có hại ở những con chim con này. Trong các quần thể tự nhiên của ''P. major'', giao phối cận huyết được loại bỏ bằng cách phân tán các cá thể khỏi nơi sinh của chúng, điều này làm giảm nguy cơ giao phối với họ hàng gần.<ref name="pmid18211876">{{cite journal|vauthors=Szulkin M, Sheldon BC|year=2008|title=Dispersal as a means of inbreeding avoidance in a wild bird population|journal=Proc. Biol. Sci.|volume=275|issue=1635|pages=703–11|doi=10.1098/rspb.2007.0989|pmc=2596843|pmid=18211876}}</ref>

=== Sinh thái học ===
[[Cắt hỏa mai]] là loài săn bạc má lớn. Những cá thể con từ lứa thứ hai có nguy cơ cao bị tấn công hơn, một phần là do loài diều hâu này cần nhiều thức ăn hơn cho con non đang phát triển của chính chúng.<ref name="gotmark1">{{cite journal|last=Götmark|first=Frank|author2=Andersson|year=2005|title=Predation by sparrowhawks decreases with increased breeding density in a songbird, the great tit|journal=Oecologia|volume=142|issue=2|pages=177–183|bibcode=2005Oecol.142..177G|doi=10.1007/s00442-004-1715-z|pmid=15480803|s2cid=35611518}}</ref><ref name="gotmark2">{{cite journal|last=Götmark|first=Frank|year=2002|title=Predation by sparrowhawks favours early breeding and small broods in great tits|journal=Oecologia|volume=130|issue=1|pages=25–32|bibcode=2002Oecol.130...25G|doi=10.1007/s004420100769|pmid=28547022|s2cid=19909152}}</ref> Tổ của bạc má lớn thường bị [[Gõ kiến nhỏ sườn đỏ|gõ kiến ​​nhỏ sườn đỏ]] tấn công, đặc biệt là các tổ trong một số loại hộp tổ nhất định.<ref>{{cite journal|last1=Skwarska|first1=Joanna A.|last2=Kalinski|first2=Adam|last3=Wawrzyniak|first3=Jaroslaw|last4=Banbura|first4=Jerzy|year=2009|title=Opportunity makes a predator: Great Spotted Woodpecker predation on Tit broods depends on nest box design|url=https://www.researchgate.net/publication/284718083|journal=Ornis Fennica|volume=86|issue=3|pages=109–112|issn=0030-5685}}</ref> Những loài săn mồi ở tổ khác bao gồm [[sóc xám miền Đông]] [[Loài du nhập|du nhập]] (ở Anh) và [[triết bụng trắng]], và chúng cũng có thể bắt những con trưởng thành ở làm tổ.<ref>{{cite journal|last=Dunn|first=Euan|year=1977|title=Predation by weasels (''Mustela nivalis'') on breeding tits (''Parus'' spp.) in relation to the density of tits and rodents|journal=Journal of Animal Ecology|volume=46|issue=2|pages=633–652|doi=10.2307/3835|jstor=3835}}</ref> Một loài rận ([[Mallophaga]]) được mô tả là ''[[Rostrinirmus hudeci]]'' đã được phân lập và mô tả vào năm 1981 từ bạc má lớn ở trung tâm châu Âu.<ref name="balat">{{cite journal|last=Balat|first=F|year=1981|title=New Species of Biting Lice (Mallophaga) of the genera ''Penenirmus'' and ''Rostrinirmus''|url=http://www.phthiraptera.org/Publications/2318.pdf|journal=Folia Parasitologica|volume=28|pages=161–68|archive-url=https://web.archive.org/web/20081011071314/http://www.phthiraptera.org/Publications/2318.pdf|archive-date=11 October 2008|access-date=12 February 2010|url-status=dead}}</ref> ​​Bọ chét gà mái ''Ceratophyllus gallinae'' cực kỳ phổ biến trong tổ của [[sẻ ngô xanh]] và bạc má lớn. Ban đầu chúng là một loài bọ chét bạc má chuyên biệt, nhưng điều kiện khô ráo, đông đúc của chuồng gà đã giúp nó phát triển mạnh mẽ với vật chủ mới.<ref name="Miriam Rothschild 19532">{{cite book|url=https://archive.org/details/fleasflukescucko017900mbp|title=Fleas, Flukes and Cuckoos. A study of bird parasites.|last1=Rothschild|first1=Miriam|last2=Clay|first2=Theresa|date=1953|publisher=Collins|location=London|pages=111, 249|author-link=Miriam Rothschild|author-link2=Theresa Clay}}</ref> Loài bọ chét này thường bị săn mồi bởi bọ hề ''Gnathoncus punctulatus.''<ref name="Miriam Rothschild 1953" /> Ngoài ra [[bọ cánh cứng]] ''Microglotta pulla'' cũng ăn bọ chét và ấu trùng của chúng. Mặc dù những con bọ cánh cứng này thường ở trong những chiếc tổ bỏ hoang, nhưng chúng chỉ có thể sinh sản ở nhiệt độ cao do chim ấp trứng tạo ra, và bạc má là vật chủ ưa thích. Những cá thể bạc má lớn cạnh tranh với những con [[Ficedula hypoleuca|đớp ruồi châu Âu]] để giành các hộp làm tổ, và có thể giết chết những con đớp ruồi đực có triển vọng. Các vụ cạnh tranh chết chóc xảy ra thường xuyên hơn khi thời gian làm tổ trùng nhau, và [[biến đổi khí hậu]] đã dẫn đến việc làm tổ đồng bộ hơn giữa hai loài và cái chết của đớp ruồi. Sau khi giết chết những con đớp ruồi, các cá thể bạc má lớn có thể ăn não não của chúng.<ref>{{cite journal|last1=Samplonius|first1=Jelmer M.|last2=Both|first2=Christiaan|date=2019|title=Climate Change May Affect Fatal Competition between Two Bird Species|journal=Current Biology|volume=29|issue=2|pages=327–331.e2|doi=10.1016/j.cub.2018.11.063|pmid=30639109|doi-access=free}}</ref>


== Sinh lý học ==
== Sinh lý học ==

Phiên bản lúc 14:01, ngày 15 tháng 4 năm 2023

Bạc má lớn
Con mái ở Lancashire, Anh.
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Aves
Bộ (ordo)Passeriformes
Họ (familia)Paridae
Chi (genus)Parus
Loài (species)P. major
Danh pháp hai phần
Parus major
Linnaeus, 1758
Phạm vi phân bố các phân loài trước đây và hiện tại của bạc má lớn
Phạm vi phân bố các phân loài trước đây và hiện tại của bạc má lớn

Bạc má lớn (danh pháp hai phần: Parus major) là một loài chim trong họ Bạc má. Bạc má lớn là một loài phân bố rộng và phổ biến khắp châu Âu, Trung Đông, Trung Á và phía đông qua Cổ Bắc giới đến sông Amur, phía nam đến một phần của Bắc Phi, nơi chúng phân bố trong mọi loại rừng. Hầu hết bạc má lớn không di trú, ngoại trừ trong mùa đông cực kỳ khắc nghiệt. Cho đến năm 2005, loài này được gộp với rất nhiều phân loài khác. Các nghiên cứu DNA đã cho thấy những phân loài khác có sự khác biệt với loài bạc má lớn, và hiện nay đã được tách ra như là hai loài riêng biệt, bạc má lưng xám (Parus cinereus) của Nam Á, và bạc má Nhật Bản (Parus minor) của Đông Á. Bạc má lớn vẫn là loài phổ biến nhất trong chi Parus.

