Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lịch sử Áo”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 187: Dòng 187:
==== Lịch sử Châu Âu ====
==== Lịch sử Châu Âu ====
==== Khác (Đế chế Habsburg) ====
==== Khác (Đế chế Habsburg) ====
== Liên kết ==
== Liên kết ngoài ==
{{Commons category|Lịch sử Áo}}
*[http://AustrianHistory.com/ Austrian History - Timeline 976 to Present]
{{Commons|Atlas Áo}}
*[http://www.badley.org/history/Austria.index.html History of Austria - World History Database]
*[http://eudocs.lib.byu.edu/index.php/History_of_Austria:_Primary_Documents History of Austria: Primary Documents]
* [http://eudocs.lib.byu.edu/index.php/History_of_Austria:_Primary_Documents History of Austria: Primary Documents]
* [http://www.h-net.org/~habsweb/ HABSBURG], an e-mail discussion list dealing with the culture and history of the Habsburg Monarchy and its successor states in central Europe since 1500, with discussions, syllabi, book reviews, queries, conferences; edited daily by scholars since 1994
*[http://vinnyswebsite.com/italyaustriaww1.php Italy and Austria WW1]
* [http://www.demokratiezentrum.org/fileadmin/media/data/staatswappen.pdf Gustav Spann: Fahne, Staatswappen und Bundeshymne der Republik Österreich] (Flag, Coat of Arms and Federal Hymn of the Republic of Austria) (pdf; 4.7 MB)
* [http://www.akustische-chronik.at/ www.akustische-chronik.at – Multimedia Chronicle of Austria 1900–2000 (Österreichische Mediathek)]
* [http://www.staatsvertrag.at/ www.staatsvertrag.at – An acoustic web exhibition (Österreichische Mediathek)]
* Die ''Ostarrichi-Urkunde'', {{LBALink|3160}}
* Ernst Hanisch: ''[http://docupedia.de/zg/%C3%96sterreich_-_Die_Dominanz_des_Staates Österreich – Die Dominanz des Staates. Zeitgeschichte im Drehkreuz von Politik und Wissenschaft].'' Version: 1.0, in: ''Docupedia Zeitgeschichte'', 22 March 2011


==Tham khảo==
==Tham khảo==

Phiên bản lúc 12:46, ngày 28 tháng 11 năm 2020

Lịch sử Áo là lịch sử của nước Áo ngày nay và các quốc gia tiền thân của nó từ đầu thời kỳ đồ đá cho đến nay. Tên Ostarrîchi (Áo) đã được sử dụng từ năm 996 sau Công nguyên khi nó là một phần của Công quốc Bayern và từ năm 1156 là một công quốc độc lập (sau này là Đại Công quốc) của Đế quốc La Mã Thần thánh (Heiliges Römisches Reich 962–1806) .

Áo bị thống trị bởi nhà Habsburgnhà Habsburg-Lothringen (Haus Österreich) từ năm 1273 đến năm 1918. Năm 1808, khi Hoàng đế Franz II giải thể Đế quốc La Mã Thần thánh, Áo trở thành Đế quốc Áo và cũng là một phần của Liên minh các quốc gia Đức cho đến Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866. Năm 1867, Áo thành lập chế độ quân chủ kép với Hungary: Đế quốc Áo-Hung (1867–1918). Khi đế chế này sụp đổ sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc vào năm 1918, Áo được thu nhỏ thành các khu vực chính, chủ yếu nói tiếng Đức của đế quốc (biên giới hiện tại của nó) và lấy tên là Cộng hòa Áo-Đức. Tuy nhiên, liên minh với Đức và tên quốc gia được chọn đã bị cấm bởi quân Đồng minh theo Hiệp ước Versailles. Điều này dẫn đến việc thành lập Đệ nhất Cộng hòa Áo (1919-1933).

