Eino Leino

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Eino Leino
Eino Leino năm 1912
Eino Leino năm 1912
SinhArmas Einar Leopold Lönnbohm
(1878-07-06)6 tháng 7 năm 1878
Paltaniemi, Paltamo, Đại công quốc Phần Lan
Mất10 tháng 1 năm 1926(1926-01-10) (47 tuổi)
Tuusula, Phần Lan
Bút danhMikko Vilkastus, Teemu, Kanttori Sepeteus
Nghề nghiệpnhà văn, nhà báo, nhà phê bình
Tư cách công dânPhần Lan
Thể loạitượng trưng, tân lãng mạn
Trào lưuPhần Lan trẻ

Chữ ký

Eino Leino (tên khai sinh Armas Einar Leopold Lönnbohm; 6 tháng 7 năm 1878 – 10 tháng 1 năm 1926) là nhà thơ, nhà báo Phần Lan, được coi là một trong những tác giả tiên phong trong thi ca Phần Lan và là thi nhân dân tộc Phần Lan. Thơ ông kết hợp yếu tố hiện đại với dân gian Phần Lan. Phần lớn tác phẩm của Leino mang phong cách Kalevala và dân ca nói chung. Những chủ đề thường xuyên trong thơ Leino là thiên nhiên, tình yêu và sự tuyệt vọng. Ngày nay, người dân Phần Lan vẫn yêu mến và đọc thơ Leino.

Ngày 6 tháng 7 được gọi là Ngày Eino Leino (tiếng Phần Lan: Eino Leinon päivä) cũng như ngày thơ ca Phần Lan và mừng mùa hạ. Từ năm 1992, ngày này trở thành ngày treo quốc kỳ Phần Lan.[1]

Cuộc đời và phong cách[sửa | sửa mã nguồn]

Gia đình và thời trẻ[sửa | sửa mã nguồn]

Eino Leino chịu báp têm với tên gọi Armas Einar Leopold Lönnbohm tại thị trấn Paltamo, là con út và con trai thứ bảy trong gia đình có mười người con. Gia đình Leino sống tại làng Paltaniemi.[2][3] Cha Leino đã đổi tên từ Antti Mustonen thành Anders Lönnbohm để tăng khả năng có thể cưới được người vợ tương lai thuộc giới thượng lưu là Anna Emilia Kyrenius.[4] Ông Lönnbohm làm công chức đạc điền, đồng thời quản lý trang trại Hövelö của riêng gia đình.[5] Trang trại nằm trong vùng hồ OulujärviElias Lönnrot từng sống trước đó 40 năm.[6] Dòng họ Leino có nguồn gốc từ LiperiSortavala tại Karelia, còn bên ngoại truy ngược về Tây Nam Phần Lan.[7]

Nhà Lönnbohm dường như là nơi nuôi dưỡng và phát triển tinh thần phong trào Fennoman của Johan Vilhelm Snellman. Eino Leino sớm được tiếp thu tri thức và khả năng văn học từ các anh trai Oskar, Kaarlo, Viktor và đặc biệt là Kasimir. Kasimir Leino cũng là nhân vật văn hóa quan trọng tại Phần Lan trong vai trò nhà thơ, nhà phê bình và đạo diễn sân khấu; chính ông đã truyền lại ảnh hưởng văn hóa châu Âu đương thời cho anh chị em mình.[8] Năm 1898, Kasimir và Eino lập ra một tạp chí văn học.[1]

Tuổi thơ Eino ở Hövelö thấm đẫm những câu chuyện, dân ca và lời chú Kainuu cổ, cũng như chuyện kể hấp dẫn về thời Đại nộ hay Lâu đài KajaaniBắc Ostrobothnia. Những người chèo thuyền từ các vùng chết đói đến Oulu ghé qua bờ Hövelö cũng nhắc Eino về thực tế khắc nghiệt của cuộc sống.[8]

Cha mẹ qua đời khi Leino còn tuổi đi học. Leino bắt đầu đi học ở Kajaani rồi tiếp tục đến sống tại nhà họ hàng để học tại OuluHämeenlinna. Sau khi tốt nghiệp trung học Hämeenlinna, Leino vào học Đại học Helsinki.[1]

Leino học trường tiểu học Kajaani rồi lên trung học Oulu (1889–1890). Năm 1890, cha qua đời khiến kinh tế gia đình khó khăn, ông cùng với anh trai là nhà báo Oskar Lönnbohm chuyển đến Hämeenlinna.[9] Năm 1895, ông tốt nghiệp trung học Hämeenlinna ở tuổi 16. Leino cũng nhập học Đại học Helsinki nhưng sớm bỏ để theo đuổi niềm đam mêm văn học.[1]

Nơi sinh Eino Leino tại Hövelö, ảnh chụp năm 1932

Khi còn là học sinh, Leino đã bắt đầu tập tành làm thơ. Mùa thu năm 1890, khi 12 tuổi, ông có bài thơ Kajaani linna (Lâu đài Kajaani) đăng trên tờ Häme Sanomat do tổng biên tập Oskar Lönnbohm hỗ trợ.[10] Những bài thơ của Leino viết về tình cảm học trò dưới mái trường Hämeenlinna trên báo chép tay Vasama về sau được đưa vào tập thơ đầu tay Maaliskuun lauluja (Khúc hát tháng Ba) xuất bản năm 1896.[1] Khi còn học trung học, Leino đã tìm tòi về văn học thế giới. Ông biết về các tác gia văn học cổ đại qua những giờ tiếng Latinh. Ông cũng học đọc tác phẩm gốc bằng tiếng Đứctiếng Pháp của Heinrich Heine, Friedrich Nietzsche, Émile Zola, Guy de Maupassant. Năm 1894, Leino bắt đầu sự nghiệp dịch thuật văn học thế giới với tác phẩm đầu tay Kung Fjalar (Vua Fjalar) của nhà thơ Thụy Điển Johan Ludvig Runeberg, được Hội văn học Phần Lan (tiếng Phần Lan: Suomalaisen Kirjallisuuden Seura - SKS) ấn hành.[5]