Bạc má lớn là một loài chim đặc biệt, với đầu đen và cổ, má trắng nổi bật, lưng màu ô liu và phần dưới màu vàng, với một số biến thể ở các phân loài khác nhau. Loài chủ yếu ăn côn trùng vào mùa hè, nhưng lại có một khẩu phần ăn rộng lớn trong những tháng mùa đông, bao gồm cả con dơi nhỏ ngủ đông.[2] Giống như các loài bạc má khác, bạc má lớn làm tổ trong hốc cây. Mỗi tổ khoảng 12 quả trứng và chim mẹ ấp trứng một mình, dù cả chim bố và chim mẹ đều nuôi chim non. Mỗi năm hai lứa. Tổ của chúng có thể bị tấn công bởi gõ kiến nhỏ sườn đỏ, sóc xám miền Đôngtriết bụng trắng và bị ve bét ký sinh. Chim trưởng thành bị cắt hỏa mai săn bắt. Bạc má lớn đã thích nghi tốt với những thay đổi của con người đối với môi trường, và là loài chim phổ biến và quen thuộc trong các công viên và khu vườn đô thị. Bạc má lớn cũng là một loài nghiên cứu quan trọng trong ngành điểu học.

Phân loại

Bạc má lớn Thụy Điển, mùa đông 2016

Bạc má lớn được mô tả bằng danh pháp hai phần hiện tại của loài. Danh pháp do Carl Linnaeus đặt, theo phiên bản thứ 10 của Systema Naturae năm 1758.[3] Tên khoa học của loài có nguồn gốc từ tiếng Latinh: parus (bạc má) và maior (lớn hơn).[4] Francis Willughby đã sử dụng tên này vào thế kỷ 17.[5]

Bạc má lớn trước đây được coi là phân bố từ Anh đến Nhật Bản và phía nam đến các đảo của Indonesia, với 36 phân loài được mô tả thuộc bốn nhóm loài chính. Nhóm major có 13 phân loài trên khắp châu Âu, vùng ôn đới châu Á và Bắc Phi, 9 phân loài của nhóm minor xuất hiện từ đông nam Nga và Nhật Bản đến phía bắc của đông nam châu Á và 11 phân loài trong nhóm cinereus được tìm thấy từ Iran qua Nam Á đến Indonesia . Ba phân loài bokharensis thường được coi là một loài riêng biệt, Parus bokharensis. Hình thức này đã từng được cho là tạo thành một nhóm loài vành đai vòng quanh Cao nguyên Tây Tạng, với dòng gen xuyên suốt các phân loài. Tuy nhiên, lý thuyết này đã bị loại bỏ khi tiến hành kiểm tra các chuỗi DNA ty thể, và đã phát hiện ra rằng bốn nhóm là khác biệt (đơn ngành) và các vùng lai giữa các nhóm là kết quả của quá trình lai thứ cấp sau khoảng thời gian tạm tách biệt nhau.[6][7]

Bird with similar markings to great tit, but colours washed out and greyer, drinks from a leaking tap
11 phân loài của loài Parus cinereus đã từng được gộp chung với loài bạc má lớn. Tuy nhiên, các nghiên cứu về di truyền và âm thanh sinh học gần đây hiện đã tách nhóm đó thành một loài riêng biệt

Một nghiên cứu được công bố vào năm 2005 đã xác nhận rằng nhóm major khác biệt với nhóm cinereus và nhóm minor, và cùng với phân loài P. m. bokharensis tách khỏi hai nhóm này khoảng 1,5 triệu năm trước. Sự khác biệt giữa nhóm bokharensis và các nhóm khác được ước tính là từ khoảng nửa triệu năm trước. Nghiên cứu cũng kiểm tra các giống lai giữa đại diện của các nhóm majorminorThung lũng Amur, nơi có sự giao thoa của hai nhóm. Con lai rất hiếm, cho thấy rằng có một số rào cản sinh sản giữa hai nhóm. Nghiên cứu khuyến nghị rằng hai nhóm phía đông được tách ra thành loài mới, bao gồm: bạc má lưng xám (Parus cinereus) và bạc má Nhật Bản (Parus minor). Riêng bạc má Turkestan thì vẫn được gộp chung với bạc má lớn.[8] Việc phân loại này đã được một số cơ quan có thẩm quyền tuân theo, ví dụ như Danh sách các loài chim thế giới của IOC.[9] Handbook of the Birds of the World thì phân loại các loài thuộc chi Parus theo cách phân loại truyền thống hơn, coi chim bạc má Turkestan là một loài riêng biệt nhưng vẫn gộp bạc má Nhật Bản và bạc má lưng xám với bạc má lớn,[10] một động thái không phải là không bị chỉ trích.[11]

Phân loài đại diện của bạc má lớn là phân loài phổ biến nhất, phạm vi của chúng trải dài từ bán đảo Iberia đến thung lũng Amur và từ Scandinavia đến Trung Đông. Các phân loài khác có phân bố hạn chế hơn nhiều, bốn phân loài bị hạn chế ở các đảo và phần còn lại của phân loài P. m. major cho các quần thể trú ẩn băng hà trước đây. Sự thống trị của một phân loài duy nhất, đồng nhất về mặt hình thái trên một khu vực rộng lớn như vậy cho thấy rằng phân loài được đề cử đã nhanh chóng tái định cư một khu vực rộng lớn sau kỷ băng hà cuối cùng. Giả thuyết này được hỗ trợ bởi các nghiên cứu di truyền cho thấy một nút cổ chai di truyền gần đây về mặt địa chất, dẫn đến sự gia tăng dân số nhanh chóng.[10]

Chi Parus từng bao gồm hầu hết các loài chim bạc má trong họ Paridae, nhưng các nghiên cứu về hình thái và di truyền đã dẫn đến việc chia tách chi lớn vào năm 1998. Bạc má lớn được giữ lại trong Parus, cùng với Cyanistes tạo thành một dòng chim được biết đến với tư cách là "những loài không tích trữ", có liên quan đến tập tính tích trữ của các loài của nhánh khác. Chi Parus vẫn là chi lớn nhất trong họ, nhưng có thể lại bị tách ra.[10] Khác với những loài trước đây được coi là phân loài, họ hàng gần nhất của bạc má lớn là bạc má cánh trắngbạc má lưng xanh ở miền nam châu Á. Các giống lai với các loài ngoài chi Parus rất hiếm, nhưng đã được ghi nhận với sẻ ngô xanh, sẻ ngô than và có thể là bạc má đầm lầy.[12]

Phân loài

Tại Vườn thực vật hoàng gia Kew, Luân Đôn. Phân loài Anh P. m. newtoni.

