Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trần Văn Thủy”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Thêm một hay nhiều mục vào danh sách Trình soạn thảo mã nguồn 2017
Dòng 511: Dòng 511:
*{{Chú thích sách|url=https://books.google.com.vn/books?id=ADu2AgAAQBAJ|title=Four Decades On: Vietnam, the United States, and the Legacies of the Second Indochina War|last=Laderman|first=Scott|last2=Martini|first2=Edwin A.|date=2013-06-06|publisher=Duke University Press|isbn=978-0-8223-7882-2|language=en}}
*{{Chú thích sách|url=https://books.google.com.vn/books?id=ADu2AgAAQBAJ|title=Four Decades On: Vietnam, the United States, and the Legacies of the Second Indochina War|last=Laderman|first=Scott|last2=Martini|first2=Edwin A.|date=2013-06-06|publisher=Duke University Press|isbn=978-0-8223-7882-2|language=en}}
*{{Chú thích sách|url=https://books.google.com.vn/books?id=FDxuAAAAMAAJ|title=Vietnam War Films: Over 600 Feature, Made-for-TV, Pilot, and Short Movies, 1939-1992, from the United States, Vietnam, France, Belgium, Australia, Hong Kong, South Africa, Great Britain, and Other Countries|last=Malo|first=Jean-Jacques|last2=Williams|first2=Tony|date=1994|publisher=McFarland|isbn=978-0-89950-781-1|language=en}}
*{{Chú thích sách|url=https://books.google.com.vn/books?id=FDxuAAAAMAAJ|title=Vietnam War Films: Over 600 Feature, Made-for-TV, Pilot, and Short Movies, 1939-1992, from the United States, Vietnam, France, Belgium, Australia, Hong Kong, South Africa, Great Britain, and Other Countries|last=Malo|first=Jean-Jacques|last2=Williams|first2=Tony|date=1994|publisher=McFarland|isbn=978-0-89950-781-1|language=en}}
*{{Chú thích|last=Morris-Jung|first=Jason|title=Reemergence of the Intellectuals|date=2021|url=https://doi.org/10.1007/978-981-16-3124-5_4|work=Unearthing Politics: Environment and Contestation in Post-socialist Vietnam|pages=119–152|editor-last=Morris-Jung|editor-first=Jason|place=Singapore|publisher=Springer|language=en|doi=10.1007/978-981-16-3124-5_4|isbn=978-981-16-3124-5|access-date=2023-05-23}}
{{refend}}
{{refend}}



Phiên bản lúc 09:19, ngày 23 tháng 5 năm 2023

Nghệ sĩ Nhân dân
Trần Văn Thủy
Thông tin cá nhân
Sinh
Tên khai sinh
Trần Văn Thủy
Ngày sinh
1940 (83–84 tuổi)
Nơi sinh
Nam Định
Giới tínhnam
Quốc tịch Việt Nam
Đảng pháiĐảng Cộng sản Việt Nam
Nghề nghiệp
  • Đạo diễn điện ảnh
  • phóng viên
  • nhà văn
Thầy giáoRoman Lazarevich Karmen
Lĩnh vựcPhim tài liệu
Sự nghiệp điện ảnh
Đào tạoĐiện ảnh Quốc gia Toàn Liên Bang
Tác phẩm
Website

Trần Văn Thủy (sinh năm 1940) là một đạo diễn phim tài liệu người Việt Nam, nổi tiếng với các tác phẩm Hà Nội trong mắt ai, Chuyện tử tếTiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai. Ông từng được bầu vào làm thành viên Ban Chấp hành Hội Điện ảnh Việt Nam năm 1995 và được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân vào đợt 5 năm 2001.

Bắt đầu sự nghiệp làm phim với vai trò là một phóng viên chiến trường và bộ phim tài liệu đầu tay có tên Những người dân quê tôi, sau khi về công tác tại Xưởng phim Tài liệu và Khoa học Trung ương, ông đã cho ra đời hai cuốn phim tài liệu lần lượt là Hà Nội trong mắt aiChuyện tử tế, được xem là bộ đôi tác phẩm nổi tiếng nhất và thành công nhất của Trần Văn Thủy, gây được tiếng vang cả trong xã hội Việt Nam lẫn quốc tế.

Luôn đặt yếu tố "con người" và "sự thật" trong các tác phẩm của mình, ông đã trở thành đạo diễn phim tài liệu "số một của Việt Nam" nhờ phong cách làm phim và tư tưởng hướng vào hiện thực xã hội. Tuy vậy, ông cũng là một nhân vật gây nhiều tranh cãi ở cả lĩnh vực điện ảnh và chính trị, trong đó điển hình là hai bộ phim Hà Nội trong mắt aiChuyện tử tế từng trở thành đối tượng kiểm duyệt gắt gao của các cấp chính quyền Đảng Cộng sản Việt Nam dưới thời bao cấp vì mang tính động chạm và chỉ được phép công chiếu rộng rãi sau Đổi Mới.

Xuyên suốt sự nghiệp điện ảnh của mình, Trần Văn Thủy đã đạo diễn trên 20 phim tài liệu,[1] trong số đó có nhiều phim đoạt giải cao trong các kỳ liên hoan phim quốc gia và quốc tế. Ông từng được trao ba giải Đạo diễn xuất sắc tại Liên hoan phim Việt Nam và hai giải Bồ câu bạc cho các tác phẩm của ông tại Liên hoan phim quốc tế Leipzig, Đức. Vào năm 2022, ông đã được trao giải thưởng Bùi Xuân Phái – Vì tình yêu Hà Nội nhờ những cống hiến trọn đời cho điện ảnh.

Đầu đời

Trần Văn Thủy sinh ngày 21 tháng 11 năm 1940 ở Nam Định.[2] Gia đình ông sinh sống trên thành phố.[3] Thân sinh ông là Trần Văn Vỵ (1902–1975). Tuy từng làm công chức của chính quyền Pháp nhưng ông Vỵ vẫn ngầm ủng hộ Việt Minh.[4] Theo mô tả của Trần Văn Thủy, cha ông là một người hết sức nhân từ, thường xót người nghèo khó, dùm bọc người sa cơ. Điều này đã truyền cảm hứng cho các công tác thiện nguyện của ông sau này.[5] Mẹ ông là Đỗ Thị Hiếu (1913–2015). Trong gia đình gồm bảy người con, Trần Văn Thủy là con trai thứ hai.[6][7] Sau khi Toàn quốc kháng chiến nổ ra vào năm 1946, cả gia đình ông đã tản cư về quê ở xóm 2, Hải Phong, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.[8][3] Trong thời gian này, ông và anh chị em được chăm sóc và dạy dỗ bởi một bà vú nuôi tên Nhuận, sau này bà mất đã được ghi tên vào gia phả của gia đình.[9][10] Vào năm 1949 người anh Vĩnh, lớn hơn Trần Văn Thủy bốn tuổi, bị trúng đạn và chết trong một trận càn, cho nên Trần Văn Thủy trở thành con cả trong gia đình. Sau sự kiện này, ông Vỵ quyết định đưa các con trở lại thành phố, lúc này đã nằm trong tay quân đội Pháp.[11]

Trong thời kỳ thơ ấu, Trần Văn Thủy học được bơi lội và hằng ngày hăng hái đi bơi. Sở trường này về sau trở nên rất quan trọng đối với việc giữ được mạng sống trong quãng thời gian làm phóng viên chiến tranh.[12] Khi lên khoảng 13 tuổi, ông nhập học tại trường Nguyễn Khuyến, Nam Định, học lớp Đệ thất B3 niên khóa 1934-1954.[13] Trong thời gian sống tại thành phố bị Pháp chiếm đóng, ông đã trở nên "nghiện" phim khi xem các bộ phim trắng đen của nước ngoài, khiến ông dành tất cả số tiền vào rạp chiếu phim và sưu tầm các chân dung của những tài tử điện ảnh thời ấy.[14] Ông cũng từng được cha gửi đi học nghề ở nhà của bạn là chủ hiệu ảnh trên phố Paul Bert, Nam Định; ông đã có cơ hội tiếp xúc và làm quen với phim ảnh tại đây.[15][16]

Sau Hiệp định Genève năm 1954, bởi cha ông bị kết tội là thành phần thân Pháp nên Trần Văn Thủy và các em đã không vào được đại học.[17][16] Vì vậy, sau khi tốt nghiệp phổ thống trung học, ông đã xin vào học một lớp nhân loại học do Bộ Văn hóa tổ chức. Năm 1960 học xong, ông về công tác tại Ty Văn hóa Lai Châu, nghiên cứu dân tộc học về các nhóm dân tộc thiểu số nhỏ.[18][19] Thời gian làm tại đây, ông đã nhận ra tác động của điện ảnh tới công chúng và nảy sinh hứng thú.[20] Sau đó, ông đã biết có một khóa học phim ảnh "chống Mỹ cứu nước" ở Trường Điện ảnh Việt Nam, sau đó xin trưởng Ty Văn hóa khi đó là nhà thơ Lương Quy Nhân và được ông chấp thuận.[21] Giữa năm 1965, ông đã tự cuốc bộ từ Lai Châu về Hà Nội để thi tuyển vào Trường Điện ảnh Việt Nam, nhưng khi đến nơi mới biết buổi thi đã tổ chức từ hai tuần trước. Dù không có cơ hội thi, ông vẫn cố ở lại Hà Nội để tìm những "ngách" khác học điện ảnh, nhưng đều bị từ chối.[8] Sau đó, nhờ vào sự giúp đỡ của Nông Ích Đạt – khi đó công tác tại Cục Điện ảnh Việt Nam – ông đã được nhận vào học lớp quay phim "chống Mỹ cứu nước" của trường,[22] đồng lớp với đạo diễn Trần Thế Dân, nhà quay phim Đỗ Phương Thảo, Đào Trọng Khánh và các đồng nghiệp sau này của ông.[23][24] Chương trình lẽ ra nên kéo dài hai năm và kết thúc vào năm 1967, nhưng chỉ sau một nửa khóa, đến tháng 8 năm 1966 ông đã được cử vào miền Nam, ra chiến trường làm phóng viên quay phim tại chiến trường khu Năm, dù khi ấy ông chỉ mới động vào máy quay phim hai lần.[25][8] Để được cử ra chiến trường, ông được kết nạp làm Đảng viên Đảng Cộng sản trong thời gian gấp gáp, dù lý lịch của gia đình ông khi đó từng bị "gạt phắt đi".[17]

Sự nghiệp điện ảnh

1966–1980: Dưới thời Chiến tranh Việt Nam và sang Liên Xô, về Việt Nam

Những người dân quê tôi

Trần Văn Thủy làm phóng viên chiến tranh ở Ban Tuyên huấn Khu 5[8] từ năm 1966 đến 1969, liên miên quay phim trên chiến trường tỉnh Quảng Đà. Chưa có kinh nghiệm gì nơi chiến trường, cuộc sống của ông hết sức nguy hiểm và phải chịu đựng sự thiếu thốn mọi điều.[26][27] Khi mới đến nơi, thay vì quay phim ông đã phải làm nương rẫy suốt mấy tháng. Về sau, khi được xuống đồng bằng, ông đã bắt đầu quay những thước phim đầu tiên về con người nơi đây, bắt đầu từ dòng sông Thu Bồn. Bối cảnh chủ yếu của các cuốn phim diễn ra ở khu chợ Bàn Thạch. Cùng với sự hỗ trợ của người dân địa phương,[8] ông đã dành rất nhiều tâm huyết vào công việc mặc cho điều kiện sinh hoạt khó khăn, bệnh tật, bom đạn,[28] đến mức khi đã xong việc, tuy rất ốm yếu và cân nặng từ 70 kg[29] giảm xuống còn 42 kg,[30] ông đã tự lên đường về miền Bắc mang theo 27 hộp phim âm bản mà ông đã quay tại miền Nam, có lúc bị sốt giữa đường tưởng như sắp chết,[31] rồi về đến nơi liền phải vào điều trị suốt ba tháng liên tiếp.[32]

