Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Huy Cận”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa ngày tháng năm Soạn thảo trực quan
Dòng 133: Dòng 133:


==Hoạt động chính trị==
==Hoạt động chính trị==
Lê Quang Liêm được anh trai Lê Quang Long hướng dẫn chơi cờ từ năm 7 tuổi. Anh đoạt ngôi quán quân giải vô địch cờ vua thế giới lứa tuổi dưới 14 vào năm 2005, 2 lần huy chương bạc giải cờ vua trẻ thế giới lứa tuổi 10 và 12 (năm 2001 và 2003), huy chương vàng giải vô địch cờ vua châu Á lứa tuổi dưới 16 năm 2006. Ngoài ra, Lê Quang Liêm còn đoạt một số huy chương vàng ở cấp khu vực Đông Nam Á.<ref>[http://www.vietnamnet.vn/giaoduc/tuyensinh/tintuc-sukien/2006/05/574195 Kiện tướng Lê Quang Liêm chính thức được tuyển thẳng]</ref> Sau thành tích thi đấu xuất sắc tại giải [[Olympiad cờ vua thế giới năm 2006]] tổ chức tại [[Ý]] thắng 5 đại kiện tướng quốc tế, hòa 3 đại kiện tướng quốc tế khác, Liêm được đặc cách phong lên đại kiện tướng quốc tế.<ref>{{Chú thích web|url=http://teen.tuoitre.vn/Index.aspx?ArticleID=141834&ChannelID=14|tựa đề=Giải cờ vua Olympiad 2006: Lê Quang Liêm sớm đạt đại kiện tướng|archive-url=https://web.archive.org/web/20131005004014/http://teen.tuoitre.vn/Index.aspx?ArticleID=141834&ChannelID=14|archive-date=ngày 5 tháng 10 năm 2013|ngày truy cập=2011-08-11}}</ref>
[[Tháng tám|Tháng 8]] năm [[1945]], Cù Huy Cận là một trong ba thành viên của phái đoàn Chính phủ Lâm thời (gồm [[Nguyễn Lương Bằng]], [[Trần Huy Liệu]] và Cù Huy Cận) đi vào kinh đô Huế để tiếp nhận lễ thoái vị của [[Bảo Đại|Vua Bảo Đại]].


Năm 2008, năm 17 tuổi, Liêm đã tham dự [[Giải vô địch cờ vua thanh niên thế giới|Giải cờ vua thanh niên thế giới]] dành cho lứa tuổi dưới 20 ở [[Thổ Nhĩ Kỳ]]. Tuy thành tích không cao (8 điểm/13 ván, đồng hạng 15)<ref>[http://reports.chessdom.com/gupta-harika-world-junior-chess-champions GM Gupta and IM Harika win the World Junior Chess Championship] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20111117172947/http://reports.chessdom.com/gupta-harika-world-junior-chess-champions|date=2011-11-17}} (''ĐKT Gupta và KT Harika vô địch cờ vua thanh niên thế giới'') {{en}}</ref> nhưng đã giúp Liêm tích luỹ thêm kinh nghiệm thi đấu quốc tế. Tại giải [[Olympiad cờ vua thế giới năm 2008]], anh đạt 8 điểm / 11 ván (6 thắng 4 hoà 1 thua, trong đó có ván thắng [[Jan Smeets|Smeets]], hoà [[Sergey Karjakin|Karjakin]], [[Lazaro Bruzon|Bruzon]], [[Nghê Hoa]]) góp phần đưa Việt Nam lần đầu tiên lọt vào top 10 trong một Olympiad cờ vua (9/154 quốc gia và vùng lãnh thổ tham dự), đồng thời hạng nhất nhóm B.<ref>{{Chú thích web|url=http://schachlive.dresden2008.de/player/12401137/index.eng.html|tựa đề=Thành tích Lê Quang Liêm tại Olympiad cờ vua lần thứ 38|archive-url=https://web.archive.org/web/20090124153844/http://schachlive.dresden2008.de/player/12401137/index.eng.html|archive-date=ngày 24 tháng 1 năm 2009|url-status=live|ngày truy cập=2009-01-24}}</ref>
Sau [[Cách mạng tháng Tám]] thành công, khi mới 26 tuổi, ông đã là Bộ trưởng [[Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Việt Nam)|Bộ Canh nông]] trong [[Chính phủ Liên hiệp Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa|Chính phủ liên hiệp lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] do [[Hồ Chí Minh]] đứng đầu Chính phủ.<ref>[http://www2.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/thanhvienchinhphuquacacthoiky?governmentId=606 Chính phủ liên hiệp lâm thời (thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1946)], Chính phủ Việt Nam.</ref>