Hiện có 15 phân loài được công nhận:[10]

Mô tả

duller-plumaged great tit with weak breast and belly stripe
Ở con cái và con non, sọc giữa bụng hẹp hơn và đôi khi không liên tục.

Bạc má lớn có chiều dài từ 12,5 đến 14,0 cm (4,9–5,5 in), và có vẻ ngoài đặc biệt giúp dễ dàng nhận ra. Phân loài đại diện P. major majorđỉnh đầu màu xanh đen, cổ, họng, yếm và đầu màu đen, má và vành tai màu trắng. Ngực có màu vàng chanh sáng và có một sọc rộng màu đen ở giữa chạy từ yếm đến mông. Có một đốm trắng mờ trên cổ chuyển sang màu vàng xanh ở phía trên gáy. Phần còn lại của gáy và lưng có màu xanh ô liu. Phần trên của cánh có màu xanh lá cây, phần còn lại của cánh có màu xám xanh với vạch cánh màu trắng. Đuôi có màu xám xanh với các chóp bên ngoài màu trắng. Bộ lông của con cái tương tự như của con đực ngoại trừ màu sắc tổng thể nhạt hơn, yếm có màu đen ít đậm hơn,[10] cũng như đường chạy xuống bụng cũng hẹp hơn và đôi khi bị đứt.[15] Chim non giống chim mái, ngoại trừ việc chúng có gáy và cổ màu nâu ô liu xỉn, mông màu xám và đuôi xám hơn, với các đầu màu trắng ít xác định hơn.[10]

Great tit with strongly yellow sides perched on twig
Bộ lông của con đực thường sáng hơn, mặc dù điều này thay đổi theo phân loài.

Có một số khác biệt ở các phân loài. P. m. newtoni giống như phân loài đại diện nhưng có mỏ dài hơn một chút, phần trên cánh có màu xanh đậm hơn một chút, đầu đuôi ít màu trắng hơn, và sọc giữa bụng rộng hơn. P. m. corsus cũng giống phân loài đại diện nhưng có phần trên xỉn màu hơn, đuôi ít trắng hơn và gáy ít vàng hơn. P. m. mallorcae giống như phân loài đại diện, nhưng có mỏ lớn hơn, phần trên xanh xám hơn và phần dưới hơi nhạt hơn. P. m. ecki giống như P. m. mallorcae ngoại trừ phần trên xanh hơn và phần dưới nhạt hơn. P. m. excelsus tương tự như phân loài đại diện, nhưng có phần trên có màu xanh lá cây sáng hơn nhiều, phần dưới màu vàng sáng và không có (hoặc rất ít) màu trắng ở đuôi. P. m. aphrodite có phần trên sẫm màu hơn, xám ô liu hơn và phần dưới có màu vàng kem nhạt hơn. P. m. niethammeri tương tự như P. m. aphrodite nhưng phần trên xanh nhạt hơn, còn phần dưới màu vàng nhạt. P. m. terrasanctae giống với hai phân loài trước đó nhưng có phần trên hơi nhạt hơn. P. m. blandfordi giống như phân loài đại diện nhưng có phần trên cánh xám hơn, có phần ngang vai và phần dưới màu vàng nhạt, còn P. m. karelini là trung gian giữa phân loài đại diện và P. m. blandfordi, và thiếu màu trắng ở đuôi. P. m. bokharensis có bộ lông xám hơn nhiều, phần dưới có màu trắng kem nhạt đến xám, một mảng màu trắng lớn hơn, đuôi, cánh, lưng và gáy màu xám. Phân loài cũng nhỏ hơn một chút, mỏ nhỏ hơn nhưng đuôi dài hơn. Điều này cũng tương tự đối với hai phân loài có liên quan trong nhóm bạc má Turkestan. P. m. turkestanicus giống P. m. bokharensis nhưng có mỏ lớn hơn và phần trên sẫm màu hơn. P. m. ferghanensis giống P. m. bokharensis nhưng có mỏ nhỏ hơn, màu xám đậm hơn ở hai bên sườn và màu vàng hơn ở những con chim non.[10]

Bạc mái cái (trái) và đực (phải)

Màu ngực của chim trống đã được chứng minh là có tương quan với việc có tinh trùng khỏe hơ,n và là một cách mà chim trống thể hiện ưu thế sinh sản của mình đối với chim mái. Hàm lượng carotenoid cao hơn làm tăng độ vàng của ngực, đồng thời giúp tinh trùng chống chọi tốt hơn với sự tấn công của các gốc tự do.[16] Chim không thể tổng hợp được carotenoid mà phải lấy từ thức ăn, vì vậy màu sắc tươi sáng ở chim trống chứng tỏ khả năng hấp thụ dinh dưỡng tốt của chúng.[17] Tuy nhiên, độ bão hòa của màu vàng cũng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố môi trường, chẳng hạn như điều kiện thời tiết.[18] Chiều rộng của sọc bụng của con đực, thay đổi theo từng cá thể, được lựa chọn bởi con cái, với những con cái chất lượng cao hơn dường như chọn những con đực có sọc rộng hơn.[15]

Tiếng hót

Tiếng hót của loài
Một kiểu tiếng kêu khác
Tiếng kêu của loài ở dạng quang phổ
Bạc má lớn đang hót

Bạc má lớn, giống như các loài bạc má khác, là một loài chim biết hót, và có tới 40 kiểu kêu và giọng hót. Các tiếng kêu nói chung giống nhau giữa các giới tính, nhưng con đực kêu nhiều hơn và con cái hiếm khi kêu. Các nốt đơn nhẹ như "pit", "spick" hoặc "chit" được sử dụng làm cách gọi liên lạc. Tiếng "tink" lớn được những con đực trưởng thành sử dụng để báo động hoặc trong các cuộc tranh chấp lãnh thổ. Một trong những tiếng kêu quen thuộc nhất là "teacher, teacher", thường được ví như tiếng bánh xe rùa, được sử dụng để tuyên bố quyền sở hữu lãnh thổ.[10] Trước đây, dân gian Anh coi tiếng kêu "mài cưa" là điềm báo trước mưa.[19] Có rất ít sự khác biệt về địa lý trong tiếng kêu, nhưng các cá thể của hai nhóm Nam Á gần đây đã tách khỏi chim bạc má lớn không nhận ra hoặc phản ứng với tiếng kêu của chim bạc má lớn ôn đới.[10]

Một lời giải thích cho tiếng kêu phong phú của bạc má lớn là giả thuyết Beau Geste. Người anh hùng cùng tên của cuốn tiểu thuyết đã chống đỡ những người lính đã chết chống lại các trận địa để tạo ấn tượng rằng pháo đài của anh ta được bảo vệ tốt hơn so với thực tế. Tương tự như vậy, sự đa dạng của các cuộc gọi mang lại ấn tượng rằng lãnh thổ của chim bạc má bị chiếm đóng dày đặc hơn so với thực tế. Cho dù lý thuyết này có đúng hay không, những con chim có vốn tiếng hót lớn sẽ chiếm ưu thế về mặt xã hội và sinh sản thành công hơn.[20]

Phân bố, môi trường sống và di chuyển

Rừng hỗn hợp là một trong những nơi sinh sống của bạc má lớn ở châu Âu.
Hộp tổ cho bạc má lớn ở Altenbeken, Đức