Tuy vất vả là vậy, nhiều người khi đó đã nghi ngờ ông "lừa dối", không phải là người quay phim, biên kịch, đạo diễn cho những thước phim ông giao.[30][32] Lý do cho những cho những cáo buộc này là bởi phim mà Trần Văn Thủy để quay xuất xứ từ Tây Đức (phim màu) khác với phim Đông Đức (phim trắng đen) mà các nhà làm phim miền Bắc thường dùng lúc bấy giờ. Việc tráng phim đã gặp nhiều khó khăn do đây là phim của Tây Đức, vốn không tráng được với kĩ thuật hiện thời; có người từng có ý định hủy bỏ số cuốn phim này. Nhà quay phim Nguyễn Thế Đoàn đã dùng hết kinh nghiệm của mình để tráng các cuộn phim suốt nhiều tháng liền nhằm minh oan cho đồng nghiệp.[33] Cuối cùng, ông Đoàn đã sáng tạo ra một cách tráng phim khác cho cuốn phim, tuy là tráng trắng đen[34] nhưng vẫn tạo nên hiệu đặc biệt cho bộ phim và đã được đạo diễn điện ảnh nổi tiếng Liên Xô Roman Karmen khen ngợi.[30][32] Trần Văn Thủy cũng rất vất vả trong vài tháng sau đó để tự mình hoàn thành việc dựng phim thành một tác phẩm hoàn chỉnh và cũng là đầu tay của ông: Những người dân quê tôi.[30] Có thời lượng khoảng 20 phút,[18] nội dung phim nói về cuộc sống của những người dân nơi chiến trường; đáng chú ý, hầu hết những người xuất hiện trong phim sau này đều đã qua đời trong bom đạn.[35][36] Cuốn phim sau này đã được in ra rất nhiều bản để chiếu ở nhiều nơi (có cả chiến trường[37]) và được chính tay Roman Karmen trao giải Bồ câu Bạc tại Liên hoan phim tài liệu quốc tế Leipzig (DOK Leipzig) năm 1970.[38][18]

Nhập học VGIK; Nơi chúng tôi đã sống

Trong giai đoạn từ 1973 đến 1977, ông đã theo học tại trường điện ảnh VGIK

Sau khi trở về công tác tại Trường Điện ảnh Việt Nam từ tháng 8 năm 1970, đến tháng 8 năm 1972[25] Trần Văn Thủy tiếp tục đi Liên Xô theo gợi ý của trường để học điện ảnh. Mới đầu, ông học tiếng Nga tại Đại học Lomnoxov một thời gian. Sau đó, vào hè năm 1973, ông đã tham dự buổi thi tuyển vào trường Điện ảnh Quốc gia Toàn Liên Bang ở Moskva.[39] Khi ông mới đến phỏng vấn, Roman Karmen – người trước đó từng trao giải cho đạo diễn với bộ phim Những người dân quê tôi vào năm 1970 tại DOK Leipzig và là thành viên ban giám hiệu truòng – đã dành lời đánh giá cao phim Những người dân quê tôi, cũng như đặc cách cho ông làm sinh viên của trường, bất chấp sự phản đối từ những người khác.[38] Trần Văn Thủy đã trở thành học trò của vị đạo diễn này và theo học tại trường suốt 4 năm.[40][41]

Trong thời gian học tại trường, dưới sự chỉ dẫn và hỗ trợ về phương tiện của trường và thầy Karmen, ông đã thực hiện hai bộ phim tài liệu ngắn, một làm ở Cuba và một làm ở Siberia. Cả hai tác phẩm đã đoạt giải thưởng tại các liên hoan phim sinh viên ở Warszawa, Leipzig và Moskva.[18] Một trong số hai tác phẩm này là Nơi chúng tôi đã sống (Там где мы жили), bài tập năm thứ hai của ông khi đi thực tập ở Siberia. Nội dung phim nói về cuộc sống lao động của những sinh viên quốc tế trên công trường đường sắt Baikal – Amur, Siberia. Tuy chỉ là bài tập khóa, bộ phim đã được trao giải Hoa cẩm chướng đỏ bởi nhà trường, đồng thời được đem đi dự thi ở Ba Lan và đưa đi trình chiếu ở nhiều nước Đông Âu; bộ phim sau này đã trở thành kinh điển, hàng năm được các sinh viên khoa đạo diễn điện ảnh của trường xem.[42] Ông đã quyết định chọn bộ phim này làm phim tốt nghiệp rồi tốt nghiệp trường loại xuất sắc[19] và về Việt Nam sớm hơn một năm do không phải ở lại làm sản phẩm tốt nghiệp.[38]

Phản bội

Tháng 9 năm 1977, ông trở về Việt Nam, làm việc tại Xưởng phim Tài liệu và Khoa học Trung ương theo biên chế.[43][44] Ông đã được giao thực hiện bộ phim tài liệu về xung đột (sau này là chiến tranh) biên giới Việt Nam – Trung Quốc công chiếu năm 1979 mang tên Phản bội.[45][46] Bộ phim này dài 8 cuốn (80 phút),[47] do ông tự chấp bút viết kịch bản,[48] vào thời điểm đó được nhiều người xem là phim tài liệu dài nhất,[49] do đó cũng khó làm và khó hấp dẫn người xem vì vấn đề thời lượng.[50] Phim có bao gồm các cuộc phỏng vấn với các tù nhân chiến tranh Trung Quốc và những thủ pháp trong điện ảnh để nêu bật lên sự vi phạm chủ quyền của Trung Quốc với Việt Nam.[18] Việc thực hiện bộ phim có được sự hỗ trợ nhiệt tình từ Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch. Thời điểm bộ phim hoàn thành, Xưởng phim Tài liệu Khoa học Trung ương chưa đưa ra hoặc một quyết định gì cụ thể về bộ phim, tuy nhiên Nguyễn Cơ Thạch sau khi được mời xem phim đã khen ngợi bộ phim là "hấp dẫn". Mặt hình thức thể hiện của bộ phim từng bị cho là bắt chước cách làm phim của dự án phim tài liệu lớn, dài 4 tập bởi hai đạo diễn Đông Đức Walter Heynowski và Gerhard Scheumann Phi công mặc quần áo ngủ.[50][51] Dù vậy, chính hai đạo diễn này khi xem bộ phim đã phát biểu rằng:[50]

Sau khi ra mắt, bộ phim đã được chiếu lại vô số lần ở nhiều nơi khác nhau,[52] được đem đi tham dự nhiều liên hoan phim quốc tế (có DOK Leipzig),[53][54] trong đó được trao tặng bằng khen bởi Ủy ban bảo vệ hòa bình Liên Xô.[55] Bộ phim cũng được trao giải Bông sen vàng hạng mục Phim tài liệu tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ V (1980), cùng với hai tác phẩm của Bùi Đình Hạc Nguyễn Ái Quốc đến với Lê NinĐường về Tổ quốc, dù theo cơ chế của liên hoan chỉ có duy nhất một giải Bông sen vàng được trao cho một bộ phim của hạng mục.[50][56] Viết trong cuốn Lịch sử điện ảnh cách mạng Việt Nam, nhà biên kịch Bành Bảo đã ghi nhận bộ phim khi đánh dấu bước tiến mới trong việc áp dụng thành tựu kỹ thuật phim tài liệu và vô tuyến truyền hình vào điện ảnh chính luận Việt Nam cũng như bước tiến mới về mặt phát triển ngôn ngữ nghệ thuật của điện ảnh Việt Nam.[57] Sau này, đây được coi là bộ phim tài liệu hấp dẫn nhất của lịch sử phim tài liệu chính luận Việt Nam.[28][58] Tuy nhiên sau khi chiến tranh kết thúc, các bản phim đã hoàn toàn không thể tìm thấy và được cho là bị chính quyền "giấu đi" vì lý do chính trị.[53][59]

1982–1987: Thành công vang dội với Hà Nội trong mắt aiChuyện tử tế

Thủ tướng Phạm Văn Đồng là người đã xem Hà Nội trong mắt ai vào năm 1983 và sau đó đã tác động hết mức có thể để bộ phim được phát hành ra đại chúng. Dù vậy, tác phẩm vẫn bị ra chỉ thị cấm chiếu bởi những chính khách cấp cao khác[60]

Sau thành công lớn với Phản bội, cả năm 1981 ông đã không có hoạt động nghệ thuật mới.[38][61] Đến năm 1982, Trần Văn Thủy được cấp trên giao làm đạo diễn cho một bộ phim tài liệu về Hà Nội mang tên Hà Nội năm cửa ô. Sau khi đọc kịch bản được duyệt, do Đào Trọng Khánh chấp bút, ông đã quyết định sửa lại hoàn toàn thành một nội dung khác sau khi tìm hiểu thực tế đời sống xã hội lúc bấy giờ.[62][63] Thông qua các nhân vật và câu chuyện lịch sử của thành phố trong quá khứ, ông đã dần tạo nên nội dung cho bộ phim.[64] Phim cũng có xuất hiện của những người đương thời là nghệ sĩ guitar mù Văn Vượng và họa sĩ Bùi Xuân Phái, với các cảnh quay được thực hiện xung quanh thành phố thời bao cấp. Khác với phong cách chính luận của các bộ phim tài liệu khi đó, Hà Nội trong mắt ai khắc họa nên một thủ đô mang "âm hưởng tha thiết, trong sáng và có chút ngậm ngùi từ tình yêu dành cho nó [...] với vẻ đẹp về chiều sâu tư tưởng, về cách trị nước yên dân trong quá khứ".[63]

Sau khi hoàn thành, Hà Nội trong mắt ai đã sớm vấp phải rắc rối của các cơ quan kiểm duyệt khi đó. Bộ phim bị cho là "mượn chuyện xưa để nói chuyện nay", đụng chạm tới quan chức và bị một số lãnh đạo trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa cho là "có vấn đề".[64] Trong văn bản của Đại hội Hội Điện ảnh lần thứ 2 soạn trước khi diễn ra đại hội, bộ phim của ông đã bị "kết tội" với ba ý gồm phim là do "thế lực thù địch xúi bẩy"; "dạy Đảng cầm quyền"; "không đi theo đường lối của Đảng [...] gieo rắc vào quần chúng những hoài nghi bi quan và tiêu cực".[61] Tuy không có một văn bản nào chính thức, nhưng bộ phim đã bị cấm chiếu,[65][66] dù có một đoạn thời gian từ tháng 10 năm 1983 từng được phép chiếu nhờ sự can thiệp của thủ tướng Phạm Văn Đồng.[50] Trong thời gian này, ông cũng làm tiếp một bộ phim khác mang tên Chuyện tử tế, bất chấp sự ngăn cản từ gia đình.[67] Khác với tác phẩm trước, lần này bộ phim đi sau vào những thân phận cơ cực của những người nghèo khổ.[65] Bộ phim được ông hoàn thành vào năm 1985,[68] trong hoàn cảnh gia đình rất khó khăn và bị công an chính quyền theo dõi gần nhà 24/24,[69] nhưng sớm sau đó cũng chung số phận với Hà Nội trong mắt ai khi không thể tới được công chúng.[70][65]

Với Hà Nội trong mắt ai, Chuyện tử tế..., khác với phim tài liệu mang tính tuyên truyền trước đó, tác giả đã bộc lộ quan điểm riêng. Lần đầu tiên người ta được nghe những lời nói thật về nhân tình thế thái.
Đó chính là thiên chức thiêng liêng của người làm phim tài liệu mà trước đó người ta ít thấy. Trần Văn thủy, bằng lòng dũng cảm, chính trực của một nghệ sĩ đã vượt thoát khỏi dàn đồng ca mà cất lên tiếng nói thống thiết của nhân dân.