Từ cuối năm [[1945]] ông là Ủy viên Ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ.<ref>[https://m.thuvienphapluat.vn/van-ban/bo-may-hanh-chinh/Sac-lenh-80-cu-Bui-Bang-Doan-Cu-Huy-Can-Ban-thanh-tra-dac-biet-35932.aspx Sắc lệnh số 80 ngày 31 tháng 12 năm 1945], Thư viện Pháp luật.</ref>

Sau này ông làm Thứ trưởng [[Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Việt Nam)|Bộ Văn hóa]], rồi Bộ trưởng đặc trách Văn hóa Thông tin trực thuộc [[Hội đồng Bộ trưởng]] trong chính phủ [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] và [[Việt Nam|Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam]], phụ trách các công tác văn hóa và văn nghệ.<ref>[http://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B_quy%E1%BA%BFt_s%E1%BB%91_551_NQ/H%C4%90NN7 Nghị quyết số 551 NQ/HĐNN7 về việc cử ông Cù Huy Cận giữ chức Bộ trưởng đặc trách công tác], WikiSource.</ref>

Từ [[1984]], ông là Chủ tịch [[Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam|Ủy ban Trung ương Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam]]. Ngoài ra, ông còn là [[Đại biểu Quốc hội|Đại biểu Quốc hội Việt Nam]] khóa I, II và VII.

[[Tháng sáu|Tháng 6]] năm [[2001]], ông được bầu là Viện sĩ Viện Hàn lâm Thơ Thế giới.

Huy Cận mất ngày [[19 tháng 2]] năm [[2005]] tại [[Hà Nội]] sau một thời gian lâm trọng bệnh, thọ 88 tuổi. Nơi an nghỉ cuối cùng tại [[Nghĩa trang Mai Dịch]]<ref name="VNN">{{Chú thích báo
| tên=
| họ=
| tác giả=Đ.T
| đồng tác giả=
| url=http://www.hue.vnn.vn/vanhoa/2005/02/60275/
| tên bài=Hội LH VHNT TT Huế tổ chức lễ tưởng niệm nhà thơ Huy Cận
| công trình=
| nhà xuất bản=NetCodo
| số=
| các trang=
| trang=
| ngày=2005-02-24
| ngày truy cập=
| ngôn ngữ=vi
| trích dẫn=
| title=Bản sao đã lưu trữ
| access-date=ngày 6 tháng 6 năm 2010
| archive-date=ngày 13 tháng 11 năm 2010
| archive-url=https://web.archive.org/web/20101113061844/http://www.hue.vnn.vn/vanhoa/2005/02/60275/
}}</ref>


== Đời tư - Gia đình ==
== Đời tư - Gia đình ==
Dòng 178: Dòng 148:


=== Trước tháng 8 năm 1945 ===
=== Trước tháng 8 năm 1945 ===
Huy Cận có thơ đăng báo từ 1936, cho in tập thơ đầu ''[[Lửa thiêng (tập thơ)|Lửa thiêng]]'' năm [[1940]] (gồm những bài đã đăng báo trước 1940) và trở thành một trong những tên tuổi hàng đầu của [[thơ mới|phong trào Thơ mới]] lúc bấy giờ. Bao trùm ''Lửa Thiêng'' là một nỗi buồn mênh mang da diết. Thiên nhiên trong tập thơ thường bao la, hiu quạnh, đẹp nhưng thường buồn. Nỗi buồn đó dường như vô cớ, siêu hình nhưng xét đến cùng, chủ yếu là buồn thương về cuộc đời, kiếp người, về quê hương đất nước. Hồn thơ "ảo não", bơ vơ đó vẫn cố tìm được sự hài hòa và mạch sống âm thầm trong tạo vật và cuộc đời. Trong ''[[Kinh cầu tự]]'' ([[1942]], [[văn xuôi triết lý]]) và ''[[Vũ trụ ca]]'' (thơ đăng báo [[1940]]-[[1942]]), Huy Cận đã tìm đến ca ngợi niềm vui, sự sống trong vũ trụ vô biên song vẫn chưa thoát khỏi bế tắc.<ref name="VNN"/>
Huy Cận có thơ đăng báo từ 1936, cho in tập thơ đầu ''[[Lửa thiêng (tập thơ)|Lửa thiêng]]'' năm [[1940]] (gồm những bài đã đăng báo trước 1940) và trở thành một trong những tên tuổi hàng đầu của [[thơ mới|phong trào Thơ mới]] lúc bấy giờ. Bao trùm ''Lửa Thiêng'' là một nỗi buồn mênh mang da diết. Thiên nhiên trong tập thơ thường bao la, hiu quạnh, đẹp nhưng thường buồn. Nỗi buồn đó dường như vô cớ, siêu hình nhưng xét đến cùng, chủ yếu là buồn thương về cuộc đời, kiếp người, về quê hương đất nước. Hồn thơ "ảo não", bơ vơ đó vẫn cố tìm được sự hài hòa và mạch sống âm thầm trong tạo vật và cuộc đời. Trong ''[[Kinh cầu tự]]'' ([[1942]], [[văn xuôi triết lý]]) và ''[[Vũ trụ ca]]'' (thơ đăng báo [[1940]]-[[1942]]), Huy Cận đã tìm đến ca ngợi niềm vui, sự sống trong vũ trụ vô biên song vẫn chưa thoát khỏi bế tắc.<ref name="VNN">{{Chú thích báo|tác giả=Đ.T|ngày=2005-02-24|title=Bản sao đã lưu trữ|ngôn ngữ=vi|nhà xuất bản=NetCodo|số=|url=http://www.hue.vnn.vn/vanhoa/2005/02/60275/|access-date=ngày 6 tháng 6 năm 2010|ngày truy cập=|archive-url=https://web.archive.org/web/20101113061844/http://www.hue.vnn.vn/vanhoa/2005/02/60275/|archive-date=ngày 13 tháng 11 năm 2010|tên=|họ=|đồng tác giả=|tên bài=Hội LH VHNT TT Huế tổ chức lễ tưởng niệm nhà thơ Huy Cận|công trình=|các trang=|trang=|trích dẫn=}}</ref>