Bạc má lớn có phạm vi phân bố rộng khắp lục địa Á-Âu. Nó được tìm thấy trên khắp châu Âu trừ Iceland và phía bắc Scandinavia, bao gồm cả nhiều hòn đảo ở Địa Trung Hải. Tại Bắc Phi, loài được tìm thấy ở Maroc, AlgérieTunisia. Nó cũng hiện diện ở Trung Đông, và khu vực ở Trung Á từ phía bắc IranAfghanistan đến Mông Cổ, cũng như trên khắp miền bắc Á từ dãy núi Ural đến phía đông tại miền bắc Trung Quốc và Thung lũng Amur.[10]

Bạc má lớn có mặt tại nhiều loại các môi trường sống. Loài thường được tìm thấy trong rừng thưa, rừng hỗn hợp, ven rừng và các khu vườn. Ở những khu rừng dày đặc, bao gồm rừng tùng, chim thường được tìm thấy trong các khu rừng sạch. Ở miền Bắc Siberia, loài được tìm thấy ở các cánh rừng taiga ở phía bắc. Tại Bắc Phi, loài có mặt ở rừng sồi cũng như là các khu vực tuyết tùng Atlas và thậm chí cả lùm cây cau. Ở phía đông bao gồm Siberia, Mông Cổ và Trung Quốc, chúng ưa thích rừng liễu và rừng bạch dương ven sông. Rừng liễu, dương ven sông là một trong những nơi cư trú của các phân loài Turkestan ở Trung Á, cũng như cây bụi thấp, ốc đảo. Ở độ cao cao hơn chúng có mặt ở các môi trường sống khác nhau, từ rừng rụng lá rậm và rừng lá kim đến các khu vực mở có cây phân tán.[10]

Bạc má lớn thường không di cư. Các cặp chim thường sẽ vẫn ở gần hoặc trong lãnh thổ của chúng quanh năm, ngay cả trong các khu vực phía bắc của phạm vi phân bố của chúng. Chim non sẽ rời lãnh thổ của chim bố mẹ, nhưng thường không xa. Các quần thể bạc má lớn có thể trở thành chim di cư trong mùa đông khắc nghiệt, có nghĩa rằng các nhóm lên đến cả ngàn cá thể có thể di chuyển một cách không thể lường trước từ bắc Âu đến Baltic, Hà Lan, Anh và thậm chí tận nam Balkan.[21]

Bạc má lớn đã được du nhập thành công vào Hoa Kỳ; chúng được thả ở gần Cincinnati giữa năm 1872 và 1874 và đã không thể thiết lập được các tổ. Các kiến nghị cho rằng chúng là một biện pháp kiểm soát tuyệt vời đối với loài bướm đêm gây hại Cydia pomonella dẫn đến việc du nhập chúng vào một số khu vực mới, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, tuy nhiên kế hoạch này đã không được thực hiện.[22] Một quần thể nhỏ hiện diện ở thượng lưu Trung Tây, được cho là hậu duệ của những cá thể chim được thả ở Chicago vào năm 2002 cùng với sẻ thông vàng châu Âu, quạ thông Á Âu, sẻ khướu, sẻ thông châu Âu, sẻ thông Saffron, sẻ ngô xanhhồng tước, mặc dù việc nhìn thấy một số loài này có trước ngày giới thiệu được cho là do đã được du nhập trước.[23] Chúng đã được nhập nội vào tỉnh Almaty (nay nằm ở Kazakhstan) vào năm 1960–61 và đã thiết lập các tổ, dù tình trạng hiện tại của chúng không rõ lắm.[24]

Hành vi

Chế độ ăn uống và cho ăn

Male great tit on branch with sunflower seed
Giống như những loài bạc má khác, bạc má lớn vận chuyển thức ăn bằng mỏ của chúng, sau đó chuyển nó xuống chân của chúng, nơi thức ăn được giữ trong khi chúng ăn

Bạc má lớn chủ yếu ăn côn trùng vào mùa hè, ăn côn trùngnhện mà chúng bắt được bằng cách mót tán .[25] Những con mồi không xương sống lớn hơn của loài bao gồm gián, châu chấu, dế, bọ cánh gân, bọ cánh da, bọ cánh nửa, kiến, ruồi, bọ cánh lông, bọ cánh cứng, ruồi bọ cạp, bọ chân dài, ongong bắp cày, ốc sênbọ chân đều.[10] Trong mùa sinh sản, bạc má lớn thường cho con ăn sâu bướm giàu protein.[26] Một nghiên cứu được công bố vào năm 2007 cho thấy rằng bạc má lớn giúp giảm tới 50% thiệt hại do sâu bướm gây ra trong vườn táo.[27] Chim non cũng được cho ăn một số loài nhện trong giai đoạn phát triển ban đầu, có thể vì lý do dinh dưỡng.[26] Vào mùa thu và mùa đông, khi côn trùng trở nên khan hiếm hơn, bạc má lớn bổ sung quả mọnghạt vào chế độ ăn của chúng. Hạt và quả thường đến từ cây rụng lá và cây bụi, chẳng hạn như hạt của cây cửcây trăn. Nếu có sẵn, chim sẽ sẵn sàng lấy đồ ăn thừa trên bàn, hạt đậu phộnghướng dương từ bàn chim. Trong mùa đông cực kỳ khắc nghiệt, chúng có thể tiêu thụ 44% trọng lượng cơ thể trong hạt hướng dương.[10] Chim thường kiếm ăn trên mặt đất, đặc biệt là vào những năm có sản lượng hạt sồi cao.[25] Bạc má lớn, cùng với những loài bạc má khác, sẽ tham gia vào đàn kiếm ăn hỗn hợp của các loài trong mùa đông.[12]

Bạc má lớn đang cho con non ăn một con côn trùng.

Các loại thực phẩm lớn, chẳng hạn như hạt hoặc con mồi lớn, được xử lý bằng cách đập vỡ, trong đó thức ăn được giữ bằng một hoặc cả hai chân và sau đó dùng mỏ đập nát cho đến khi có thể ăn được. Bằng cách này, bạc má lớn có thể đập vỡ một hạt phỉ trong khoảng 20 phút. Khi cho con non ăn, con trưởng thành sẽ loại bỏ đầu những con côn trùng lớn để dễ ăn hơn, đồng thời loại bỏ ruột côn trùng để chất tanin trong ruột không làm gà con chậm lớn.[10]

Bạc má lớn kết hợp tính linh hoạt trong chế độ ăn uống với trí thông minh đáng kể và khả năng giải quyết vấn đề bằng cách học hỏi sâu sắc, tức là giải quyết vấn đề thông qua hiểu biết sâu sắc hơn là thử và sai.[10] Ở Anh, bạc má lớn đã học cách đập vỡ nắp giấy bạc của những chai sữa được giao trước cửa nhà để lấy phần kem ở trên cùng.[28] Hành vi này lần đầu tiên được ghi nhận vào năm 1921, và đã lan rộng nhanh chóng trong hai thập kỷ tiếp theo.[29] Vào năm 2009, người ta đã báo cáo rằng những con bạc má lớn đã giết và ăn não của những con dơi muỗi đang ngủ. Đây là lần đầu tiên một loài chim biết hót được ghi nhận có con mồi là dơi. Bạc má chỉ làm điều này trong mùa đông khi dơi đang ngủ đông và các loại thức ăn khác đang khan hiếm.[30] Chúng cũng đã được ghi nhận là biết sử dụng các công cụ, như là dùng một cây kim bằng gỗ thông để lấy ấu trùng từ một cái lỗ trên cây.[10]