Nguyễn Thước, [61]

Năm 1987, sau khi Việt Nam bước vào giai đoạn Đổi Mới, Trần Văn Thủy đã được Nguyễn Văn Linh ủng hộ bộ phim Hà Nội trong mắt ai, sau đó ông đã cho tập hợp những cán bộ quản lý văn hóa văn nghệ, chủ tịch, tổng thư ký các hội văn học nghệ thuật cùng xem phim để cho phiếu chiếu hay không chiếu phim và tất cả mọi người đều thông qua việc chiếu phim.[50] Cùng lúc này, Nguyễn Văn Linh cũng gặp riêng Trần Văn Thủy, đề nghị ông làm tiếp phần 2 của phim tài liệu này. Vì vậy mà cả hai tác phẩm vốn nằm kho từ lâu đã có dịp được ra mắt cùng một lúc.[65][71] Thời điểm ra mắt tại Hà Nội vào 1987,[72][73] cả hai tác phẩm đã được khán giả đón nhận nồng nhiệt.[74][75] Các buổi chiếu rạp của bộ phim tại thủ đô luôn trong tình trạng kín chỗ, người dân thậm chí phải xếp hàng để mua vé xem tác phẩm tài liệu về Hà Nội này. Đây được xem là sự kiện chưa từng có đối với thể loại phim tài liệu sản xuất trong nước, vốn ít được quan tâm và thường chỉ chiếu kèm phim truyện hoặc chiếu miễn phí.[60][76]

Hà Nội trong mắt ai về sau đã được công chiếu lại hàng ngàn lần và đoạt giải Bông sen vàng hạng mục Phim tài liệu cũng như ba hạng mục khác gồm biên kịch, đạo diễn, và quay phim tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 8 năm 1988,[77][50] trong khi đó Chuyện tử tế cũng đoạt giải Bồ câu vàng tại Liên hoan phim tài liệu quốc tế Leizpig vào năm 1988,[63] bất chấp việc phim từng bị chính quyền Việt Nam ngăn không cho chiếu tại nước ngoài.[65] Nhiều khán giả và báo chí nước ngoài đã gọi Chuyện tử tế là "một quả bom đến từ Việt Nam nổ tung ở thành phố Leizpig".[65][78]

Cả hai bộ phim Hà Nội trong mắt aiChuyện tử tế đã thu hút hàng triệu khán giả,[79] cho đến nhiều thập kỷ sau đó vẫn được cho là còn giữ nguyên tính thời sự,[80][81] là bộ đôi tác phẩm thành công nhất và nổi tiếng nhất của đạo diễn Trần Văn Thủy.[82][65] Riêng đối với Chuyện tử tế, phim đã được chiếu tại vô số liên hoan phim, sự kiện điện ảnh khác nhau trên thế giới,[83][84] tạo nên một lượng tín đồ người xem từ quốc tế[85] cũng như người Việt hải ngoại[86] và được nhiều đài truyền hình từ các nước mua bản quyền về chiếu.[68][65] Phim cũng từng được đạo diễn người Mỹ John Giavito đề cử vào một trong mười bộ phim hay nhất thế giới mọi thời đại của Viện phim Anh.[87][88] Đến năm 2008, Chuyện tử tế đã được chọn chiếu tại Liên hoan phim Viennale của Áo trong chương trình vinh danh những nhân vật đặc biệt và lịch sử điện ảnh có tên "Lessions and lesions: Vietnam".[89][90] Sau này, cả hai bộ phim giúp đem về cho ông giải thưởng Bùi Xuân Phái – Vì tình yêu Hà Nội vào năm 2022.[91][92]

1988–nay: Các dự án phim khác

Giai đoạn này, Trần Văn Thủy vẫn tiếp tục sản xuất và viết kịch bản kiêm đạo diễn của nhiều bộ phim tài liệu khác nhau. Nhờ những thành tựu điện ảnh, ông từng được bầu vào ban chấp hành của Hội Điện ảnh Việt Nam tại Đại hội IV Hội Điện ảnh Việt Nam vào tháng 8 năm 1995.[93][94] Ông cũng được mời vào làm thành viên ban giám khảo phim tài liệu của các liên hoan phim quốc tế, giải thưởng điện ảnh lớn trong nước như DOK Leipzig (1989),[28] Giải Cánh diều,[95] Liên hoan Truyền hình toàn quốc,[96] Giải Văn hóa doanh nhân Việt Nam,[97]...

Phim về đề tài hậu chiến

Trong giai đoạn cuối thập niên 90, ông đã thực hiện hai dự án phim lớn, lấy chủ đề xoay quanh thân phận con người thời hậu chiến. Năm 1996, ông đã hợp tác với đạo diễn Hồ Trí Phổ[98] thực hiện một bộ phim nói về đề tài cuộc sống của gia đình cựu phóng viên Việt Nam thời hậu chiến, có hai người con bị khuyết tất bẩm sinh do ảnh hưởng từ chất độc màu da cam Chuyện từ góc công viên.[22][99] Khác với những bộ phim tài liệu trước đó có sử dụng lời bình, bộ phim này ông đã không sử dụng lời bình, không có nhạc – là phương pháp làm phim tài liệu hiện đại vốn còn rất sơ khai tại Việt nam khi ấy.[59][53]

Năm 1998, vào đúng ngày tưởng niệm 30 năm cuộc thảm sát Mỹ Lai, ông đã xuất xưởng bộ phim tài liệu dài 32 phút[85] có tên Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai, với nhân vật chính là một cựu chiến binh người Mỹ Mike Boehm[100] luôn cố gắng đem đến tiếng vĩ cầm cho người dân sinh sống nơi đây và những người đã khuất, cùng với đó là cuộc trở về của những người lính Mỹ từng tham gia vào thảm sát Mỹ Lai.[101] Bộ phim này đã đạt nhiều giải thưởng lớn ở cả trong nước và quốc tế, trong đó có giải Hạc vàng hạng mục phim ngắn hay nhất tại Liên hoan phim châu Á-Thái Bình Dương lần thứ 43 (1999) và giải Bông sen bạc Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 12 cùng năm,[102] cũng như đem về cho Trần Văn Thủy giải "Đạo dễn xuất sắc" thứ hai của Liên hoan phim Việt Nam.[103] Dù vậy, khi mới hoàn thành, bộ phim đã không được Cục Điện ảnh duyệt vì bộ phim được thực hiện mà không có sự cho phép của Cục. Phải đến khi nguyên bộ trưởng Bộ Văn hóa Nguyễn Khoa Điềm được nguyên giám đốc Nguyễn Văn Nhân và Lê Mạnh Thích mời xem phim,[104] bộ phim mới được Cục xem và duyệt, cho in nhiều bản và gửi ra nước ngoài tranh cử liên hoan phim quốc tế.[105] Phim từng được trình chiếu tại Liên hoan phim tài liệu châu Âu – Việt Nam lần thứ 7[106][107] và đã được thí điểm và sau đó là chính thức đưa vào chương trình giảng dạy dưới dạng chuyện kể của các học sinh lớp 5 trên khắp Việt Nam.[85][108]

Từ năm 1989 – 1990, các bạn bè ở hải ngoại đã tổ chức cho ông đi phỏng vấn, khảo sát và nghiên cứu về cộng đồng người Việt di cư vì chiến tranh ở các nước Tây Âu bằng camera ghi hình với dung lượng 100 giờ băng. Sau khi hoàn thành, ông đặt tên cho bộ phim là Thầy mù xem voi, dài 2 tập.[109] Tuy vậy, hai bộ phim này không được chiếu tại Việt Nam vì lý do chính trị.[16]

Phim làm theo đơn đặt hàng

Sau sự nổi tiếng của Chuyện tử tế, ông đã được nhiều hãng phim, đài truyền hình tài trợ và mời cộng tác làm phim.[110][111] Tác phẩm đầu tiên thuộc kiểu này là bộ phim Một cõi tâm linh, sản xuất năm 1992 và công chiếu năm 1993, do đài Channel Four (Anh) tài trợ làm phim.[112] Bộ phim gom góp nhiều chuyện về thờ cúng, các khái niệm tâm linh của người Việt Nam. Trước đó, ông đã được mời sang nước Anh để bàn bạc việc sản xuất và rồi khi về nước vẫn tiếp tục giữ liên lạc thông qua đạo diễn Nel Gibson. Sau khi vị đạo diễn này đột ngột qua đời bị đột tử, nhà đài đã gửi một bức thư thẳng đến thủ tướng Võ Văn Kiệt để nhờ chuyển lá thư của đài Nel Gibson vẫn còn giữ cho Trần Văn Thủy, thực hiện bộ phim. Cũng nhờ sự kiện này mà ông đã không gặp phải bất cứ trở ngại nào trong quá trình làm phim.[113] Cùng trong năm này, ông đã được đài NHK (Nhật Bản) tài trợ để làm một bộ phim tài liệu về con người Việt Nam mang tên Có một làng quê.[114] Ông đã về làng gốm Phù Lãng, tỉnh Bắc Ninh để thực hiện phim.[63][115] Trong quá trình ghi hình, ông được nhà đài cho thuê trực thăng để quay phim.[116] Bộ phim hoàn thành vào năm 1994 và công chiếu trên truyền hình cùng năm.[43]

Sau khi nghỉ hưu khỏi xưởng phim tài liệu trung ương,[82] vào năm 2007, ông đã hoàn thành bộ phim tài liệu dài 4 tập về nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh mang tên Mạn đàm về người Man Di hiện đại. Ý tưởng thực hiện bộ phim xuất phát từ ông Nguyễn Lân Bình, cháu nội của Nguyễn Văn Vĩnh, và ông cũng là đứng ra tổ chức đầu tư phim lẫn chấp bút viết kịch bản. Trần Văn Thủy đã được yêu cầu thực hiện bộ phim và đồng biên kịch, còn Nguyễn Sĩ Bằng là người quay phim.[117][70] Phim được hoàn thành trong vòng một năm,[118] trải dài qua vô số địa điểm khác nhau từ Bắc, Trung, Nam Việt Nam[119] đến Lào, Pháp,... để thực hiện việc ghi hình và tìm kiếm tư liệu.[117] Trong quá trình làm phim, đạo diễn Trần Văn Thủy đã bày tỏ sự tâm đắc với tác phẩm.[120] Tuy ban đầu chỉ được sản xuất làm phim tư liệu trong nội bộ gia đình, công chiếu cho nội bộ gia tộc và một số bạn hữu, trường đại học,[121] phim đã dần được các nhà nghiên cứu để ý đến và sau đó là cả các cơ quan truyền thông, dư luận Việt Nam và quốc tế.[117] Tác phẩm đã được chiếu chính thức sau đó tại Trung tâm Văn hóa Pháp tại Hà NộiThành phố Hồ Chí Minh; buổi chiếu phim tại Hà Nội được mô tả là "quá đông người".[122][117] Phim đã nhận được nhiều phản hồi tích cực, được đánh giá là "vượt ngưỡng rất xa khỏi tư liệu gia tộc" và còn từng được mời chiếu tại Pháp cũng như các nước khác.[117][123]

Nhân sự kiện Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, ông đã cùng với đạo diễn Nguyễn Sỹ Chung thực hiện bộ phim tài liệu về đề tài âm nhạc cổ truyền và tân nhạc mang tựa Vọng khúc ngàn năm theo đơn đặt hàng của Nhà xuất bản Âm nhạc Việt Nam.[124] Bộ phim có độ dài 4 tập, mỗi tập 90 phút nói về mỗi chủ đề khác nhau.[125] Nguyễn Sỹ Chung là đồng đạo diễn của bộ phim; hai tập phim đầu sau đó đã được phát hành rộng rãi dưới dạng đĩa DVD trên toàn quốc.[126]

Sự nghiệp sáng tác

Sách nghiên cứu

Đến năm 2002, sau khi nghỉ hưu vào năm 2001, Viện William Joiner Center (WJC) thuộc Trường Đại học Massachusetts Boston đã có lời ngỏ mời Trần Văn Thủy sang Mỹ tham gia chương trình "Nghiên cứu về cộng đồng người Việt". Sau hai lần nhận được lời mời, ông đã quyết định sang Mỹ trong sáu tháng[19] và tại đây ông tiếp xúc với nhiều hoàn cảnh, bị ám ảnh bởi những thân phận phải đi tha hương sau 1975 và từ đó dành toàn bộ công sức vào chương trình mà ông tham gia và làm công trình nghiên cứu. Trong quá trình sáng tác, ông đã đi phỏng vấn những người bạn đồng lớp cũ, giới văn chương, tri thức để phỏng vấn và trò chuyện cởi mở về cuộc sống và suy nghĩ của người Việt tại Mỹ. Vào năm 2003, sau khi hoàn thành xong bản thảo nghiên cứu dài trên 200 trang, hai tuần trước khi về nước, Trần Văn Thủy đã có dịp gặp nhà văn Nguyên Ngọc và được ông thúc giục in công trình thành sách và cùng năm, cuốn sách đầu tay dài 196 trang của ông mang tên Nếu đi hết biển đã ra đời.[127]