=== Sau tháng 8 năm 1945 ===
=== Sau tháng 8 năm 1945 ===

Phiên bản lúc 14:55, ngày 30 tháng 4 năm 2024

Cù Huy Cận
Chức vụ
Nhiệm kỳ1984 – 1995
Tiền nhiệmĐặng Thai Mai
Kế nhiệmNguyễn Đình Thi
Bộ trưởng đặc trách văn hóa tại Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng
Nhiệm kỳ27 tháng 9 năm 1984 – 
Bộ trưởng phụ trách Công tác Văn hóa, Giáo dục ở Phủ Thủ tướng
Nhiệm kỳ7 tháng 2 năm 1980 – tháng 9 năm 1984
Tiền nhiệmTrần Quang Huy
Thứ trưởng Bộ Văn hóa
Nhiệm kỳ1955 – 1980
Thứ trưởng, Tổng thư ký Hội đồng Chính phủ
Nhiệm kỳ1949 – tháng 9 năm 1955
Tiền nhiệmkhông
Kế nhiệmPhạm Hùng (Bộ trưởng Phủ Thủ tướng)
Thứ trưởng Bộ Kinh tế
Nhiệm kỳ1947 – 1949
Thứ trưởng Bộ Canh nông
Nhiệm kỳtháng 11 năm 1946 – tháng 7 năm 1947
Bộ trưởngNgô Tấn Nhơn
Thứ trưởng Bộ Nội vụ
Nhiệm kỳtháng 5 năm 1946 – tháng 11 năm 1946
Bộ trưởng Bộ Canh nông
Nhiệm kỳ1 tháng 1 năm 1946 – 2 tháng 3 năm 1946
60 ngày
Tiền nhiệmđầu tiên
Kế nhiệmBồ Xuân Luật
Bộ trưởng không Bộ
Nhiệm kỳ28 tháng 8 năm 1945 – 1 tháng 1 năm 1946
126 ngày
Thông tin chung
Sinh31 tháng 5 năm 1919
Làng Ân Phú, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh
Mất19 tháng 2, 2005(2005-02-19) (85 tuổi)
Hà Nội, Việt Nam
Huy Cận
Bút danhHuy Cận
Nghề nghiệpNhà thơ, Chính khách
Quốc tịchĐại Nam, Việt Nam
Dân tộcKinh
Học vấnTú tài
Giai đoạn sáng tác1933 - 2005
Thể loạiTrữ tình
Trào lưuPhong trào Thơ mới
Giải thưởng nổi bậtGiải thưởng Hồ Chí Minh
Huân chương Sao vàng
Phối ngẫuNgô Xuân Nhu
Trần Lệ Thu
Con cáiCù Huy Hà Vũ
Cù Thị Xuân Bích
Cù Lệ Duyên