Sau thời Đệ nhất Cộng hòa, Chủ nghĩa Phát xít Áo cố gắng giữ cho Áo độc lập khỏi lãnh thổ Đức. Engelbert Dollfuss chấp nhận rằng hầu hết người Áo là người Đức và người Áo nhưng muốn Áo vẫn độc lập khỏi Đức. Năm 1938, Adolf Hitler gốc Áo sát nhập Áo vào lãnh thổ Đức với Anschluss và được đa số dân Áo ủng hộ.[1][2] Mười năm sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Áo một lần nữa trở thành một nước cộng hòa độc lập với tên gọi Đệ nhị Cộng hòa Áo vào năm 1955.

Áo gia nhập Liên minh Châu Âu năm 1995.

Thời Tiền Sử

Trong thời kỳ đồ đá mới, lãnh thổ của nước Áo ngày nay là quê hương của nền văn hóa gốm tuyến tính, một trong những nền văn hóa nông nghiệp đầu tiên ở châu Âu.

Người băng Ötzi, xác ướp của một người được bảo quản tốt đông lạnh trong dãy núi Anpơ của Áo, có niên đại từ năm 3300 TCN.

Đầu Trung cổ

Trong giai đoạn di cư, các bộ lạc Slav của người Carantania di cư vào dãy Anpơ trong thời kỳ bành trướng của những lãnh chúa Avar trong thế kỷ thứ 7, người Carantania pha trộn với dân số Celt-Germanic, và thành lập vương quốc Carantania, trong đó bao gồm phần lớn phía đông và trung tâm lãnh thổ Áo. Trong khi đó, các bộ lạc Germanic của người Bavaria phát triển trong thế kỷ thứ 5 và 6 ở phía tây của Áo và tại Bavaria, khu vực Vorarlberg ngày được định cư bởi những người Alamanni. Những nhóm này hòa trộn với dân số Rhaeto-Romanic và đẩy nhóm người Rhaeto-Romanic lên các khu vực vùng núi.

Carantania, dưới áp lực của người Avar, mất độc lập vào tay Bavaria năm 745 và trở thành một bá tước. Trong những thế kỷ sau, người định cư Bavarian đã di chuyển xuống khu vực sông Danube và lên dãy núi Alps, một quá trình mà qua đó, Áo đã trở thành nước chủ yếu nói tiếng Đức như ngày nay.

Người Bavaria sau đó chịu sự thống trị của những người Frank Carolingia và sau đó là một công quốc của Thánh chế La Mã. Công tước Tassilo III, người muốn duy trì độc lập của Bavaria, đã bị đánh bại và thay thế bởi Charlemagne trong năm 789.

Biên giới phía đông (orientalis marchia) được thành lập trong thời gian cai trị của Charlemagne, nhưng biên giới này cũng bị người Hungary tràn qua trong năm 909.

Thời Trung cổ

Đầu thời Trung cổ: Công quốc Bayern (thế kỷ 8 - 10)

Triều đại Babenberg

Ostarrîchi từ Otto III, Hoàng đế Đế quốc Lã Mã Thần Thánh

Sau khi người Hungary bị đánh bại bởi Otto Đại đế trong trận Lechfeld (955), những biên giới mới được thành lập ở khu vực ngày nay là Áo. Khu vực biên giới orientalis marchia đã trở thành lãnh thổ chính của Áo và đã được trao cho Leopold nhà Babenberg trong năm 976 sau cuộc nổi dậy của Henry II, Công tước xứ Bavaria.

Những tài liệu đầu tiên cái tên Áo xuất hiện là vào năm 996 khi cái tên này được viết trong Ostarrîchi, nhằm chỉ tới lãnh thổ biên giới Babenberg. Thuật ngữ Ostmark chưa được xác định trong lịch sử và được xem là dịch từ marchia orientalis màu sau này mới xuất hiện.