Sinh sản

Bạc má lớn là loài sinh sản một vợ một chồng (bạn đời suốt đời) và thiết lập lãnh thổ sinh sản.[31] Chim thiết lập các lãnh thổ này vào cuối tháng một và, bắt đầu xây dựng tổ vào cuối mùa đông hoặc đầu mùa xuân.[10] Các lãnh thổ thường được tái sử dụng trong những năm liên tiếp, ngay cả khi một trong hai cá thể của cặp chết, miễn là đàn chim con được nuôi dưỡng thành công. Con cái có khả năng phân tán đến các lãnh thổ mới nếu tổ của chúng có trước năm trước. Nếu vì một lý do nào đó mà cặp đôi từ bỏ nhau thì đàn chim sẽ phân tán, với những con cái sẽ di chuyển xa hơn con đực để thiết lập lãnh thổ mới.[32] Mặc dù cặp bạc má lớn là loài một vợ một chồng về mặt xã hội, tình trạng lăng nhăng ở các cặp chim diễn ra thường xuyên. Một nghiên cứu ở Đức cho thấy 40% số tổ chứa một số con non do chim bố mẹ sinh sản chứ không phải do con đực khác, và 8,5% tổng số chim con là kết quả của việc cắm sừng.[33] Những con đực trưởng thành có xu hướng sinh sản thành công hơn so với những con chưa trưởng thành.[34]

Trứng của loài, tại Bảo tàng Wiesbaden
Chim con trong tổ

Bạc má lớn là loài sinh sản theo mùa. Thời gian sinh sản chính xác thay đổi tùy theo một số yếu tố, quan trọng nhất là địa điểm. Mùa sinh sản hầu hết xảy ra từ tháng 1 đến tháng 9. Ở châu Âu, mùa sinh sản thường bắt đầu sau tháng 3. Ở Israel, có những ghi chép đặc biệt về việc sinh sản trong các tháng 10 đến tháng 12. Lượng ánh sáng mặt trời và nhiệt độ ban ngày cũng sẽ ảnh hưởng đến thời gian sinh sản.[10] Một nghiên cứu đã tìm thấy mối tương quan chặt chẽ giữa thời điểm đẻ trứng và số lượng con mồi là sâu bướm, và điều này lại tương quan với nhiệt độ.[35] Ở cấp độ cá thể, những con cái trẻ hơn có xu hướng bắt đầu đẻ muộn hơn những con cái lớn hơn.[36]

Great tit leaving its wooden nest box
Chim rời hộp tổ
Chim ấp trứng trong hộp tổ

Bạc má lớn là loài làm tổ trong hốc. Chúng thường sinh sản trong một cái lỗ bên trong cây, và đôi khi là ở trên tường hoặc mặt đá, và chúng thường hay chui vào các hộp làm tổ. Con cái làm tổ bên trong hốc bằng sợi thực vật, cỏ, rêu, tóc, len và lông vũ. Số lượng trứng trong cùng một lần đẻ thường rất lớn, thường là từ 5 đến 12, và có thể lên đến 18. Số lượng trứng nhỏ hơn khi chim đẻ muộn hơn, và cũng thấp hơn khi mật độ đối thủ cạnh tranh cao hơn.[37] Các cặp chim trẻ thường có số lượng trứng nhỏ hơn. Tính cách biệt cũng ảnh hưởng đến kích thước bầy, với những cá thể trên các đảo xa bờ đẻ trứng ít hơn và to hơn so với các các thể trên đất liền.[38] Trứng có màu trắng với những đốm đỏ. Con cái đảm nhận việc ấp trứng và được con đực cho ăn trong quá trình ấp trứng.[10] Bạc má lớn là loài chim gần gũi, rít lên khi bị quấy rầy. Thời điểm trứng nở được đồng bộ hóa tốt nhất với mức cao nhất có sẵn của con mồi, có thể được điều chỉnh khi điều kiện môi trường thay đổi sau khi đẻ quả trứng đầu tiên bằng cách trì hoãn thời gian bắt đầu ấp, đẻ thêm trứng hoặc tạm dừng ấp.[39] Thời gian ấp trứng từ 12 đến 15 ngày.[10]

Một con chim con đã biết bay.

Giống như các loài bạc má khác, chim con nở ra không có lông và bị mù. Khi lông bắt đầu mọc ra, những cá thể con chậm phát triển hơn có bộ lông có màu carotenoid tương tự như bố mẹ của chúng (trong khi ở hầu hết các loài, bộ lông có màu xám để tránh bị ăn thịt). Gáy có màu vàng và có thể phản xạ tia cực tím để thu hút sự chú ý của chim bố mẹ. Điều này có thể giúp chúng dễ tìm thấy hơn trong điều kiện ánh sáng yếu, hoặc là một tín hiệu về thể trạng để thu hút sự chú ý của bố mẹ. Mảng màu sau gáy chuyển sang màu trắng sau lần thay lông đầu tiên khi được hai tháng tuổi, và giảm kích thước khi chim lớn lên.[40]

Chim con được cho ăn khoảng 6 đến 7 g (0,21–0,25 oz) thức ăn mỗi ngày.[10] Cả chim bố và mẹ đều cho chim con ăn, và vệ sinh tổ bằng cách loại bỏ phân. Không có sự khác biệt về nỗ lực kiếm ăn giữa hai giới.[41] Thời gian ở tổ của chim con kéo dài từ 16 đến 22 ngày, và độc lập với bố mẹ tám ngày sau khi biết bay. Việc cho chim non ăn có thể tiếp tục sau khi chim con độc lập, kéo dài đến 25 ngày ở lứa chim con đầu tiên, nhưng lên đến 50 ngày ở lứa thứ hai.[10] Những cá thể con từ lứa thứ hai có hệ thống miễn dịch và tình trạng cơ thể yếu hơn so với những con từ lứa đầu tiên, do đó chim con có tỷ lệ sống sót thấp hơn.[42]

Thoái hóa giống ở bạc má lớn xảy ra khi chim con được tạo ra do sự giao phối giữa những cá thể có họ hàng gần. Thể lực giảm sút thường được coi là hậu quả của sự gia tăng biểu hiện của các alen lặn có hại ở những con chim con này. Trong các quần thể tự nhiên của P. major, giao phối cận huyết được loại bỏ bằng cách phân tán các cá thể khỏi nơi sinh của chúng, điều này làm giảm nguy cơ giao phối với họ hàng gần.[43]