Cuốn sách được in ở California sau khi phát hành gây nên tranh cãi phản ứng dữ dội trong cộng đồng người Việt ở Mỹ;[128][129] có người đã viết hẳn một cuốn sách để phản bác công trình cả Trần Văn Thủy và chỉ trích ông.[86] Những ý kiến cáo buộc cho rằng cuốn sách được phát hành có chủ đích trong hoàn cảnh một nghị quyết của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đang được triển khai tại cộng đồng đồng người Việt ở hải ngoại, cùng với đó là việc hầu hết những người được phỏng vấn trong sách là những người tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại.[130] Dù vậy, Nếu đi hết biển sau đó vẫn được tiếp tục tái bản tại Mỹ một lần nữa vào năm 2004.[19] Ngoài những tranh luận ở cộng đồng hải ngoại, cuốn sách cũng không được sự công nhận từ chính quyền Việt Nam.[128] Cuốn sách này đã không được phổ biến tại Việt Nam;[59] cũng từng có nhà xuất bản tại Việt Nam muốn in sách ra nhưng được Trần Văn Thủy yêu cầu phải giữ "đúng từng dấu chấm, dấu phẩy".[127]

Hồi ký

Vào ngày 20 tháng 5 năm 2013, ông và đồng tác giả Lê Thanh Dũng đã ra mắt cuốn hồi ký dài 29 chương, 480 trang về cuộc đời ông mang tên Chuyện nghề của Thủy, do Nhà xuất bản Hội nhà văn và Công ty sách Phương Nam ấn hành.[131][58] Ý định viết cuốn sách này khởi đầu từ năm 2011 – 2012, khi đó hai học giả người Mỹ là Michael Ronov và Dean Wilson[a] sang phỏng vấn ông để viết một bài luận với tựa đề "Tran Van Thuy's Story of Kindness: Spirituality and Political Discourse" suốt nửa năm;[b][133][134] ông cùng Lê Thanh Dũng sau đó đã dành ra 10 tháng tiến hành sắp xếp lại các thông tin mà ông đã nói với hai học giả và bổ sung thêm những điều chưa kể.[59][135] Trong cuốn sách cũng có một số chương của Nếu đi hết biển mà ông đưa vào.[59] Dù có lo sợ tác phẩm sẽ không được phép xuất bản và có thể bị cắt gọt nhưng đến cuối cùng bản thảo của ông đã được giữ nguyên từ đầu đến cuối.[136]

Các buổi ra mắt sách đã được lên kế hoạch tổ chức trên khắp cả nước và thu hút nhiều người tham gia, đi qua lần lượt năm tỉnh, thành phố lớn là Thành phố Hồ Chí Minh, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế và Hà Nội.[137][34] Tuy ban đầu sách chỉ được in 1000 và nhà xuất bản và phát hành lo sợ nguy cơ lỗ,[138] cuốn sách đã nhanh chóng được bán hết[139] và có được sự đón nhận và phê bình tích cực từ độc giả,[135][140] được tái bản lại nhiều lần[19][141] và sau đó đã được trao giải "Phát hiện mới" tại Giải Sách hay năm 2013.[142] Nhà văn người Mỹ Wayne Karlin và tác giả Nguyễn Quang Dy đã chuyển ngữ cuốn sách sang tiếng Anh với tựa đề In Whose Eyes, do nhà xuất bản Đại học Massachusetts ấn hành vào năm 2016.[143][144] Đây được xem là cuốn hồi ký đầu tiên của một đạo diễn Việt Nam được in ra tiếng Anh.[145]

Cùng thời điểm bản tiếng anh của Chuyện nghề của Thủy được in tại Mỹ, ông cũng cho ấn hành cuốn sách với tựa Trong đống tro tàn,[146] một cuốn tạp bút gồm 16 tiểu luận dài 430 trang, bàn luận về những vấn đề chính trị và những câu chuyện có thật về thân phận con người. Cuốn sách do nhà xuất bản Người Việt Books ấn hành.[147][148]

Phong cách sáng tác và quan điểm

Bất kỳ một sản phẩm văn hóa nào không có tư tưởng thì không nên gọi là tác phẩm. Còn một tác phẩm rời xa thân phận con người không bao giờ có thể thành kiệt tác.[91]


Cái xứ mình có quá nhiều chuyện hay, không phải đóng diễn, bịa đặt. Tôi vẫn thường nói với các học trò của tôi rằng, cái dở nhất của người làm phim tài liệu chúng ta là cuộc đời vốn thật thì ta làm thành giả. Bình thường cuộc đời rất hồn nhiên, ta mang phương tiện, máy móc... đến, hô bật đèn lên, bấm máy đi... thế là tất cả mọi thứ "chết cứng" hết cả lại, nó không thật nữa.[149]

Trần Văn Thủy

Trong các tác phẩm điện ảnh của mình, Trần Văn Thủy đều hướng tới con người xoáy sâu vào tâm tư, số phận cá nhân của họ.[150][151] Đối với ông, điểm xuất phát của những bộ phim tài liệu ông làm là lòng yêu nước;[20] ông luôn đề cao "sự thật" và "con người" trong tư tưởng và trong cả những bộ phim tài liệu của mình.[91][116] Ông chú trọng vào nỗi đau và khát vọng của dân chúng,[38] cũng như luôn dành một sự quan tâm đặc biệt về cách mà các tác phẩm nghệ thuật phản ánh hiện thực xã hội.[152] Điều này được thể hiện rõ nhất sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI, đạo diễn Trần Văn Thủy và Đặng Nhật Minh đã bắt đầu sáng tác các tác phẩm điện ảnh theo trường phái Cinéma vérité.[c][153] Ngoài ra, ông còn là một nhà làm phim theo chủ nghĩa xét lại, giống với một thế hệ các nhà làm phim tiên phong khi ấy.[154] Tuy nhiên cũng vì lối đi này, ông đã gặp phải cản trở từ các cấp cơ quan kiểm duyệt của chính quyền.[20] Thậm chí, chỉ tính đến năm 2016, vẫn còn những bộ phim do ông thực hiện chưa được phép công chiếu rộng rãi ra công chúng.[146][151]

Đạo diễn Trần Văn Thủy cho biết người gây ảnh hưởng đến sự nghiệp làm phim của ông là đạo diễn nổi tiếng người Liên Xô Roman Karmen.[38] Sự thành công của những bộ phim tài liệu của ông cũng dựa trên kinh nghiệm và tác động sâu sắc của nền điện ảnh Liên Xô.[45] Chính Roman Karmen là người đã truyền cảm hứng cho Trần Văn Thủy về nhân cách, điều tạo nên một nghệ sĩ, cũng như quan niệm phải "đánh đúng vào dây thần kinh của xã hội".[140] Phần lớn các bộ phim của Trần Văn Thủy, giống với đồng nghiệp lúc bấy giờ, được thực hiện theo lối kể tự sự, hình ảnh, âm nhạc chỉ là phụ còn lời bình là trung tâm.[117][155] Tất cả các bộ phim ông từng thực hiện đầu là phim tài liệu, trong đó tự viết kịch bản và viết lời bình,[156] mà theo ông là vì "có thể trình bày được cái gì mình nghĩ cho cuộc đời mình [...] lương tâm mình thanh thản và mình cảm thấy nó vui lòng".[70] Dù vậy trên thực tế, hầu hết các bộ phim ông làm đều không có sẵn kịch bản mà nó được hình thành thông qua quá trình đi tìm ý tưởng và ghi hình phim.[157] Trong một cuộc phỏng vấn, ông nhận định rằng "[phim tài liệu] phải truyền tải được một thông điệp gì đó về lẽ sống, về cách ứng xử, về bổn phận [...] lấy mục tiêu con người, xoay quanh con người".[127] Ông tự nhận mình chưa bao giờ làm phim mang tính khoa trương, tụng ca.[135] Đối với đạo diễn Trần Văn Thủy, bên cạnh "đúng và đủ", tính hấp dẫn của một tác phẩm phim tài liệu cũng được ông chú trọng và là "tiêu chí đầu tiên" của đạo diễn.[158][155]

Về quan điểm xã hội, ông đặt ra điều quan trọng nhất đối với xã hội Việt Nam là nhân cách và "sự tử tế".[140][159][160] Ông luôn dành một sự quan tâm nhất định và cái nhìn trực diện về chính trị,[70][161][138] về vấn đề hòa hợp dân tộc Việt Nam[162] và cuộc sống con người hậu 1975, ở lĩnh vực điện ảnh đã có thể thấy rõ qua những bộ phim ông làm về đời sống xã hội Việt Nam, điển hình là hai bộ phim tài liệu Hà Nội trong mắt aiChuyện tử tế. Ở lĩnh vực văn chương, cuốn sách đầu tay đầu tay của ông Nếu đi hết biển có nói về vấn đề hòa hợp dân tộc Việt Nam, viết về những câu chuyện và phỏng vấn các văn nghệ sĩ, giới tri thức tại hải ngoại, trong số đó có những người theo chủ nghĩa chống Cộng, từng bị phê phán cũng vì đưa ra một cái nhìn trực diện vào vấn đề nhạy cảm ít ai muốn nhắc đến. Lối khai thác này cũng được áp dụng tương tự với cuốn hồi ký về cuộc đời ông Chuyện nghề của Thủy xuất bản một thập kỷ sau đó.[20]

Phim tài liệu

Năm

sản xuất

Phim Vai trò Hãng sản xuất Ghi chú Tham khảo
Đạo diễn Biên kịch Quay phim
1970 Những người dân quê tôi Xưởng phim điện ảnh Giải Phóng khu V bộ phim đầu tay, quay ở chiến trường Quảng Đà; có sự đóng góp của liệt sĩ Tý (bút danh Triều Phương), sau này được Trần Văn Thủy đưa lên làm đồng biên kịch bộ phim[131] [35][163]
1977 Nơi chúng tôi đã sống Trường Đại học Điện ảnh Moskva quay tại Liên Xô [43][18]
1979 Phản bội Không Xưởng phim Tài liệu và Khoa học Trung ương phim nói về Chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979; hiện các bản phim hoàn toàn không thể tìm thấy và được cho là bị "giấu đi" vì lý do chính trị sau đó[53] [57][164]
1982 Hà Nội trong mắt ai Không cả hai bộ phim đều được quay dưới định dạng phim 35mm[165][166] Chuyện tử tế được xem là tập 2 của Hà Nội trong mắt ai[65] [167][168]
1985 Chuyện tử tế Không [169][170]
1986 Có hai câu tục ngữ Không Không phim thực hiện ở Liên Xô [171]
1989-1990 Thầy mù xem voi phim được thực hiện ở một số nước Tây Âu; gồm 2 tập, tập 1 có tên "Chuyện vặt xứ người" còn tập 2 có tên "Chuyện đồng bào"[172] [173][2]
1992 Chợ tình Khâu Vai Xuởng phim Tài liệu và Khoa học Trung ương [174][175]
1993 Một cõi tâm linh Không Hãng phim Thanh Niên phim làm cho kênh Channel Four (Vương quốc Anh) [44][176]
1993 The Vietnam Peace Không Không Đài ABC phim gồm 3 tập. Tham gia với tư cách cộng tác viên của đài ABC (Úc) [44][177]
1994 Có một làng quê Xuởng phim Tài liệu và Khoa học Trung ương phim được tài trợ bởi đài NHK (Nhật Bản) [178][44]
1996 Chuyện từ góc công viên Không Hãng phim Tài liệu và Khoa học Trung ương [179][180]
1998 Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai Không Không Xuởng phim Tài liệu và Khoa học Trung ương Phim sản xuất và phát sóng tưởng niệm 30 năm vụ Thảm sát Mỹ Lai [181][85]
1999 Nam Retour sur image Không Không Do Quak Production tham gia vào quá trình chỉ đạo phim. Do Quak Production (Pháp) sản xuất [19][182]
2000 Tưởng nhớ Giáo sư Hoàng Minh Giám Xuởng phim Tài liệu và Khoa học Trung ương phim về Hoàng Minh Giám [183][184]
2001 Nhà thờ Phát Diệm Giáo phận Phát Diệm Phim gồm 2 tập, tập 2 là "Lời của đá". Sản xuất nhân kỷ niệm 100 năm thành lập Giáo phận Phát Diệm [161][185]
2006 Vượt lên chính mình Trung tâm Nghiên cứu Sức khoẻ Cộng đồng và Phát triển (COHED) [186][187]
2006-2007 Mạn đàm về người Man Di hiện đại Không [d] phim nói về nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh, dài 4 tập với tổng thời lượng 215 phút [117][120]
2010-2011 Vọng khúc ngàn năm Nhà xuất bản Âm nhạc phim thực hiện theo đơn đặt hàng của nhà xuất bản nhân Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội; đồng đạo diễn Nguyễn Sỹ Chung, dài 4 tập, mỗi tập 90 phút [124][125]
2015 Alexander Yersin Không Không Xuởng phim Tài liệu và Khoa học Trung ương đồng đạo diễn Đào Thanh Tùng và Nguyễn Sĩ Bằng [188][189]
2023 Mẹ ngóng con về Không Không Không Đài Truyền hình Việt Nam chiếu trong chương trình VTV Đặc biệt; phim do ông lên ý tưởng, đề tài [63][190]

Di sản

Những người làm phim như Thủy là những người đặc biệt nhất, can đảm nhất. Có thể nói không ngần ngại rằng anh là người làm phim tài liệu chính luận giỏi nhất nước ta. Trần Văn Thủy có một cái gì đó hơi giống Trịnh Công Sơn, bởi sự hòa quyện tuyệt vời giữa hình ảnh và lời bình, nâng giá trị của phim tư liệu lên rất nhiều...