Các thế kỷ sau đã được đánh dấu bởi những dòng di cư đầu tiên, khi rừng bị phá, các thị xã và tu viện được thành lập. Năm 1156 Privilegium Minus nâng Áo lên vị trí một công quốc. Năm 1192, những người Babenberg cũng đã giành được công quốc Styria thông qua Hiệp ước Georgenberg. Vào thời gian đó, Các công tước Babenberg là một trong những gia đình cầm quyền có ảnh hưởng nhất trong khu vực, đạt đến đỉnh cao trong triều đại của Leopold VI (1198-1230).

Tuy nhiên, sau khi con trai ông là Frederick II bị giết hại trong năm 1246, dòng họ bị tuyệt vong, điều này dẫn đến interregnum, một khoảng thời gian vài thập kỷ, trong đó vị thế của đất nước trở thành vấn đề trong. Přemysl Otakar II của Bohemia kiểm soát hiệu quả các công quốc Áo, Styria và Carinthia. Triều đại của ông chấm dứt sau thất bại vào tay của Rudolf của Habsburg trong trận Dürnkrut và Jedenspeigen vào năm 1278.

Triều đại Habsburg (thế kỷ 13 tới 1918)

Thời kỳ đầu

Maximilian I của Đế quốc La Mã Thần thánh vẽ bởi Albrecht Dürer năm 1519

Sau khi triều đại Babenberg chấm dứt vào thế kỷ 13, Áo đã trải qua một thời gian ngắn chịu sự cai trị của vua Séc Otakar II. Tranh cãi về cuộc bầu cử nhằm đưa Rudolf I của Habsburg thành Hoàng đế, Otakar đã bị đánh bại và bị giết bởi vua Đức, người đã chiếm Áo và trao quyền cai trị cho con trai của ông vào năm 1278. Áo được cai trị bởi nhà Habsburg trong 640 năm tiếp theo. Trong thế kỷ 14 và 15, nhà Habsburg bắt đầu sáp nhập các tỉnh lân cận công quốc Áo, khi đó vẫn là một công quốc nhỏ dọc theo sông Danube, cùng với Steiermark, công quốc mà họ đã giành được từ Otakar cùng giai đoạn với Áo. KärntenCarniola bị nhà Habsburg xâm chiếm trong năm 1335, quận Tyrol trong năm 1363.

Lịch sử hai thế kỷ sau đó chứng kiến rất nhiều thăng trầm. Sau sự cai trị trong một thời gian ngắn của Rudolf IV, hai người anh em của ông là Albert IIILeopold III phân chia lãnh thổ trong Hiệp ước Neuberg năm 1379. Albert giữ quyền kiểm soát Áo, trong khi Leopold chiếm phần lãnh thổ còn lại. Năm 1402, lại có một cuộc chia cắt nữa trên đường ranh giới Leopoldia, khi Ernest người sắt đã chiếm phần nội địa Áo (Steiermark, Kärnten và Carniola) và Frederick IV đã trở thành người cai trị của Tyrol và Áo mở rộng. Các vùng lãnh thổ chỉ được thống nhất bởi con trai của Ernest là Frederick V (Frederick III là hoàng đế La Mã Thần thánh), khi đường ranh giới Albertinia (1457) và đường ranh giới Elder Tyrolean (1490) bị xóa bỏ.

Năm 1438, Công tước Albert V của Áo được chọn làm người thừa kế ngôi vàng của cha vợ, Hoàng đế Sigismund. Mặc dù bản thân Albert chỉ trị vì trong một năm, từ đó về sau, mọi hoàng đế của Áo đều thuộc dòng họ Habsburg, chỉ có một ngoại lệ. Nhà Habsburg cũng tiếp tục quá trình mở rộng lãnh thổ. Năm 1477, Maximilian I, người con trai duy nhất của Hoàng đế Frederick III, kết hôn với người thừa kế của Burgundy, do đó giành quyền kiểm soát hầu hết các quốc gia thuộc vùng đất thấp cho gia đình. Người con trai của ông Philip Công bằng kết hôn với người thừa kế của Castile và Aragon, và do đó cũng dành thêm được Tây Ban Nha, các vùng đất ở Ý, châu Phi, và Tân Thế giới cho nhà Habsburg. Tuy nhiên, các lãnh thổ của nhà Habsburg đã nhanh chóng bị tách ra khỏi đế chế rộng lớn này khi vào năm 1520, Hoàng đế Charles V trao quyền cai trị của người em của mình, Ferdinand.