Sinh thái học

Cắt hỏa mai là loài săn bạc má lớn. Những cá thể con từ lứa thứ hai có nguy cơ cao bị tấn công hơn, một phần là do loài diều hâu này cần nhiều thức ăn hơn cho con non đang phát triển của chính chúng.[44][45] Tổ của bạc má lớn thường bị gõ kiến ​​nhỏ sườn đỏ tấn công, đặc biệt là các tổ trong một số loại hộp tổ nhất định.[46] Những loài săn mồi ở tổ khác bao gồm sóc xám miền Đông du nhập (ở Anh) và triết bụng trắng, và chúng cũng có thể bắt những con trưởng thành ở làm tổ.[47] Một loài rận (Mallophaga) được mô tả là Rostrinirmus hudeci đã được phân lập và mô tả vào năm 1981 từ bạc má lớn ở trung tâm châu Âu.[48] ​​Bọ chét gà mái Ceratophyllus gallinae cực kỳ phổ biến trong tổ của sẻ ngô xanh và bạc má lớn. Ban đầu chúng là một loài bọ chét bạc má chuyên biệt, nhưng điều kiện khô ráo, đông đúc của chuồng gà đã giúp nó phát triển mạnh mẽ với vật chủ mới.[49] Loài bọ chét này thường bị săn mồi bởi bọ hề Gnathoncus punctulatus.[50] Ngoài ra bọ cánh cứng Microglotta pulla cũng ăn bọ chét và ấu trùng của chúng. Mặc dù những con bọ cánh cứng này thường ở trong những chiếc tổ bỏ hoang, nhưng chúng chỉ có thể sinh sản ở nhiệt độ cao do chim ấp trứng tạo ra, và bạc má là vật chủ ưa thích. Những cá thể bạc má lớn cạnh tranh với những con đớp ruồi châu Âu để giành các hộp làm tổ, và có thể giết chết những con đớp ruồi đực có triển vọng. Các vụ cạnh tranh chết chóc xảy ra thường xuyên hơn khi thời gian làm tổ trùng nhau, và biến đổi khí hậu đã dẫn đến việc làm tổ đồng bộ hơn giữa hai loài và cái chết của đớp ruồi. Sau khi giết chết những con đớp ruồi, các cá thể bạc má lớn có thể ăn não não của chúng.[51]

Sinh lý học

Bộ ngực lớn của loài được phát hiện là có khả năng thích nghi sinh lý đặc biệt với môi trường lạnh. Khi chuẩn bị cho những tháng mùa đông, chim bạc má lớn có thể tăng mức độ sinh nhiệt máu của chúng.[52] Cơ chế cho sự thích ứng này là sự gia tăng theo mùa về thể tích ty thể và quá trình hô hấp của ty thể trong các tế bào hồng cầu và gia tăng sự tách rời chuỗi chuyền điện tử từ quá trình sản xuất ATP.[52] Kết quả là năng lượng lẽ ra được sử dụng để tạo ATP được giải phóng dưới dạng nhiệt và máu của chúng trở nên sinh nhiệt nhiều hơn.[52] Trước tình trạng thiếu lương thực trong mùa đông, chim bạc má lớn cũng đã thể hiện một kiểu co mạch máu ngoại vi để giảm mất nhiệt và tổn thương do lạnh.[53] Giảm tổn thương do lạnh và mất nhiệt được thực hiện nhờ sự sắp xếp mạch máu ngược dòng của ngực lớn, và sự co mạch ngoại vi ở các mạch chính trong và xung quanh mỏ và chân của chim.[53] Cơ chế này cho phép các vùng không được cách nhiệt (tức là mỏ và chân) vẫn gần với nhiệt độ xung quanh. Để đối phó với việc hạn chế thực phẩm, nhiệt độ mỏ của cá thể giảm xuống, và khi thức ăn sẵn có tăng lên, nhiệt độ mỏ dần dần trở lại bình thường.[53] Sự co mạch của các mạch máu trong mỏ không chỉ thể hiện như một cơ chế tiết kiệm năng lượng mà còn làm giảm lượng nhiệt truyền từ các mô cơ thể chính đến da (thông qua giãn mạch ở da), do đó, làm giảm tốc độ mất nhiệt bằng cách hạ nhiệt độ da so với môi trường.[53]

Mối quan hệ với con người

adult great tit perched on hand
Việc sẵn sàng sử dụng khay cho chim ăn và hộp làm tổ của bạc má khiến chúng trở nên phổ biến với công chúng và hữu ích cho các nhà khoa học.

Bạc má lớn là một loài chim vườn phổ biến do những màn trình diễn nhào lộn của chúng khi ăn quả hạch hoặc hạt. Việc chim sẵn sàng di chuyển vào các hộp làm tổ đã khiến chúng trở thành một đối tượng nghiên cứu có giá trị trong ngành điểu học. Chúng đặc biệt hữu ích, vì giống như một mô hình để nghiên cứu sự tiến hóa của các đặc điểm lịch sử sự sống khác nhau, đặc biệt là kích thước ly hợp.[54] Một nghiên cứu tìm kiếm tài liệu cơ sở dữ liệu đã tìm thấy 1.349 bài báo liên quan đến Parus major trong khoảng thời gian từ 1969 đến 2002.[6]

Bạc má lớn nói chung đã thích nghi với những thay đổi của con người đối với môi trường. Chúng phổ biến hơn và sinh sản thành công hơn ở những khu vực có độ che phủ rừng không bị xáo trộn, nhưng loài cũng đã thích nghi với môi trường sống bị thay đổi của con người. Chim có thể rất phổ biến ở các khu vực đô thị.[10] Ví dụ, quần thể sinh sản ở thành phố Sheffield (một thành phố có nửa triệu dân) được ước tính vào khoảng 17.000 cá thể.[55] Để thích nghi với môi trường con người, tiếng hót của loài đã được quan sát thấy là thay đổi trong môi trường đô thị ô nhiễm tiếng ồn. Ở những khu vực có ô nhiễm tiếng ồn xung quanh tần số thấp, tiếng hót có tần số cao hơn ở những khu vực yên tĩnh hơn.[56] Loài bạc má này đã mở rộng phạm vi của chúng, di chuyển về phía bắc tới Scandinavia và Scotland, và phía nam tới Israel và Ai Cập.[10] Tổng cá thể ước tính vào khoảng 300–1.100 triệu con chim trong phạm vi 32,4 triệu km2 (12,5 triệu dặm vuông Anh). Mặc dù đã có một số sự suy giảm dân số cục bộ ở những khu vực có môi trường sống kém chất lượng hơn, nhưng phạm vi rộng lớn và số lượng lớn của loài có nghĩa là chim bạc má lớn không bị coi là bị đe dọa và nó được xếp là loài ít quan tâm trong Sách đỏ IUCN.[1]