Cù Huy Cận (31 tháng 5 năm 1919 – 19 tháng 2 năm 2005), bút danh và hoạt động nghệ thuật là Huy Cận, là một chính khách, từng giữ nhiều chức vụ lãnh đạo cao cấp trong chính phủ Việt Nam như Bộ trưởng Bộ Canh nông (nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), Thứ trưởng Bộ Văn hóa Nghệ thuật, Bộ trưởng Bộ Văn hóa Giáo dục, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ Kinh tế, Bộ trưởng Tổng Thư ký Hội đồng Bộ trưởng (nay là Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ), ngoài ra ông còn là một nhà lãnh đạo chủ chốt của Đảng Dân chủ Việt Nam, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam[1][2], đồng thời cũng là một trong những thi sĩ xuất sắc nhất của phong trào Thơ mới. Ông từng là Viện sĩ Viện Hàn lâm Thơ Thế giới và Chủ tịch Ủy ban Liên hiệp các Hiệp hội Văn học Việt Nam giai đoạn 1984-1995.

Tiểu sử

Huy Cận sinh ngày 31 tháng 5 năm 1919, trong một gia đình nhà nho nghèo gốc nông dân dưới chân núi Mồng Gà, bên bờ sông Ngàn Sâu (thượng nguồn sông La) ở làng Ân Phú, huyện Hương Sơn sau đó thuộc huyện Đức Thọ (nay là xã Ân Phú, huyện Vũ Quang), tỉnh Hà Tĩnh. Ngày sinh hiện nay là do ông của cậu khai khi vào học ở Huế, còn ngày sinh chính xác là ngày 29 tháng 12 năm Bính Thìn (dương lịch là ngày 22 tháng 1 năm 1917)[3].

Ông lúc nhỏ học ở quê, sau vào Huế học trung học, đậu tú tài Pháp; rồi ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông. Trong thời gian học Cao đẳng, ông ở phố Hàng Than cùng với Xuân Diệu. Từ năm 1942, ông tham gia phong trào sinh viên yêu nước và Mặt trận Việt Minh, Huy Cận đã tham dự Quốc dân đại hội ở Tân Trào (tháng 8 năm 1945) và được bầu vào Ủy ban Giải phóng (tức Chính phủ Cách mạng lâm thời sau đó). Huy Cận cũng từng cộng tác với nhóm Tự Lực Văn Đoàn.

Hoạt động chính trị

Lê Quang Liêm được anh trai Lê Quang Long hướng dẫn chơi cờ từ năm 7 tuổi. Anh đoạt ngôi quán quân giải vô địch cờ vua thế giới lứa tuổi dưới 14 vào năm 2005, 2 lần huy chương bạc giải cờ vua trẻ thế giới lứa tuổi 10 và 12 (năm 2001 và 2003), huy chương vàng giải vô địch cờ vua châu Á lứa tuổi dưới 16 năm 2006. Ngoài ra, Lê Quang Liêm còn đoạt một số huy chương vàng ở cấp khu vực Đông Nam Á.[4] Sau thành tích thi đấu xuất sắc tại giải Olympiad cờ vua thế giới năm 2006 tổ chức tại Ý thắng 5 đại kiện tướng quốc tế, hòa 3 đại kiện tướng quốc tế khác, Liêm được đặc cách phong lên đại kiện tướng quốc tế.[5]

Năm 2008, năm 17 tuổi, Liêm đã tham dự Giải cờ vua thanh niên thế giới dành cho lứa tuổi dưới 20 ở Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy thành tích không cao (8 điểm/13 ván, đồng hạng 15)[6] nhưng đã giúp Liêm tích luỹ thêm kinh nghiệm thi đấu quốc tế. Tại giải Olympiad cờ vua thế giới năm 2008, anh đạt 8 điểm / 11 ván (6 thắng 4 hoà 1 thua, trong đó có ván thắng Smeets, hoà Karjakin, Bruzon, Nghê Hoa) góp phần đưa Việt Nam lần đầu tiên lọt vào top 10 trong một Olympiad cờ vua (9/154 quốc gia và vùng lãnh thổ tham dự), đồng thời hạng nhất nhóm B.[7]

Đời tư - Gia đình

Về đời tư, Huy Cận có hai người vợ. Người vợ đầu của ông là bà Ngô Thị Xuân Như (1928-2009), em gái của nhà thơ Xuân Diệu, kết hôn năm Magnus calsen kết hôn năm 1951, từng công tác y tế tại Ban Kiểm tra 12 (Phủ Thủ tướng), Bác sĩ Viện Y học cổ truyền Việt Nam. Người vợ thứ là bà Trần Lệ Thu, kết hôn năm 1960, cán bộ giảng dạy Nga văn ở một trường Đại học lớn tại Hà Nội. Huy Cận và Xuân Diệu là 2 nhà thơ lớn, 2 người bạn lớn, tri kỷ. Xuân Diệu cùng sống với gia đình Huy Cận cho đến hết cuộc đời tại ngôi nhà số 24 đường Cột Cờ (đường Ngô Tất Tố), Hà Nội.