Áo và cuộc Cải cách (1526–1618)

Năm 1526, sau trận Mohács, trận chiến mà người anh vợ của Ferdinand là Louis II, vua của Hungary và Bohemia, đã bị giết chết, Ferdinand bành trướng lãnh thổ của mình, đưa Bohemia và phần Hungary không bị chiếm đóng bởi Đế quốc Ottoman dưới sự cai trị của ông. Sự bành trướng của nhà Habsburg vào Hungary đã dẫn đến những xung đột thường xuyên với người Thổ Nhĩ Kỳ, đặc biệt là cái gọi là cuộc Chiến tranh giai đoạn 1593-1606.

Áo và các tỉnh khác của nhà Habsburg (Hungary và Bohemia) bị ảnh hưởng sâu sắc bởi cuộc cải cách này. Mặc dù những nhà cai trị Habsburg vẫn là những người Công giáo, các tỉnh tự chuyển đổi sang Giáo hội Luther, điều mà Ferdinand I và người kế nhiệm ông, Maximilian II, Rudolf II, và Mathias phần lớn chấp thuận.

Áo và Chiến tranh Ba mươi năm (1618–1648)

Ferdinand II (1619–1637) và việc tiến quá xa của nhà Habsburg

Khi Ferdinand II (1619–1637), một người cực kỳ ngoan đạo và không có lòng khoan dung tôn giáo được bầu làm Hoàng đế (tự hiệu là Ferdinand II) vào năm 1619 để kế vị người anh họ Mathias, ông đã bắt tay thực hiện công cuộc tái Công giáo hóa không chỉ các Tỉnh được thừa hưởng cua mình mà cả Bohemia và Hungary thuộc nhà Habsburg cũng như phần lớn châu Âu theo đạo Tin lành trong Đế chế La Mã Thần thánh.

Bên ngoài vùng đất thừa kế của mình, danh tiếng về sự bất khoan dung tôn giáo kiên định mạnh mẽ của Ferdinand II đã gây ra cuộc Chiến tranh Ba mươi năm vào tháng 5 năm 1618 trong giai đoạn đầu phân cực, được gọi là Cuộc nổi dậy ở Bohemia. Sau khi Cuộc nổi dậy Bohemia bị dập tắt vào năm 1620, ông đã bắt tay vào một nỗ lực phối hợp để loại bỏ đạo Tin lành ở Bohemia và Áo, thành công phần lớn là nỗ lực của ông nhằm giảm bớt quyền lực của Nghị viện. Sự đàn áp tôn giáo đối với Phong trào Phản Cải cách lên đến đỉnh điểm vào năm 1627 với Sắc lệnh Tỉnh (Veneuerte Landesordnung).[3]

Sau một số bước lùi ban đầu, Ferdinand II đã trở nên dễ tính hơn nhưng khi những người Công giáo xoay chuyển tình thế và bắt đầu có một chuỗi thành công dài trong tay, ông đã đưa ra Sắc chỉ Phục hồi vào năm 1629 nhằm nỗ lực khôi phục nguyên trạng năm 1555 (Hòa ước Augsburg), làm phức tạp rất nhiều vấn đề chính trị của các cuộc đàm phán dàn xếp và kéo dài phần còn lại của cuộc chiến. Được khích lệ bởi những thành công giữa cuộc chiến, Ferdinand II thậm chí còn trở nên mạnh mẽ hơn, dẫn đến những tai tiếng của quân đội của ông như Trận cướp bóc Frankenburg (Frankenburger Würfelspiel) (1625), đàn áp khởi nghĩa nông dân năm 1626Trận cướp phá Magdeburg ( 1631).[4] Mặc dù kết thúc bằng Hòa ước Praha (1635) với Sachsen và do đó kết thúc cuộc chiến nội bộ hay nội chiến với những người theo đạo Tin lành, chiến tranh vẫn kéo dài do sự can thiệp của nhiều ngoại bang như Tây Ban Nha, Thụy Điển và Pháp thúc đẩy.