Chú thích

  1. ^ a b BirdLife International (2012). Parus major. Sách Đỏ IUCN các loài bị đe dọa. Phiên bản 2013.2. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2013.
  2. ^ Péter Estók, Sándor Zsebők and Björn M. Siemers (2009). “Great tits search for, capture, kill and eat hibernating bats”. Biology Letters. 6 (1): 59–62. doi:10.1098/rsbl.2009.0611. PMC 2817260. PMID 19740892.
  3. ^ Linnaeus, Carl (1758). Systema naturae per regna tria naturae, secundum classes, ordines, genera, species, cum characteribus, differentiis, synonymis, locis. Tomus I. Editio decima, reformata (bằng tiếng La-tinh). Holmiae (Laurentii Salvii). tr. 189. P. capite nigro, temporibus albis, nucha lutea
  4. ^ Simpson, D.P. (1979). Cassell's Latin Dictionary (ấn bản 5). London: Cassell Ltd. tr. 883. ISBN 978-0-304-52257-6.
  5. ^ Willughby, Francis (1681). The ornithology of Francis Willughby of Middleton in the county of Warwick, esq. ... London, United Kingdom: A.C. for John Martyn. tr. 240.
  6. ^ a b Kvist, Laura; Martens, Jochen; Higuchi, Hiroyoshi; Nazarenko, Alexander A; Valchuk, Olga P.; Orell, Markku (2003). “Evolution and genetic structure of the great tit (Parus major) complex”. Proceedings of the Royal Society B. 270 (1523): 1447–1454. doi:10.1098/rspb.2002.2321. PMC 1691391. PMID 12965008.
  7. ^ Paynter Jr. RA biên tập (1967). Check-list of birds of the world. Volume 11. Cambridge, Massachusetts: Museum of Comparative Zoology. tr. 104–110.
  8. ^ Päckert, Martin; Martens, Jochen; Eck, Siegfried; Nazarenko, Alexander A; Valchuk, Olga P; Petri, Bernd; Veith, Michael (2005). “The great tit (Parus major) – a misclassified ring species”. Biological Journal of the Linnean Society. 86 (2): 153–174. doi:10.1111/j.1095-8312.2005.00529.x.
  9. ^ Gill, Frank; Donsker, David biên tập (2010). “IOC World Bird Names (version 2.3)”. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2010.
  10. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x Gosler, Andrew; Clement, Peter (2007). “Family Paridae (Tits and Chickadees)”. Trong del Hoyo, Josep; Elliott, Andrew; Christie, David (biên tập). Handbook of the Birds of the World. Volume 12: Picathartes to Tits and Chickadees. Barcelona: Lynx Edicions. tr. 662–709. ISBN 978-84-96553-42-2.
  11. ^ Päckert, Martin; Martens, Jochen (2008). “Taxonomic pitfalls in tits – comments on the Paridae chapter of the Handbook of the Birds of the World” (PDF). Ibis. 154 (4): 829–831. doi:10.1111/j.1474-919X.2008.00871.x.
  12. ^ a b Harrap, Simon; Quinn, David (1996). Tits, Nuthatches and Treecreepers. Christopher Helm. tr. 353–371. ISBN 978-0-7136-3964-3.
  13. ^ a b Mlíkovský, Jiří (ngày 26 tháng 8 năm 2011). “Nomenclatural and taxonomic status of bird taxa (Aves) described by an ornithological swindler, Josef Prokop Pražák (1870–1904)”. Zootaxa (3005): 45–68.
  14. ^ Avibase. The world bird database.
  15. ^ a b Norris, K. J. (1990). “Female choice and the evolution of the conspicuous plumage coloration of monogamous male great tits”. Behavioral Ecology and Sociobiology. 26 (2): 129–138. doi:10.1007/bf00171582. S2CID 36757531.
  16. ^ Dell'Amore, Christine (20 tháng 1 năm 2010). “Flashier Great Tit Birds Produce Stronger Sperm”. National Geographic. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2010.
  17. ^ Fitze, PS; Kölliker M; Heinz Richner (2003). “Effects of Common Origin and Common Environment on Nestling Plumage Coloration in the Great Tit (Parus major)”. Evolution. 57 (1): 144–150. doi:10.1111/j.0014-3820.2003.tb00222.x. PMID 12643574. S2CID 24748894.
  18. ^ Laczi, Miklós; Hegyi, Gergely; Nagy, Gergely; Pongrácz, Rita; Török, János (2020). “Yellow plumage colour of Great Tits Parus major correlates with changing temperature and precipitation”. Ibis (bằng tiếng Anh). 162 (1): 232–237. doi:10.1111/ibi.12761. ISSN 1474-919X.
  19. ^ Swann, H Kirke (1913). A dictionary of English and folk-names of British Birds. Witherby & Co, London. tr. 108. ISBN 978-0-7158-1239-6.
  20. ^ Cocker, Mark; Mabey, Richard (2005). Birds Britannica. London: Chatto & Windus. tr. 391–392. ISBN 978-0-7011-6907-7.
  21. ^ Nowakowski, Jarosław K. (2001). “Speed and synchronization of autumn migration of the Great Tit (Parus major) along the eastern and the southern Baltic coast” (PDF). The Ring. 23 (1): 55–71. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 20 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2013.
  22. ^ Palmer TS (1893). The danger of introducing noxious animals and birds. US Department of Agriculture. tr. 104–105.
  23. ^ https://sora.unm.edu/sites/default/files/journals/nab/v058n03/p00324-p00330.pdf THE CHANGING SEASONS: Expansions]
  24. ^ Long, John L. (1981). Introduced Birds of the World: The worldwide history, distribution and influence of birds introduced to new environments. Terrey Hills, Sydney: Reed. tr. 332. ISBN 0-589-50260-3.
  25. ^ a b Ehrlich, Paul; Dobkin, David; Wheye, Darryl; Pimm, Stuart (1994). The Birdwatcher's Handbook. Oxford University Press. tr. 434. ISBN 978-0-19-858407-0.
  26. ^ a b Royoma, T (1970). “Factors governing the hunting behaviour and selection of food by the Great Tit (Parus major L.)”. Journal of Animal Ecology. 39 (3): 619–668. doi:10.2307/2858. JSTOR 2858.
  27. ^ Mols, C; Visser, M; Jones, Peter (2007). Jones, Peter (biên tập). “Great Tits (Parus major) Reduce Caterpillar Damage in Commercial Apple Orchards”. PLOS ONE. 2 (2): e202. Bibcode:2007PLoSO...2..202M. doi:10.1371/journal.pone.0000202. PMC 1784073. PMID 17285148.
  28. ^ Hawkins, T. (1950). “Opening of Milk Bottles By Birds”. Nature. 165 (4194): 435–436. Bibcode:1950Natur.165..435H. doi:10.1038/165435a0.
  29. ^ Lefebvre, Louis (1995). “The opening of milk bottles by birds: Evidence for accelerating learning rates, but against the wave-of-advance model of cultural transmission”. Behavioural Processes. 34 (1): 43–53. doi:10.1016/0376-6357(94)00051-H. PMID 24897247. S2CID 26052031.
  30. ^ Estók, Péter; Zsebők, Sándor; Siemers, Björn M (2010). “Great tits search for, capture, kill and eat hibernating bats”. Biology Letters. 6 (1): 59–62. doi:10.1098/rsbl.2009.0611. PMC 2817260. PMID 19740892.