Ông có bốn người con, hai con trai và hai con gái. Con trai cả của ông là tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ (với người vợ đầu là bà Ngô Thị Xuân Như), người bị bắt năm 2011 và kết án 7 năm tù, 3 năm quản chế về tội Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo điều 88 Bộ luật hình sự Việt Nam.

Em trai ông là tiến sĩ triết học - mĩ học Cù Huy Chử, từng công tác tại Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sáng tác

Sáng tác của Huy Cận trước Cách mạng tháng 8 mang nét sầu não, buồn thương. Còn sau Cách mạng tháng 8 thơ Huy Cận đã lột xác hoàn toàn, trở nên mới mẻ và tràn đầy sức sống. Có thể thấy rằng các sáng tác của Huy Cận luôn bám sát hiện thực cuộc sống, thời đại

Trước tháng 8 năm 1945

Huy Cận có thơ đăng báo từ 1936, cho in tập thơ đầu Lửa thiêng năm 1940 (gồm những bài đã đăng báo trước 1940) và trở thành một trong những tên tuổi hàng đầu của phong trào Thơ mới lúc bấy giờ. Bao trùm Lửa Thiêng là một nỗi buồn mênh mang da diết. Thiên nhiên trong tập thơ thường bao la, hiu quạnh, đẹp nhưng thường buồn. Nỗi buồn đó dường như vô cớ, siêu hình nhưng xét đến cùng, chủ yếu là buồn thương về cuộc đời, kiếp người, về quê hương đất nước. Hồn thơ "ảo não", bơ vơ đó vẫn cố tìm được sự hài hòa và mạch sống âm thầm trong tạo vật và cuộc đời. Trong Kinh cầu tự (1942, văn xuôi triết lý) và Vũ trụ ca (thơ đăng báo 1940-1942), Huy Cận đã tìm đến ca ngợi niềm vui, sự sống trong vũ trụ vô biên song vẫn chưa thoát khỏi bế tắc.[8]

Sau tháng 8 năm 1945

Các tác phẩm của Huy Cận sau Cách mạng tháng 8:

Sáng tác được phổ nhạc

"Buồn đêm mưa" được Phạm Đình Chương phổ nhạc "Những thành phố bên bờ biển cả" được Phạm Đình Sáu phổ nhạc

Danh hiệu

Huy Cận đã được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I - năm 1996).[8]

Tháng 6 năm 2001, Huy Cận được bầu là viện sĩ Viện Hàn lâm Thơ Thế giới.[cần dẫn nguồn]

Ngày 23 tháng 2 năm 2005, ông được Nhà nước truy tặng Huân chương Sao Vàng.[cần dẫn nguồn]

Ở một số thành phố đã có đường phố mang tên nhà thơ Huy Cận như Đồng Hới, Quảng Bình (nối Nguyễn Bỉnh Khiêm với Mạc Đĩnh Chi)... Ở huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh (quê ông), có Trường Trung hoc phổ thông mang tên Cù Huy Cận, ở thành phố Hà Tĩnh có đường Huy Cận (Phường Nguyễn Du - giao với đường Xuân Diệu).[cần dẫn nguồn]

Chú thích

  1. ^ VTV1, 23/10/2020
  2. ^ Lãnh đạo Đảng và Nhà nước viếng đồng chí Cù Huy Cận
  3. ^ Trần Khánh Thành. “Bản sao đã lưu trữ”. Đại học Quốc gia Hà Nội. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2010. Đã định rõ hơn một tham số trong |tên bài=|title= (trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  4. ^ Kiện tướng Lê Quang Liêm chính thức được tuyển thẳng
  5. ^ “Giải cờ vua Olympiad 2006: Lê Quang Liêm sớm đạt đại kiện tướng”. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2011.
  6. ^ GM Gupta and IM Harika win the World Junior Chess Championship Lưu trữ 2011-11-17 tại Wayback Machine (ĐKT Gupta và KT Harika vô địch cờ vua thanh niên thế giới) (tiếng Anh)
  7. ^ “Thành tích Lê Quang Liêm tại Olympiad cờ vua lần thứ 38”. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2009.
  8. ^ a b Đ.T (24 tháng 2 năm 2005). “Bản sao đã lưu trữ”. NetCodo. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2010. Đã định rõ hơn một tham số trong |tên bài=|title= (trợ giúp)