Nguyên Ngọc, [131]

Trong giới phim tài liệu Việt Nam, Trần Văn Thủy đã trở thành "một cây đa, cây đề"[146] và được mệnh danh là "đạo diễn phim tài liệu số một của Việt Nam"[152][20] và là "Francis Coppola của Việt Nam".[26][191] Ông từng được mời vào vô số những buổi thuyết trình, hội thảo, các buổi phỏng vấn từ tại Việt Nam đến khắp nơi trên quốc tế về các bộ phim của ông, nhiều nhất là Mỹ,[e][19][193] cùng với đó là chia sẻ của ông về chính trị, xã hội.[194][195][162][196]

Trong bối cảnh đất nước vẫn còn trong thời kỳ bao cấp, giới văn nghệ sĩ vẫn chưa được "cởi trói",[197][198] ông đã trở thành người dũng cảm thực hiện các bộ phim phê phán hiện thực xã hội.[199] Được xem như là một "Perestroika Việt Nam" trong công cuộc Đổi Mới,[200] tác phẩm của ông đã gây ra vô vàn tranh cãi vì nó không chỉ cho thấy mặt tối của những chính khách trong Đảng mà còn phơi bày nó một cách trần trụi.[201] Dù thực tế phổ biến là các nhà làm phim Việt Nam không được phép làm những bộ phim mang tính phê phán tầng lớp lãnh đạo, hai tác phẩm Hà Nội trong mắt aiChuyện tử tế của ông sau này đã đóng vai trò tiên phong trong quá trình công khai hóa ("glasnost"[202]) của Đảng Cộng sản Việt Nam khi bước sang thời kỳ Đổi Mới, cho thấy một thực tế rằng việc chỉ trích, phê bình chính phủ và phương cách quản trị đất nước vẫn xuất hiện trong các tác phẩm sản xuất bởi nhà nước Việt Nam.[203][204] Mặc dù tác phẩm của ông đóng vai trò nổi bật và góp phần vào làn sóng các tác phẩm "mới",[205][206] sự tự do trong nghệ thuật và báo chí chỉ một thời gian sau đó cũng dần bị đóng lại và "ở hồi kết".[207] Theo nhận định của tác giả Đoàn Ánh Dương (2020), ông đã "phá vỡ những khung khổ hiện thực quen thuộc để phơi bày các hiện thực nghệ thuật mới trong phim nghệ thuật [với Đặng Nhật Minh] và phim tài liệu".[208]

Ngoài điện ảnh, Trần Văn Thủy cũng là một nhân vật gây tranh cãi vì quan điểm chính trị của ông. Giống như các văn nghệ sĩ thời kì Đổi Mới, ông đã đặt câu hỏi và thách thức những điều được tôn vinh trong Chiến tranh Việt Nam và thời hậu chiến của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các tác phẩm của mình. Cho đến nhiều thập kỷ sau, ông vẫn tiếp tục là một nhân vật gây tranh cãi, thường xuyên lên tiếng về quyền dân chủ và đổi mới chính trị tại Việt Nam.[209][194] Ông là một trong số những học giả, tri thức trong nước từng ký vào các bức thư phản đối gửi Đảng Cộng sản và Chính phủ Việt Nam về nhưng sự kiện chính trị khác nhau, trong đó có Dự án khai thác bô xít ở Tây Nguyên năm 2009.[210][211] Nhưng cũng vì vậy mà ông từng phải chịu sự dò xét của chính quyền, bị công an bắt giữ và dò xét nhiều lần và bị bộ Văn hóa gây khó dễ không cho xuất cảnh; theo chính lời ông kể lại, có một trong số những viên công an thẩm vấn ông đã chỉ thẳng mặt ông là "thằng phản động".[212] Tuy vậy, ông đã nhận được đánh giá cao từ các nhân vật quốc tế về quan điểm chính trị của ông. Trong một buổi thảo luận với đạo diễn Trần Văn Thủy vào năm 2003, giáo sư Pam McElwee đã nhận xét: "Những nhận xét của ông [Trần Văn Thủy] thực sự thẳng thắn, thực sự cởi mở, thực sự trung thực khi nói về tình hình chính trị, điều mà bạn không thể nghe thấy ở Việt Nam. [...] Ông chắc chắn là một trong những tiếng nói đơn độc, độc lập và rất tuyệt khi được nghe".[194]

Giải thưởng và vinh danh

Tính đến năm 2000, ông đã có danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú.[213] Năm 2001, ông được xét tặng lên danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân.[2][214] Ở trong nước, ông đã được nhà nước trao tặng các huân, huy chương gồm Huân chương Kháng chiến, Huy chương Vì sự nghiệp Điện ảnh và Huy chương Vì sự nghiệp báo chí.[213] Tháng 5 năm 2003, tại Hội thảo điện ảnh tài liệu Quốc tế The Robert Flaherty tổ chức ở Thành phố New York, ông đã được vinh danh là "Chứng nhân của thế giới" ("Witnessing the World").[127][28] Ông cũng từng được ghi tên vào cuốn "Từ điển danh nhân" của Nhật Bản.[127][155]

Năm 2021, Trần Văn Thủy cùng Nghệ sĩ nhân dân Đào Trọng Khánh đã được đề cử xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh ở lĩnh vực phim điện ảnh, phim truyền hình,[215] tuy nhiên ông đã không thông qua sự đồng thuận của hội đồng xét duyệt.[f][217][218] Cụm tác phẩm trong hồ sơ của đạo diễn, gồm Ở đó, nơi mà chúng tôi đã sống, Phản bội, Chuyện tử tế, Hà Nội trong mắt ai, Chuyện từ góc công viênTiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai,[219][220] đã không tích đủ 80% số phiếu đồng ý từ các thành viên Hội đồng chuyên ngành cấp Nhà nước, gây nên những ý kiến trái chiều từ người trong nghề và dư luận.[221][222] Theo tiết lộ của Trần Văn Thủy, lý do cho việc ông không thông qua sự đồng thuận của hội đồng là vì một bức thư của đạo diễn phim khoa học Nguyễn Lương Đức gửi đến Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch từ trước đó, cáo buộc bộ phim Phản bội do ông thực hiện lấy nguyên xi từ bản gốc của phim Liên Xô và chỉ lồng tiếng thuyết minh vào.[53] Việc bộ phim là một tác phẩm nói về chiến tranh biên giới cũng được cho là lý do khiến cơ quan thẩm quyền bị rơi vào thế khó xử vì sẽ bị Trung Quốc phản đối nếu trao giải cho ông nhờ cụm những tác phẩm này.[53]

Câu chuyện về quãng đời vào chiến trường của ông từng được khắc họa trong bộ phim hợp tác Việt Nam – Singapore Vũ khúc con cò, với hình tượng là một chiến sĩ vào chiến trường quay phim tên Vinh, một trong số những nhân vật chính của tác phẩm.[223][224] Vào năm 2022, nhân kỷ niệm 40 năm ngày bộ phim tài liệu Hà Nội trong mắt ai ra đời, ông đã được trao giải Bùi Xuân Phái – Vì tình yêu Hà Nội vì những cống hiến suốt đời của ông, trong đó có hai tác phẩm tiêu biểu là Hà Nội trong mắt aiChuyện tử tế.[225][149]

Giải thưởng điện ảnh

Năm Giải thưởng Hạng mục Đề cử Kết quả Tham khảo
Liên hoan phim Việt Nam
1973 Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 2 Phim tài liệu Những người dân quê tôi Bông sen bạc [163][2][226]
1980 Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 5 Phản bội Bông sen vàng [46][227][57]
Đạo diễn xuất sắc (phim tài liệu) Trần Văn Thủy Đoạt giải [53][28]
1988 Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 8 Phim tài liệu Hà Nội trong mắt ai Bông sen vàng [228][229][77]
Đạo diễn xuất sắc (phim tài liệu) Trần Văn Thủy Đoạt giải
Biên kịch xuất sắc Đào Trọng Khánh Đoạt giải
1999 Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 12 Phim tài liệu Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai Bông sen bạc [230][102][231]
Đạo diễn xuất sắc (phim tài liệu) Trần Văn Thủy Đoạt giải [231][103]
Giải thưởng Hội Điện ảnh Việt Nam
1995 Giải thưởng Hội Điện ảnh Việt Nam 1994 Phim tài liệu Có một làng quê Giải B [178]
Một cõi tâm linh Giải B
1997 Giải thưởng Hội Điện ảnh Việt Nam 1996 Chuyện từ góc công viên Giải A [53][98]
Các liên hoan phim quốc tế và trong nước
1970 Giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu Phim tài liệu Những người dân quê tôi Đoạt giải [232][233]
DOK Leipzig Bồ câu bạc [163][226][234]
1975 Liên hoan phim Trường Đại học Điện ảnh Moskva Nơi chúng tôi đã sống Hoa cẩm chướng đỏ [230][2]
1981 Ủy ban bảo vệ hòa bình Liên Xô Phản bội Bằng khen [55]
1988 DOK Leipzig Chuyện tử tế Bồ câu bạc [235][65][236]
1994 Liên hoan phim tài liệu thời sự Châu Á Có một làng quê Đoạt giải [237]
1999 Liên hoan phim châu Á-Thái Bình Dương lần thứ 43 Phim ngắn xuất sắc Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai Con hạc vàng [238][239][240]

Đời tư

Trần Văn Thủy đã kết hôn và lập gia đình với NSƯT Thủy Hằng.[241][110] Ông có hai người con: một người con trai cả là họa sĩ Trần Nhật Thăng, sinh năm 1972 và con gái tên Trần Thu Hương, là doanh nhân và nhà từ thiện.[242][38] Ông cũng có một người em rể tên Phúc, cũng là người làm phim.[61] Trước đó, chuyện hôn nhân của hai người từng bị phía gia đình Thủy Hằng phản đối vì lo ngại sức khỏe của Trần Văn Thủy sau khi vừa từ miền Nam trở về. Sau khi kết hôn, cả hai đã đến ở nhờ nhà bạn và tại cơ quan một thời gian, trước khi tích cóp đủ tiền mua một căn phòng nhỏ ở làng Ngọc Hà. Lúc đạo diễn Trần Văn Thủy trở nên nổi tiếng, vợ chồng ông đã nỗ lực mua lại được căn nhà tại số 52 Hàng Bún từ nhà thơ Phan Vũ. Căn nhà này về sau do con trai ông tiếp quản.[241] Tính đến năm 2022, vợ chồng ông đang sống tại một ngôi nhà nằm trong một con ngõ nhỏ trên đường Hoàng Hoa Thám.[38] Ngôi nhà này được xây dựng bằng số tiền ông có được từ các dự án phim với nước ngoài ông từng làm.[116]