  31. ^ Krebs, John R. (1971). “Territory and breeding density in the Great Tit, Parus major L”. Ecology. 52 (1): 3–22. doi:10.2307/1934734. JSTOR 1934734.
  32. ^ Harvey, Paul H; Greenwood, Paul J; Perrins, Christopher M (1979). “Breeding area fidelity of Great Tits (Parus major)”. Journal of Animal Ecology. 48 (1): 305–313. doi:10.2307/4115. JSTOR 4115.
  33. ^ Strohbach, Sabine; Curio, Eberhard; Bathen, Andrea; Epplen, Jorg; Lubjuhn, Thomas (1998). “Extrapair paternity in the great tit (Parus major): a test of the "good genes" hypothesis”. Behavioral Ecology. 9 (4): 388–396. doi:10.1093/beheco/9.4.388.
  34. ^ Pigeault, Romain; Cozzarolo, Camille-Sophie; Glaizot, Olivier; Christe, Philippe (2020). “Effect of age, haemosporidian infection and body condition on pair composition and reproductive success in Great Tits Parus major” (PDF). Ibis (bằng tiếng Anh). 162 (3): 613–626. doi:10.1111/ibi.12774. ISSN 1474-919X. S2CID 202013338.
  35. ^ Van Noordwijk, A.J.; McCleery, R.H.; Perrins, C.M. (1995). “Selection for the timing of Great Tit breeding in relation to caterpillar growth and temperature”. Journal of Animal Ecology. 64 (4): 451–458. doi:10.2307/5648. JSTOR 5648.
  36. ^ Jarvine, Antero (1991). “A meta-analytic study of the effects of female age on laying-date and clutch-size in the Great Tit Parus major and the Pied Flycatcher Ficedula hypoleuca”. Ibis. 133 (1): 62–67. doi:10.1111/j.1474-919X.1991.tb04811.x.
  37. ^ Perrins, C. M.; McCleery, R. H. (1989). “Laying dates and clutch size in the Great Tit”. Wilson Bulletin. 101 (2): 236–253.
  38. ^ Wiggins, David A.; Moller, Anders P.; Sorensen, Martin; Brand, L. Arriana (1998). “Island Biogeography and the reproductive ecology of great tits Parus major”. Oecologia. 115 (4): 478–482. Bibcode:1998Oecol.115..478W. doi:10.1007/s004420050544. PMID 28308267. S2CID 10078007.
  39. ^ Cresswell, Will; McCleery, Robin (2003). “How Great Tits maintain synchronisation of their hatch date with food supply in response to long-term variability in temperature”. Journal of Animal Ecology. 72 (2): 356–366. doi:10.1046/j.1365-2656.2003.00701.x.
  40. ^ Galván, Ismael; Amo, Luisa; Sanz, Juan J. (2008). “Ultraviolet-blue reflectance of some nestling plumage patches mediates parental favouritism in great tits Parus major”. Journal of Avian Biology. 39 (3): 277–82. doi:10.1111/j.0908-8857.2008.04273.x.
  41. ^ Wilkin, Teddy A.; King, Lucy E.; Sheldon, Ben C. (2009). “Habitat quality, nestling diet, and provisioning behaviour in great tits Parus major”. Journal of Avian Biology. 40 (2): 135–145. doi:10.1111/j.1600-048X.2009.04362.x.
  42. ^ Dubiec, Anna; Cichoñ, Mariusz (2001). “Seasonal decline in health status of Great Tit (Parus major) nestlings”. Canadian Journal of Zoology. 79 (10): 1829–1833. doi:10.1139/cjz-79-10-1829.
  43. ^ Szulkin M, Sheldon BC (2008). “Dispersal as a means of inbreeding avoidance in a wild bird population”. Proc. Biol. Sci. 275 (1635): 703–11. doi:10.1098/rspb.2007.0989. PMC 2596843. PMID 18211876.
  44. ^ Götmark, Frank; Andersson (2005). “Predation by sparrowhawks decreases with increased breeding density in a songbird, the great tit”. Oecologia. 142 (2): 177–183. Bibcode:2005Oecol.142..177G. doi:10.1007/s00442-004-1715-z. PMID 15480803. S2CID 35611518.
  45. ^ Götmark, Frank (2002). “Predation by sparrowhawks favours early breeding and small broods in great tits”. Oecologia. 130 (1): 25–32. Bibcode:2002Oecol.130...25G. doi:10.1007/s004420100769. PMID 28547022. S2CID 19909152.
  46. ^ Skwarska, Joanna A.; Kalinski, Adam; Wawrzyniak, Jaroslaw; Banbura, Jerzy (2009). “Opportunity makes a predator: Great Spotted Woodpecker predation on Tit broods depends on nest box design”. Ornis Fennica. 86 (3): 109–112. ISSN 0030-5685.
  47. ^ Dunn, Euan (1977). “Predation by weasels (Mustela nivalis) on breeding tits (Parus spp.) in relation to the density of tits and rodents”. Journal of Animal Ecology. 46 (2): 633–652. doi:10.2307/3835. JSTOR 3835.
  48. ^ Balat, F (1981). “New Species of Biting Lice (Mallophaga) of the genera Penenirmus and Rostrinirmus (PDF). Folia Parasitologica. 28: 161–68. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 11 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2010.
  49. ^ Rothschild, Miriam; Clay, Theresa (1953). Fleas, Flukes and Cuckoos. A study of bird parasites. London: Collins. tr. 111, 249.
  50. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Miriam Rothschild 1953
  51. ^ Samplonius, Jelmer M.; Both, Christiaan (2019). “Climate Change May Affect Fatal Competition between Two Bird Species”. Current Biology. 29 (2): 327–331.e2. doi:10.1016/j.cub.2018.11.063. PMID 30639109.
  52. ^ a b c Nord, Andreas; Metcalfe, Neil B.; Page, Jennifer L.; Huxtable, Anna; McCafferty, Dominic J.; Dawson, Neal J. (2021). “Avian red blood cell mitochondria produce more heat in winter than in autumn”. The FASEB Journal (bằng tiếng Anh). 35 (5): e21490. doi:10.1096/fj.202100107R. ISSN 1530-6860. PMID 33829547. S2CID 233185485.
  53. ^ a b c d Winder, Lucy A.; White, Stewart A.; Nord, Andreas; Helm, Barbara; McCafferty, Dominic J. (20 tháng 4 năm 2020). “Body surface temperature responses to food restriction in wild and captive great tits”. Journal of Experimental Biology. 223 (8). doi:10.1242/jeb.220046. ISSN 0022-0949. PMID 32312718. S2CID 216047432.
  54. ^ Perrins, C. M. (1965). “Population fluctuations and clutch-size in the great tit, Parus major L” (PDF). The Journal of Animal Ecology. 34 (3): 601–647. doi:10.2307/2453. JSTOR 2453.
  55. ^ Fuller RA, Tratalos J, Gaston KJ (2009). “How many birds are there in a city of half a million people?”. Diversity and Distributions. 15 (2): 328–337. doi:10.1111/j.1472-4642.2008.00537.x.
  56. ^ Slabbekoorn, Hans; Margriet Peet (2003). “Birds sing at a higher pitch in urban noise”. Nature. 424 (6946): 267. Bibcode:2003Natur.424..267S. doi:10.1038/424267a. PMID 12867967. S2CID 4348883.

Liên kết ngoài