Ferdinand III và tiến trình hòa bình (1637–1648)

Vào thời điểm Ferdinand II qua đời vào năm 1637, cuộc chiến đang diễn ra để lại hậu quả thảm khốc đối với nhà Habsburg và con trai ông là Ferdinand III (1637–1657), một trong những chỉ huy quân sự của ông phải đối mặt với nhiệm vụ cứu vãn hậu quả từ chủ nghĩa cực đoan của cha mình. Ferdinand III thực dụng hơn nhiều và từng được coi là lãnh đạo của phe chủ hòa tại triều đình và đã giúp đàm phán Hòa ước Praha năm 1635. Tuy nhiên, với những tổn thất liên tục trong cuộc chiến, ông bị ép buộc phải lập hòa ước vào năm 1648 với Hòa ước Westphalen để kết thúc cuộc chiến. Một trong những hành động của ông trong phần sau của cuộc chiến là trao thêm độc lập cho các quốc gia Đức (ius belli ac pacis - quyền trong thời kỳ chiến tranh và hòa bình), điều này sẽ dần thay đổi cán cân quyền lực giữa hoàng đế và các quốc gia ủng hộ sau này.

Đánh giá

Trong khi những nguyên nhân sâu xa của nó được cho là khó xác định, cuộc chiến chứng minh là một trò tàu lượn siêu tốc khi nhà Habsburg đi quá xa trong việc đạt tham vọng chính trị là quyền bá chủ và sự tuân phục về tôn giáo của nhà Habsburg, dẫn đến việc tranh chấp lan rộng từ trong nước sang phần lớn châu Âu và cuối cùng họ cũng thất bại ngoại trừ trong lãnh thổ trung tâm của chính họ.

Các cuộc cải đạo cưỡng bức hoặc trục xuất đã được thực hiện trong Chiến tranh Ba mươi năm cùng với sự thành công chung sau này của những người theo đạo Tin lành đã gây ra những hậu quả tiêu cực lớn cho sự kiểm soát của nhà Habsburg đối với chính Đế chế La Mã Thần thánh. Mặc dù tổn thất lãnh thổ tương đối nhỏ nhưng Đế chế đã bị suy giảm quyền lực đáng kể và cán cân quyền lực ở châu Âu thay đổi với các trung tâm quyen lực mới xuất hiện ở biên giới của đế chế. Các lãnh thổ này giờ đây hoạt động giống như các quốc gia hơn.

Trong khi bị tước đoạt mục tiêu của chế độ quân chủ phổ quát, các chiến dịch bên trong các vùng đất thừa kế của nhà Habsburg đã tương đối thành công trong việc thanh lọc tôn giáo dù Hungary chưa bao giờ được tái Công giáo hóa thành công. Chỉ ở Hạ Áo và chỉ trong giới quý tộc, đạo Tin lành mới được chấp nhận. Một số lượng lớn người đã di cư hoặc cải đạo trong khi những người khác bị xâm phạm là người theo đạo Tin lành bí mật, tuân phục một cách tương đối. Cuộc nổi dậy Bohemia bị dập tắt cũng đã chôn vùi nền văn hóa Séc và khiến tiếng Đức trở thành công cụ của chế độ chuyên chế Habsburg. Các quốc vương Áo sau đó có quyền kiểm soát lớn hơn nhiều dựa trên việc thừa kế, sự kìm kẹp của chế độ chuyên chế triều đại được thắt chặt và quyền lực của các vùng giảm dần. Mặt khác, Áo bị suy giảm nhiều về dân số và sức mạnh kinh tế, kém sức sống hơn và suy yếu với tư cách là một quốc gia dân tộc.