Hoạt động từ thiện

Bên cạnh hoạt động điện ảnh, đạo diễn Trần Văn Thủy cũng được biết đến với những hoạt động từ thiện cho nhiều học sinh nghèo, cháu bé tật nguyền, nạn nhân của chất độc da cam. Ông đã cấp học bổng cho những học sinh nghèo và giúp những em bé bị tật nguyền lên thành phố chữa trị. Ở quê nhà Nam Định, thông qua một số tổ chức như "Các bạn của Trần Văn Thủy", ông đã đóng góp xây dựng nhiều công trình quan trọng cho khu vực như trường học, mở rộng đường xá, lập mộ tổ, xây nhà văn hóa,...[243][116] Ông từng giúp xây dựng một trường học tại quê hương với trị giá 420 triệu đồng.[244]

Chú thích

Ghi chú

  1. ^ Micheal Renov là giáo sư, Hiệu phó Trường Điện ảnh North California còn Dean Wilson là tiến sĩ.[132]
  2. ^ Tạm dịch: "Chuyện tử tế của đạo diễn Trần Văn Thủy: Luận về tâm linh và chính trị".[132]
  3. ^ Cinéma vérité có thể tạm dịch sang tiếng Việt là "Điện ảnh quan sát" hoặc "Điện ảnh trực tiếp"
  4. ^ Phim tư liệu do gia đình Nguyễn Văn Vĩnh đầu tư sản xuất.
  5. ^ Các bộ phim của ông từng được trình chiếu tại Liên hoan phim Brooklyn.[192]
  6. ^ Theo nguồn từ tạp chí Thế giới Điện ảnh, Trần Văn Thủy và Đào Trọng Khánh đã thông qua việc xét duyệt Giải thưởng Hồ Chí Minh với số phiếu đồng thuận là 8/9 phiếu.[216]

Tham khảo

  1. ^ Nhiều tác giả 2003a, tr. 59.
  2. ^ a b c d e Bộ Văn hóa – Thông tin 2003, tr. 48.
  3. ^ a b Trần Văn Thủy & Lê Thanh Dũng 2013, tr. 35.
  4. ^ Trần Văn Thủy 2016, tr. 51-64.
  5. ^ Trần Văn Thủy 2016, tr. 58, 62.
  6. ^ Trần Văn Thủy & Lê Thanh Dũng 2013, tr. 39.
  7. ^ Trần Văn Thủy & Lê Thanh Dũng 2016, tr. 6-7.
  8. ^ a b c d e Xuân Khánh (31 tháng 1 năm 2016). “Đạo diễn - NSND Trần Văn Thủy: "Không có người dân Quảng Nam, sẽ không có tôi bây giờ". Báo Quảng Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2023.
  9. ^ Trần Văn Thủy & Lê Thanh Dũng 2013, tr. 36.
  10. ^ Trần Văn Thủy 2004, tr. 22.
  11. ^ Trần Văn Thủy & Lê Thanh Dũng 2013, tr. 38, 116.
  12. ^ Trần Văn Thủy & Lê Thanh Dũng 2013, tr. 38-39.
  13. ^ Trần Văn Thủy 2004, tr. 26.
  14. ^ Trần Văn Thủy & Lê Thanh Dũng 2013, tr. 40.
  15. ^ Trần Văn Thủy & Lê Thanh Dũng 2013, tr. 34.
  16. ^ a b c “VNTB - Thư số 132a gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam”. Việt Nam Thời Báo. Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam. 22 tháng 12 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2023.
  17. ^ a b Trần Văn Thủy & Lê Thanh Dũng 2013, tr. 58-59.
  18. ^ a b c d e f Wilson & Ronov 2020, tr. 387.
  19. ^ a b c d e f g “Gặp gỡ Đạo diễn Trần Văn Thuỷ: "Chuyện tử tế" - Hành trình 30 năm”. mcschools.edu.vn. Trường Marie Curie Hà Nội. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2023.
  20. ^ a b c d e Ngọc An (20 tháng 10 năm 2013). “Một nhà làm phim tử tế”. Thanh Niên. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2023.
  21. ^ Trần Văn Thủy & Lê Thanh Dũng 2013, tr. 50.
  22. ^ a b Ngân Hoa (29 tháng 4 năm 2013). “Câu chuyện về sự tử tế”. Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2023.
  23. ^ Nguyễn Thị Hồng Ngát 2003, tr. 161.
  24. ^ Vi Thùy Linh (23 tháng 11 năm 2010). “Mẹ, con, phim và tiểu thuyết”. Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2023.
  25. ^ a b Trần Trọng Đăng Đàn 2010a, tr. 584.
  26. ^ a b Hải Hậu (13 tháng 12 năm 2007). “Nói "chuyện tử tế" với đạo diễn Trần Văn Thủy”. Công an Thành phố Đà Nẵng. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2023.
  27. ^ Trần Văn Thủy & Lê Thanh Dũng 2013, tr. 72-101.
  28. ^ a b c d e Bích Vân; Trần Thanh Giang; Nguyễn Đình Toán (18 tháng 7 năm 2014). “Đạo diễn Trần Văn Thủy - những thước phim, những cuộc đời”. Báo ảnh Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2023.
  29. ^ Vân Thảo (21 tháng 1 năm 2023). “Người Hà Nội tử tế”. Tạp chí Người Hà Nội. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2023.
  30. ^ a b c d Quang Đức (31 tháng 10 năm 2008). “Người may mắn nhiều lần”. Thể thao & Văn hóa. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2023.
  31. ^ Hồng Diệu (26 tháng 5 năm 2013). “Trần Văn Thủy - một 'chuyện tử tế' khác”. Tiền phong. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2023.
  32. ^ a b c Đỗ Minh Tuấn (24 tháng 1 năm 2012). “Sáu tháng ở Boston với Trần Văn Thủy”. Sức khỏe và Đời sống. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2023.
  33. ^ Trần Văn Thủy & Lê Thanh Dũng 2013, tr. 122-125.
  34. ^ a b Kỳ Thư, Mi Ly (21 tháng 6 năm 2013). “Đạo diễn Trần Văn Thủy: 'Không hối tiếc khi nói lên sự thật'. VnExpress. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2023.
  35. ^ a b Phạm Ngọc Trương và đồng nghiệp 1987, tr. 25.
  36. ^ Nguyễn Thị Hồng Ngát 174.
  37. ^ Trần Văn Thủy & Lê Thanh Dũng 2013, tr. 138.
  38. ^ a b c d e f g h Hải Nhi (25 tháng 11 năm 2022). “Đạo diễn Trần Văn Thủy: Tôi già rồi...”. Đại Đoàn Kết. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2023.
  39. ^ Trần Văn Thủy & Lê Thanh Dũng 2013, tr. 141.
  40. ^ Trần Văn Thủy & Lê Thanh Dũng 2013, tr. 143-144.
  41. ^ Trần Trọng Đăng Đàn 2010a, tr. 584-585.
  42. ^ Trần Văn Thủy & Lê Thanh Dũng 2013, tr. 144-145.
  43. ^ a b c Trần Trọng Đăng Đàn 2010a, tr. 585.
  44. ^ a b c d Văn Thọ 2003, tr. 114.
  45. ^ a b Nhiều tác giả 2007, tr. 556.
  46. ^ a b Nguyễn Thị Hồng Ngát 2005, tr. 32, 617.
  47. ^ Viện nghệ thuật và lưu trữ điện ảnh Việt Nam 2001, tr. 59.
  48. ^ Việt Lan (10 tháng 5 năm 2013). “Tình người thuở trước khác xa bây giờ”. Tuổi Trẻ. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2023.
  49. ^ Trần Văn Thủy & Lê Thanh Dũng 2013, tr. 153.
  50. ^ a b c d e f g Trần Văn Thủy; Kim Anh (6 tháng 12 năm 2011). “Gương mặt LHPVN: NSND Trần Văn Thủy”. Thế giới Điện ảnh. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2023.
  51. ^ Trần Đương (19 tháng 4 năm 2004). “Chúng tôi rất trân trọng những thước phim về Việt Nam”. Nhân Dân. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2023.
  52. ^ Mỹ Hòa; Lan Hương; H.Vũ; H.Phan; H.Hường (17 tháng 2 năm 2016). “Chiến tranh Biên giới 1979: Không thể quên lãng”. VietNamNet. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2023.
  53. ^ a b c d e f g h Nguyễn Hữu Vinh (16 tháng 2 năm 2023). “Phim "Phản bội" của đạo diễn Trần Văn Thủy: Lại thêm một "án oan"?”. Đài Á Châu Tự do. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2023.
  54. ^ Trần Văn Thủy & Lê Thanh Dũng 2013, tr. 232.
  55. ^ a b Nhiều tác giả 1983, tr. 107.
  56. ^ “Liên hoan phim Việt Nam lần thứ V - Năm 1980”. lienhoanphim.bvhttdl.gov.vn. Liên hoan phim Việt Nam. 21 tháng 10 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2023.
  57. ^ a b c Bành Bảo 1983, tr. 87.
  58. ^ a b Như Hà (24 tháng 5 năm 2013). “Ra sách về Trần Văn Thủy: Chuyện nghề của đạo diễn 'tử tế'. Thể thao & Văn hóa. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2023.
  59. ^ a b c d e Trọng Thành (10 tháng 7 năm 2013). “Tạp chí xã hội - Chuyện nghề của Thủy: Phỏng vấn đạo diễn Chuyện tử tế. RFI. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2023.
  60. ^ a b Trần Ngọc Kha (10 tháng 7 năm 2007). “Nhớ một thời "Hà Nội trong mắt ai" (tiếp)”. Hànộimới. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2023.
  61. ^ a b c d Thiên Điểu; Nguyễn Đình Toán; Võ Tân (8 tháng 10 năm 2022). “Đạo diễn Trần Văn Thủy: Nếu không dùng người tài là thiệt thòi lớn”. Tuổi Trẻ. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2023.
  62. ^ Nguyễn Thụy Kha 1998, tr. 20.
  63. ^ a b c d e Hoàng Nguyên (12 tháng 1 năm 2023). “Hà Nội trong mắt... Trần Văn Thủy”. Nhân Dân cuối tuần. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2023.
  64. ^ a b Trần Ngọc Kha (3 tháng 7 năm 2007). “Nhớ một thời "Hà Nội trong mắt ai". Hànộimới. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2009.
  65. ^ a b c d e f g h i j Thu Nguyệt; Ngọc Nhiên (22 tháng 12 năm 2007). “Đạo diễn, nghệ sĩ nhân dân Trần Văn Thủy: "Làm phim tài liệu phải... quái một chút". Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2023.
  66. ^ Trần Ngọc Kha; Bùi Dũng. “Đạo diễn Trần Văn Thủy với ký ức "Hà Nội trong mắt ai". daotao.vtv.vn. VietNamNet. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2023.
  67. ^ MacDonald và đồng nghiệp 2021, tr. 230-231.
  68. ^ a b Minh Quân (11 tháng 10 năm 2015). “30 năm bộ phim tài liệu "Chuyện tử tế". Đại Đoàn Kết. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2023.
  69. ^ Trần Văn Thủy & Lê Thanh Dũng 2013, tr. 237.
  70. ^ a b c d Mặc Lâm (7 tháng 5 năm 2011). “Đạo diễn Trần Văn Thủy”. RFA. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2023.
  71. ^ “Chuyện khó tin về hai bộ phim có số phận ly kỳ nhất lịch sử điện ảnh Việt Nam”. Tạp chí Pháp Lý. Một thế giới. 13 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2023.
  72. ^ Hồ Tài Huệ Tâm 2001, tr. 183.
  73. ^ Tambling 2022, tr. 856.
  74. ^ Phương Bùi (21 tháng 3 năm 2017). “Sự trở lại ngoạn mục”. Lao động thủ đô. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2023.
  75. ^ Ngô Thảo 1996, tr. 669.
  76. ^ Hoài Dương (30 tháng 10 năm 2015). “Phim tài liệu: Kéo khán giả bằng sự chân thực và tình người”. Đại Đoàn Kết. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2023.
  77. ^ a b Ngô Phương Lan 1998, tr. 342.
  78. ^ Mỵ Lương (13 tháng 10 năm 2015). “Phim tài liệu "Chuyện tử tế": "Quả bom" đến từ Việt Nam”. Dân Việt. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2023.
  79. ^ Nguyễn Ngọc Giao (1992). “Existe-t-il un cinéma vietnamien?”. Liên hoan phim ba châu lục (bằng tiếng Pháp). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2023.
  80. ^ Hạnh Thủy; Anh Tuấn (11 tháng 10 năm 2022). "Hà Nội trong mắt ai" và những giá trị cốt lõi của văn hóa Hà Nội”. Kênh Truyền hình Quốc hội Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2023.
  81. ^ Miên Thảo (16 tháng 11 năm 2016). "Chuyện tử tế", bộ phim 30 năm vẫn mang tính thời sự”. Pháp luật Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2023.
  82. ^ a b Hoàng Lan Anh (18 tháng 10 năm 2008). “Nghệ sĩ Nhân dân Trần Văn Thủy: Tôi làm phim theo mách bảo của lương tâm”. Tuổi Trẻ. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2023.
  83. ^ Thúy Phương (25 tháng 11 năm 2008). “Sau hơn 20 năm, Chuyện tử tế tới Viennale 2008”. Thế giới Điện ảnh. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2023.
  84. ^ Bùi Văn Phú (22 tháng 2 năm 2003). “Đèn sáng lên, nhìn mặt là biết ai là người tử tế”. Thời Báo. Oakland, California. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2023 – qua Talawas.
  85. ^ a b c d Niblack-fox, Diane; Mukai, Gary. “The Sound of the Violin at My Lai”. Association for Asian Studies (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2023.
  86. ^ a b Trần Nghi Hoàng (2004). Trần Văn Thủy: Chuyện không tử tế. Virginia: Kiến Văn. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2023.
  87. ^ McManus, Paul; Bradshaw, Nick; Stevens, Isabel (14 tháng 8 năm 2014). “The Greatest Documentaries of All Time – all the votes”. Viện phim Anh (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2023.
  88. ^ Miên Thảo (16 tháng 11 năm 2016). "Chuyện tử tế", bộ phim 30 năm vẫn mang tính thời sự”. Pháp luật Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2023.
  89. ^ “CHUYEN TU TE”. viennale.at (bằng tiếng Anh). Liên hoan phim Viennale. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2023.
  90. ^ Y Nguyên (ngày 13 tháng 10 năm 2008). "Chuyện tử tế" đặc cách dự Liên hoan phim Viennale”. Báo Tiền phong. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2009.
  91. ^ a b c Hiểu Nhân. “Đạo diễn Trần Văn Thủy đoạt giải Bùi Xuân Phái”. VnExpress. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2023.
  92. ^ “Một Hà Nội của riêng Trần Văn Thủy”. Thể thao & Văn hóa (199). 6 tháng 10 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2023.
  93. ^ Bộ Vǎn hoá – Thông tin 1995, tr. 51.
  94. ^ Đặng Nhật Minh 2005, tr. 110.
  95. ^ Ngọc Mai (19 tháng 9 năm 2022). “Những dấu ấn khẳng định thương hiệu phim tài liệu khoa học VTV2”. Báo điện tử VTV. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2023.
  96. ^ “GLTT với Ban giám khảo Liên hoan Truyền hình toàn quốc lần thứ 40”. Báo điện tử VTV. 14 tháng 12 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2023.
  97. ^ Thu Hà (2 tháng 12 năm 2005). “Giải thưởng mới cho "Tấm ván phóng dao", "Mùa len trâu". VnExpress. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2023.
  98. ^ a b Vân Thảo (29 tháng 3 năm 2016). “Những người đã gặp”. Thế giới Điện ảnh. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2023.
  99. ^ Laderman & Martini 2013, tr. 228.
  100. ^ Nguyễn Trang (16 tháng 3 năm 2023). “Cựu chiến binh Mỹ Mike Boehm: Trở về Quảng Ngãi như trở về nhà”. Sài Gòn Giải Phóng. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2023.
  101. ^ Lý Phương Dung 2011, tr. 43.
  102. ^ a b Đậu Dung (30 tháng 5 năm 2021). “Đưa Phim tài liệu đến với khán giả: Vấn đề không phải là thời lượng”. Phụ nữ. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2023.
  103. ^ a b “Liên hoan phim Việt Nam lần thứ XII”. Thế giới điện ảnh. 3 tháng 12 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2009.
  104. ^ Nguyễn Thước (28 tháng 6 năm 2018). 'Lý lịch giám đốc' của một nguyên giám đốc”. Thế giới Điện ảnh. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2023.
  105. ^ Trần Văn Thủy & Lê Thanh Dũng 2013, tr. 374.
  106. ^ Lê Thủy (10 tháng 6 năm 2015). “Điểm nhấn Việt Nam thời hậu chiến!”. Đại biểu nhân dân. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2023.
  107. ^ Phạm Hoa (13 tháng 6 năm 2015). “Quảng bá hình ảnh đất nước qua phim tài liệu”. Sức khỏe và Đời sống. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2023.
  108. ^ Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tiếng Việt lớp 5 (Sách giáo khoa). 1 (ấn bản 8). Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. tr. 40.
  109. ^ Trần Văn Thủy 2004, tr. 43-56.
  110. ^ a b Hồng Chuyên (15 tháng 4 năm 2014). "Chuyện-Tử-Tế", hãy đánh thức nó, đặt lên bàn thờ tổ tiên”. infonet.vietnamnet.vn. VietNamNet. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2023.
  111. ^ Trần Văn Thủy & Lê Thanh Dũng 2013, tr. 407.
  112. ^ Cinemaya 1995, tr. 7.
  113. ^ Trần Văn Thủy & Lê Thanh Dũng 2013, tr. 399-400.
  114. ^ Hoàng Hường (27 tháng 3 năm 2014). 'Các ông đổ lỗi cho chính quyền nhiều quá!'. VietNamNet. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2023.
  115. ^ Thái Minh (11 tháng 1 năm 2016). “Sự tử tế - chuyện chưa cũ”. Đại biểu nhân dân. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2023.
  116. ^ a b c d Kim Yến; Đan Anh (24 tháng 5 năm 2010). “NSND Trần Văn Thủy - một người tử tế”. Thể thao & Văn hóa. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2023.
  117. ^ a b c d e f g Nguyễn Thị Minh Thái (19 tháng 4 năm 2009). “Làm phim về học giả Nguyễn Văn Vĩnh: Công trình kể biết mấy mươi…”. Công an nhân dân. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2023.
  118. ^ Nguyễn Thị Minh Thái (13 tháng 7 năm 2008). “Mạn đàm về người man di hiện đại”. Tuổi Trẻ. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2023.
  119. ^ Lê Phú Khải (20 tháng 10 năm 2007). “Uống bia cũng phải uống cho tử tế!”. Sài Gòn Giải Phóng. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2023.
  120. ^ a b Nguyễn Thiêm. “Người đi tìm quá khứ”. Công an nhân dân. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2023.
  121. ^ VANCHIEN. “Một góc nhìn mới về học giả Nguyễn Văn Vĩnh”. Hànộimới. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2023.
  122. ^ Anh Vũ (24 tháng 8 năm 2009). “Giới thiệu bộ phim tài liệu về Nguyễn Văn Vĩnh "Mạn đàm về người man di hiện đại". RFI. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2023.
  123. ^ Nguyễn Thiêm (4 tháng 2 năm 2008). “Chuyện về một hậu duệ của học giả Nguyễn Văn Vĩnh”. Công an nhân dân. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2023.
  124. ^ a b Dương Cầm (25 tháng 9 năm 2010). "Vọng khúc ngàn năm". An ninh Thủ đô. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2023.