Chế độ Quân chủ Áo thời kì Baroque được thành lập. Bất chấp sự phân đôi giữa thực tế bên ngoài và niềm tin bên trong, phần còn lại của thế giới coi Áo là hình ảnh thu nhỏ của sự tuân phục cưỡng bức và sự kết hợp của giáo hội và nhà nước.

Tác động của chiến tranh

Ngoài tổn thất về người, các cuộc chiến tranh Ba mươi năm đã để lại nhiều biến động kinh tế, xã hội và dân số gây ra bởi các phương pháp cứng rắn được áp dụng bởi các biện pháp cải cách nghiêm ngặt của Ferdinand II và hầu như liên tục sử dụng các đội quân lính đánh thuê đã góp phần đáng kể vào tổn thất nhân mạng và giảm dân số thảm khốc ở tất cả các quốc gia Đức, trong một cuộc chiến tranh mà một số ước tính khiến thiệt hại về nhân mạng của dân thường lên tới 50%. Các nghiên cứu chủ yếu trích dẫn nguyên nhân tử vong do đói hoặc do nguyên nhân (cuối cùng là do thiếu lương thực) làm suy yếu sức đề kháng đối với các bệnh đặc hữu, vốn đã nhiều lần đạt tỷ lệ dịch trong dân số Trung Âu nói chung - các quốc gia Đức là chiến trường Các khu vực dàn dựng cho các đội quân đánh thuê lớn nhất trước đó và các đội quân này đã cướp bóc ở nhiều tỉnh để ăn cắp thực phẩm của những người bị buộc phải lên đường tị nạn hoặc vẫn ở lại các vùng đất, bất kể đức tin và lòng trung thành của họ. Cả người dân thị trấn và nông dân liên tục bị tàn phá và trở thành nạn nhân bởi quân đội của cả hai bên, để lại rất ít cho những người dân vốn đã bị căng thẳng bởi những người tị nạn từ chiến tranh hoặc chạy trốn các cuộc đàn áp phản cải cách của Công giáo dưới sự quản lý của Ferdinand.[5]

Sự kế vị và chia lại các vùng đất

Thiết lập chế độ quân chủ: Áo trỗi dậy thành một cường quốc (1648–1740)

Leopold I (1657–1705): Sự thống nhất cuối cùng và giải phóng khỏi Đế chế Ottoman

Chiến tranh kế vị Tây Ban Nha (1701–1714): Joseph I và Charles III

Charles III: Kế vị và Chế tài Thực dụng (1713–1740)

Maria Theresia và cuộc cải cách (1740–1780)

Chiến tranh Kế vị Áo (1740–1748)

Chiến tranh Bảy năm và Chiến tranh Silesian thứ ba (1754–1763)

Chiến tranh kế vị Bavaria (1778–1779)

Cải cách

Quản trị và tài chính

Giáo dục

Quyền dân sự, công nghiệp và quan hệ lao động

Tôn giáo

Kế vị và đồng nhiếp chính

Triều đại nhà Habsburg-Lorraine: Joseph II và Leopold VII (1780–1792)

Joseph II (1780–1790): Chủ nghĩa Josephin và chế độ chuyên quyền khai sáng

Luật dân sự và hình sự

Giáo dục và y học

Tôn giáo

Chính sách đối ngoại

Phản ứng

Leopold II (1790–1792)

Nghệ thuật

Francis II: Cách mạng Pháp và các cuộc chiến (1792–1815)

Chính sách trong nước

Chiến tranh cách mạng (1792–1802)

Chiến tranh của liên minh đầu tiên (1792–1797)