  125. ^ a b "Vọng khúc ngàn năm". Kinh tế đô thị. 14 tháng 7 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2023.
  126. ^ Hoàng Điệp (16 tháng 9 năm 2010). “Kể chuyện Thăng Long bằng âm nhạc”. Tuổi Trẻ. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2023.
  127. ^ a b c d e Kim Anh (12 tháng 8 năm 2011). “Đạo diễn Trần Văn Thủy: Nội lực của đất nước chính là nhân cách của mỗi con người”. DoanhnhânPlus. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2023.
  128. ^ a b (Nhiều tác giả 2010). “Chương 15: Vụ Kiện William Joiner Center: Ai có quyền viết lịch sử một cộng đồng?”.
  129. ^ Tô Nhuận Vỹ (7 tháng 3 năm 2012). “Cầu nối giữa hai bờ đối nghịch - Tạp chí Sông Hương”. Tạp chí Sông Hương. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2023.
  130. ^ Trần Gia Phụng (21 tháng 2 năm 2005). “Sau Khi Đi Hết Biển”. Việt Tân. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2023.
  131. ^ a b c Hoàng Nhung (16 tháng 6 năm 2013). "Chuyện nghề của Thủy" lần tìm về "quê hương". Báo Đà Nẵng. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2023.
  132. ^ a b Trần Văn Thủy & Lê Thanh Dũng 2013, tr. 19.
  133. ^ Wilson & Ronov 2020, tr. 384-400.
  134. ^ Bích Diệp (2 tháng 6 năm 2013). “Phim hay được làm nên từ cuộc đời”. Người lao động. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2023.
  135. ^ a b c Việt Văn (28 tháng 5 năm 2013). “Nói thật là văn minh!”. Lao Động (119). tr. 5. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2023 – qua Thư viện Quốc gia Việt Nam.
  136. ^ Mặc Lâm (22 tháng 6 năm 2013). “Trần Văn Thủy và "Chuyện nghề của Thủy". Đài Á Châu Tự do. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2023.
  137. ^ Song Ngư (15 tháng 6 năm 2013). 'Chuyện nghề của Thủy' ra mắt xuyên Việt”. VnExpress. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2023.
  138. ^ a b Hồ Hương Giang (20 tháng 6 năm 2013). “Đạo diễn "Chuyện tử tế" trải lòng”. VietNamNet. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2023.
  139. ^ "Speaking Truth to Power in War and Peace; the Story of Trần Văn Thủy, a Vietnamese Documentary Filmmaker". Carolina Asia Center (bằng tiếng Anh). 1 tháng 12 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2023.
  140. ^ a b c Lam Điền (21 tháng 9 năm 2013). “Phải đánh động dây thần kinh của xã hội”. Tuổi Trẻ. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2023.
  141. ^ Hoàng Hường (26 tháng 3 năm 2014). “TBT Nguyễn Văn Linh: Chuyện chỉ có thế thôi à?”. VietNamNet. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2023.
  142. ^ “Giải sách hay 2013”. Tiền phong. 23 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2023.
  143. ^ “In Whose Eyes”. Project MUSE (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2023.
  144. ^ Nguyễn Phan Quế Mai (20 tháng 10 năm 2019). “Người buông súng để cầm bút”. Tiền phong. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2023.
  145. ^ Sweet, Matthew (18 tháng 12 năm 2019). “Vietnamese cinema offers fresh perspectives on wartime history”. Nikkei Asia (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2023.
  146. ^ a b c Hà Thảo (8 tháng 11 năm 2016). “NSND Trần Văn Thủy: 'Tôi thấy cô đơn trên con đường làm phim tài liệu'. Doanh nghiệp kinh doanh. Tạp chí Điện tử Doanh nhân Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2023.
  147. ^ Phạm Phú Minh 2017, tr. 3.
  148. ^ “Trong Đống Tro Tàn”. nguoivietshop.com. Người Việt. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2023.
  149. ^ a b Phạm Tuấn (7 tháng 10 năm 2022). “Đạo diễn Trần Văn Thủy và dư âm 'Hà Nội trong mắt ai'. Nông nghiệp Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2023.
  150. ^ Viện nghệ thuật và lưu trữ điện ảnh Việt Nam 1994, tr. 261.
  151. ^ a b Phạm Thu Hương (28 tháng 3 năm 2016). “Đạo diễn Trần Văn Thủy: Con người trước tiên phải tử tế”. An ninh Thủ đô. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2023.
  152. ^ a b Hiểu Nhân; Văn Lộc (13 tháng 10 năm 2022). “Đạo diễn Trần Văn Thủy: 'Xã hội cần sự tử tế, tình người'. VnExpress. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2023.
  153. ^ Jones 2001, tr. 2575.
  154. ^ Tholas, Goldie & Ritzenhoff 2019, tr. 186.
  155. ^ a b c “Tôi muốn chạm đến nỗi đau của thân phận con người”. Kinh tế đô thị. 30 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2023.
  156. ^ 30 Năm phim Chuyện tử tế | VOVTV | Giải trí. VOVTV Travel. 29 tháng 12 năm 2015. Sự kiện xảy ra vào lúc 21:52. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2023.
  157. ^ Văn Bảy (17 tháng 6 năm 2013). “Gần 30 năm, 'Chuyện tử tế' vẫn tiên phong”. Thể thao & Văn hóa. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2023.
  158. ^ Kim Yến (9 tháng 4 năm 2010). “Trần Văn Thủy: Hãy bền bỉ đánh thức sự tử tế”. Sài Gòn Tiếp Thị. Nguồn đăng lại bài báo: (Trần Văn Thủy & Lê Thanh Dũng 2013, tr. 424-433)
  159. ^ Hoàng Vân (5 tháng 9 năm 2021). “Phim hay vượt thời gian: "Chuyện tử tế"- Hãy bền bỉ đánh thức nó!”. Dân trí. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2023.
  160. ^ Nhật Minh (19 tháng 2 năm 2013). "Người tử tế càng ngày càng ít dần". Tri thức & Cuộc sống. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2023.
  161. ^ a b Phạm Phú Minh 2017, tr. 2.
  162. ^ a b “Vấn đề hòa giải giữa người Việt với nhau vẫn còn đặt ra”. RFI. 10 tháng 6 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2023.
  163. ^ a b c Nguyễn Thị Hồng Ngát 2003, tr. 173.
  164. ^ Phạm Ngọc Trương và đồng nghiệp 1987, tr. 29.
  165. ^ Mai Anh Tuấn (5 tháng 2 năm 2017). “Tiếng nói trí thức 30 năm trước”. VietNamNet. Tạp chí Tia Sáng. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2023.
  166. ^ Y Nguyên (12 tháng 10 năm 2008). “Chuyện tử tế đặc cách dự Liên hoan phim Viennale”. Thanh Niên. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2023.
  167. ^ Nguyễn Thị Hồng Ngát 2005, tr. 55.
  168. ^ Viện nghệ thuật và lưu trữ điện ảnh Việt Nam 2001, tr. 136.
  169. ^ Nguyễn Thị Hồng Ngát 2005, tr. 53.
  170. ^ Ngô Phương Lan 1998, tr. 36.
  171. ^ Trần Trọng Đăng Đàn & 2010ac, tr. 298.
  172. ^ Trần Văn Thủy 2004, tr. 45.
  173. ^ Trần Trọng Đăng Đàn & 2010ac, tr. 778.
  174. ^ Trần Trọng Đăng Đàn & 2010ab, tr. 55.
  175. ^ Cao Xuân Thái (22 tháng 3 năm 2022). “Lần đầu vào Khau Vai”. Báo Hà Giang. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2023.
  176. ^ Cinemaya 1995, tr. 72.
  177. ^ “The Vietnam Peace (1993) - The Screen Guide - Screen Australia”. Screen Australia. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2023.
  178. ^ a b Ngô Phương Lan 1998, tr. 350.
  179. ^ Trần Trọng Đăng Đàn & 2010ac, tr. 295.
  180. ^ Nguyễn Thị Hồng Ngát 2005, tr. 69.
  181. ^ “Phim tài liệu: Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai”. Kênh Truyền hình Quốc hội Việt Nam. 5 tháng 4 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2023.
  182. ^ “nam, retour sur image”. IDFA (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2023.
  183. ^ P.T; Minh Châu (31 tháng 10 năm 2014). “Tọa đàm kỷ niệm 110 ngày sinh Giáo sư Hoàng Minh Giám”. Thế giới và Việt Nam. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2023.
  184. ^ “Tưởng nhớ Giáo sư Hoàng Minh Giám”. Xuởng phim Tài liệu và Khoa học Trung ương. 2000. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2023 – qua YouTube.
  185. ^ “Lời của đá”. Giáo phận Phát Diệm. 2001. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2023 – qua YouTube.
  186. ^ Trần Trọng Đăng Đàn & 2010ac, tr. 914.
  187. ^ Rosati, M.; Weinhauer, K.; Tran, G. (2010). “Drug Recovery & Reintegration: Standard Operating Procedure Manual” (PDF). Catholic Relief Services. tr. 85. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 13 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2023.
  188. ^ Triệu Gio Cam (2 tháng 4 năm 2015). “Khởi quay bộ phim về A.Yersin”. Công an Thành phố Đà Nẵng. Công an nhân dân. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2023.
  189. ^ Võ Văn Tạo (26 tháng 4 năm 2008). “Đạo diễn Trần Văn Thủy làm phim về Yersin”. Tuổi Trẻ. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2023.
  190. ^ Phương Bùi (23 tháng 1 năm 2023). “Nỗi lòng của những người xa xứ trong "Mẹ ngóng con về". Lao động thủ đô. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2023.
  191. ^ Hồ Hương Giang (2 tháng 6 năm 2013). “Cuốn sách gây chú ý của đạo diễn "Chuyện tử tế". VietNamNet. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2023.
  192. ^ Trần Văn Thủy & Lê Thanh Dũng 2013, tr. 437.
  193. ^ Đoàn Trần Yến Nhi (6 tháng 12 năm 2009). 'Hành động, để lương tâm đỡ xấu hổ!'. Đài Phát thanh - Truyền hình Vĩnh Long. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2023.
  194. ^ a b c Sprole, Russell (19 tháng 11 năm 2003). “Vietnamese filmmaker meditates on war, films” [Nhà làm phim Việt suy ngẫm về chiến tranh, phim ảnh]. Yale Daily News (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2023.
  195. ^ “Film night – Chuyện tử tế (The Story of Kindness)”. Hội những người bạn của di sản Việt Nam (bằng tiếng Anh). 1 tháng 9 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2023.
  196. ^ “Vietnamese Documentary Film - The Sound of the Violin in My Lai”. UCLA International Institute (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2023.
  197. ^ Nhiều tác giả 2003b, tr. 188.
  198. ^ Lã Khánh Tùng 2019, tr. 60.
  199. ^ Nguyen Trinh Thi (28 tháng 5 năm 2014). “Vietnam Documentary Film: History and current scene”. VietNamNet (bằng tiếng Anh). DocNet Southeast Asia. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2023.
  200. ^ Malo & Williams 1994, tr. 207.
  201. ^ Devine 1999, tr. 279.
  202. ^ Nhiều tác giả 2003a, tr. 22.
  203. ^ Charlot 1991, tr. 39, 45.
  204. ^ Freeman & Nguyễn Đình Hữu, tr. 479.
  205. ^ Crossette, Barbara (22 tháng 4 năm 1988). “All Vietnam Is Now a Stage; Its Players Are Mostly Angry”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2023.
  206. ^ McGregor và đồng nghiệp 1993, tr. 229.
  207. ^ Tan 1990, tr. 23.
  208. ^ Đoàn Ánh Dương 2020, tr. 82.
  209. ^ Morris 2013, tr. 118.
  210. ^ “Nhiều trí thức ký vào thư phản đối dự án bauxite”. BBC Tiếng Việt. 18 tháng 4 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2023.
  211. ^ Ben Ngô (21 tháng 6 năm 2019). “Cao tốc Bắc-Nam, nhà thầu TQ và lòng dân Việt”. BBC Tiếng Việt. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2023.
  212. ^ Trần Văn Thủy, Lê Thanh Dũng & 2013 2013, tr. 458-462.
  213. ^ a b Hội Điện ảnh Hà Nội 2000, tr. 1940.
  214. ^ Tuyết Loan (8 tháng 7 năm 2021). “NSND Trần Văn Thủy và Đào Trọng Khánh không đủ số phiếu xét Giải thưởng Hồ Chí Minh”. Nhân Dân. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2023.
  215. ^ M.Sơn (4 tháng 12 năm 2020). “NSND Trần Văn Thủy được đề nghị xét Giải thưởng Hồ Chí Minh”. Đại Đoàn Kết. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2023.
  216. ^ P.V (30 tháng 11 năm 2020). “Kết quả: Xét tặng 'Giải thưởng Hồ Chí Minh', 'Giải thưởng Nhà nước' về văn học, nghệ thuật năm 2021(điện ảnh, phim truyền hình)”. Thế giới Điện ảnh. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2023.
  217. ^ Hà Tùng Long (9 tháng 7 năm 2021). “NSND Trần Văn Thuỷ nói gì khi bị trượt giải thưởng Hồ Chí Minh?”. Dân Việt. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2023.
  218. ^ Trinh Nguyễn (7 tháng 7 năm 2021). “Giới điện ảnh xót xa NSND Trần Văn Thủy trượt Giải thưởng Hồ Chí Minh”. Thanh Niên. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2023.
  219. ^ P.V (19 tháng 11 năm 2020). “Quy trình xét tặng 'Giải thưởng Hồ Chí Minh', 'Giải thưởng Nhà nước' về văn học, nghệ thuật năm 2021”. Thế giới Điện ảnh. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2023.
  220. ^ Trinh Nguyễn (7 tháng 7 năm 2021). “Vì sao Hà Nội trong mắt ai và Chuyện tử tế 'trượt' Giải thưởng Hồ Chí Minh?”. Thanh Niên. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2023.
  221. ^ Mỹ Anh (7 tháng 7 năm 2021). “Lý do NSND Trần Văn Thuỷ bị loại khỏi Giải thưởng Hồ Chí Minh”. VietNamNet. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2023.
  222. ^ An An (8 tháng 7 năm 2021). “Giải thưởng trong tay ai?”. Thanh Niên. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2023.
  223. ^ Karlin 2005, tr. 60.
  224. ^ Quỳnh Hân (15 tháng 1 năm 2017). “Văn hóa - Xã hội: Biến điều không thể thành có thể”. Lao Động. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2023.
  225. ^ Thiển Điểu (6 tháng 10 năm 2022). “Đạo diễn 'Hà Nội trong mắt ai' Trần Văn Thủy nhận Giải thưởng lớn Giải thưởng Bùi Xuân Phái”. Tuổi Trẻ. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2023.
  226. ^ a b Bành Bảo 1983, tr. 74.
  227. ^ Nguyễn Thị Hồng Ngát 2005, tr. 32.
  228. ^ “Thêm 11 "bông sen vàng" màn ảnh”. Tiền phong (13). 29 tháng 3 năm 1988. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2023 – qua Thư viện Quốc gia Việt Nam.
  229. ^ Nguyễn Thị Hồng Ngát 2005, tr. 53, 622.
  230. ^ a b Nguyễn Thị Hồng Ngát 2005, tr. 97.
  231. ^ a b Thế Thái 1999, tr. 86.
  232. ^ Phạm Việt Long (1 tháng 9 năm 2018). “Thời hoa lửa với xứ Quảng kiên trung”. Quân đội nhân dân. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2023.
  233. ^ “Ban Tuyên huấn Khu ủy Khu V và những đóng góp cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”. Tạp chí Tuyên giáo. Ban liên lạc Ban Tuyên huấn Khu ủy Khu V. 25 tháng 7 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2023.
  234. ^ PV (21 tháng 10 năm 2010). “A look at Vietnam's first int'l film festival”. VietNamNet (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2023.
  235. ^ Ngô Phương Lan 1998, tr. 356.
  236. ^ Moine 2018, tr. 369.
  237. ^ Trương Minh Hằng 2006, tr. 128.
  238. ^ Nghiêm Thanh (1 tháng 1 năm 2000). “10 sự kiện văn hóa Việt Nam năm 1999”. Nhân Dân (16248). tr. 6. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2023 – qua Thư viện Quốc gia Việt Nam.
  239. ^ Ngô Văn Phương 2005, tr. 193.
  240. ^ Duy Hiển (30 tháng 12 năm 2021). “Vài suy nghĩ về xây dựng kịch tính phim tài liệu”. Người làm báo Hưng Yên. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2023.
  241. ^ a b Đạt Nhi (18 tháng 7 năm 2019). “Ba gia đình nổi tiếng cùng sống trong ngôi nhà 'Em ơi Hà Nội phố'. Tiền phong. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2023.
  242. ^ Trần Văn Thủy & Lê Thanh Dũng 2013, tr. 30.
  243. ^ “Đạo diễn Trần Văn Thuỷ - một trái tim nhân hậu”. VnExpress. Gia Đình Xã Hội. 14 tháng 1 năm 2002. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2023.
  244. ^ Bộ Văn hóa Thông tin 1999, tr. 183.

Nguồn

Tiếng Việt

Tạp chí

Ngoại ngữ

Sách

Tạp chí

Luận án

Sách của tác giả

Đọc thêm

Liên kết ngoài