Chiến tranh của liên minh thứ hai (1798–1801)

Chiến tranh của Napoléon và sự kết thúc của Đế chế (1803–1815)

Chiến tranh của liên minh thứ ba (1805)

Chiến tranh của liên minh thứ năm (1809)

Chiến tranh của Liên minh thứ sáu (1812–1814)

Chiến tranh của liên minh thứ bảy (1815)

Đại hội Vienna (1815)

Nghệ thuật

Thế kỷ 19 (1815–1914)

Thời kỳ nhị phân (1815–1848)

Franz Joseph I và Belle Époque (1848–1914)

Áo hậu cách mạng (1848–1866)

Câu hỏi tiếng Ý (1859–1860)
Hậu quả - nhượng bộ hiến pháp
Câu hỏi Đan Mạch (1864–66)
Câu hỏi tiếng Hungary
Chiến tranh Áo-Phổ (1866)

Chế độ quân chủ kép (1867–1918)

Hòa giải
Ausgleich (Thỏa hiệp) 1867
Áo-Hungary, 1867–1914

Chính trị và quản trị

Chủ nghĩa tự do ở Cisleithania 1867–1879
Tái tổ chức chính trị 1879
Quyền bầu cử trực tiếp và bình đẳng cho Reichsrat (1907)

Nghệ thuật

Áo trong Thế chiến thứ nhất 1914–1918

Áo Đức và Cộng hòa thứ nhất (1918–1933)

Cộng hòa Đức-Áo (1918–1919)

1918

1919

Đệ nhất Cộng hòa, 1919–1933

Hiệp ước Saint Germain 1919

Sự kết thúc của liên minh lớn và hiến pháp mới (1920–1933)

Chính trị và chính phủ

Chế độ độc tài: Nhà nước Liên bang Áo (1933–1938)

Engelbert Dollfuss (1933–1934)

1933: Giải tán quốc hội và thành lập Mặt trận Yêu nước

Cuộc đảo chính tháng 3
Sự kiện tiếp theo

1934: Nội chiến và ám sát

Kurt Schuschnigg (1934–1938)

Anschluss và thống nhất với Đức (1938–1945)

Nền Cộng hòa thứ hai (từ năm 1945)

Nghề nghiệp của đồng minh

Độc lập và phát triển chính trị trong thời Đệ nhị Cộng hòa

Những năm gần đây

Xem thêm

Các bài báo

Áo

Khác

Danh sách

Chú thích cuối trang

Trích dẫn

  1. ^ Austria: A Country Study. Select the link on left for The Anschluss and World War II. Eric Solsten, ed. (Washington, D.C.: Federal Research Division of the Library of Congress, 1993).
  2. ^ Emil Müller-Sturmheim
  3. ^ Charles W. Ingrao, The Habsburg Monarchy, 1618–1815 (2nd ed. 2000) p. 35
  4. ^ Kann, A History of the Habsburg Empire, 1526–1918 (2nd ed. 1980) pp. 45–53
  5. ^ Charles W. Ingrao, The Habsburg Monarchy, 1618–1815 (2nd ed. 2000) pp. 23–52

Thư mục

  • Beller, Steven (2006). A Concise History of Austria. Cambridge, United Kingdom: Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-47305-7.Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
  • Erbe, Michael (2000). Die Habsburger 1493–1918. Urban. Kohlhammer Verlag. ISBN 978-3-17-011866-9.Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
  • Gale, Thomson (1998). Worldmark Encyclopedia of the Nations (ấn bản 9). Farmingtom Hills, Michigan: Gale. ISBN 978-0-7876-0079-2.

Những nguồn thông tin trên mạng

Đọc thêm

Chung

Tài liệu cổ

Thế kỷ 18

Thế kỷ 19

Hiện đại

Chính trị

Lịch sử Châu Âu

Khác (Đế chế Habsburg)

Liên kết ngoài

Tham khảo