Nhà phê bình trên Päivälehti và thi sĩ với Helkavirsiä[sửa | sửa mã nguồn]

Bìa Helkavirsiä (1903) do Pekka Halonen thiết kế

Đến Helsinki, Eino Leino tìm ra nơi phát huy khả năng tư tưởng mình tại tờ báo tân thời Päivälehti. Ra đời năm 1889 theo sáng kiến của Eero Erkko, Juhani AhoArvid Järnefelt, tờ báo đã thúc đẩy cải cách quyền bầu cử và mở rộng các quyền chính trị, đồng thời phản đối chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và tư tưởng giáo hội bảo thủ của thế hệ cựu Fennoman. Tờ báo cũng chủ trương lập hiến trong quan hệ chính trị Đại công quốc Phần Lan trong Đế quốc Nga. Năm 1898, Leino là nhà phê bình văn học và sân khấu thường xuyên của Päivälehti. Vài năm sau, ông bắt đầu lấn sân sang các vấn đề văn hóa với bút danh "Mikko Vilkastus". Khi nhà chức trách Nga đóng cửa Päivälehti vì mang những quan điểm cấp tiến, tờ Helsingin Sanomat ra đời thế chỗ và Leino tiếp tục với bút danh "Teemu". Vào Cách mạng Nga (1905), ông viết khoảng một trăm tiểu luận đả kích "giới chức thân Nga, những kẻ bóp nghẹt tự do tôn giáo, hệ thống cảnh sát và hiến binh nhà nước" như được mô tả trong tiểu sử Leino của L. Onerva.[11] Vì giọng điệu châm biếm cay độc, Leino trở nên nổi tiếng nhưng cũng bị nhiều kẻ ghét bỏ.[1]

Eino Leino học nghề báo với anh trai Kasimir trên tạp chí văn hóa Nykyajassa (xuất bản 1897–1899).[12] Hai anh em thành lập tạp chí này để có thể giới thiệu và bình luận về các xu hướng nghệ thuật mới nhất của châu Âu.[1] Leino bày tỏ mong muốn ủng hộ giáo dục thẩm mỹ, yêu cầu bản dịch chất lượng cao cho các tác phẩm kinh điển và thúc đẩy lý tưởng về một "tổ quốc chung, không bị chia cắt" vì rào cản ngôn ngữ. Leino coi báo chí là kênh để mình nói chuyện trực tiếp với nhân dân Phần Lan.[13]

Viết báo khỏe cũng không ngăn nổi Eino Leino say sưa đắm mình vào thơ ca. Các tập thơ Sata ja yki laulua (Một trăm lẻ một bài hát) (1898) và Ajan aalloilla (Ta cưỡi sóng) (1899) có đặc trưng về sự chiêm nghiệm và thức tỉnh lòng yêu nước. Bài thơ Hymyilevä Apollo (Nụ cười Apollo) ca ngợi lòng khoan dung, tình yêu với người chung quanh. Ước mơ cho dân tộc Päivän poika (Chàng trai thời đại) thể hiện niềm tin lạc quan vào con người của chàng trai trẻ Leino.[14] Ngược lại, tập thơ Hiihätäjn virsiä (Thánh ca người trượt tuyết) (1900) nhuốm màu hoài niệm u sầu về ngôi nhà thời thơ ấu.[15]

Freya Schoultz xuân 1903

Đánh bạn với những đại diện thế hệ nhạc sĩ và nghệ sĩ Phần Lan đang nổi lên là Akseli Gallen-Kallela, Jean Sibelius, Robert Kajanus, Pekka HalonenEmil Wikstrom đã kích thích loại hình nghệ thuật mới trong Leino.[a] Cùng với chủ nghĩa Karelia đang là chủ đạo cho Chủ nghĩa tân lãng mạn tại Phần Lan khi ấy, Leino bắt đầu đi sâu Kalevala. Vở kịch thơ Tuonela joutsen (Con thiên nga của Tuonela) (1898) và Sota valosta (Chiến đấu vì ánh sáng) (1900) được coi là khởi đầu cho chủ nghĩa tượng trưng trong văn học Phần Lan.[16] Chạy theo xu hướng nghệ thuật toàn châu Âu chống lại chủ nghĩa hiện thựcchủ nghĩa tự nhiên, thay vào đó tập trung coi thần thoại và cổ tích phổ quát là phản ánh cảm xúc và tư tưởng con người, Leino cũng tìm tư liệu để diễn giải thời đại mình thông qua Phần Lan cổ trong Kalevala.[17]

Nỗ lực này đạt đến đỉnh cao với tập thơ Helkavirsiä (Khúc ca địa ngục) xuất bản năm 1903, được coi là một trong những tác phẩm mang tính bước ngoặt của nền thơ ca Phần Lan. Áp dụng và biến đổi ngữ liệu Kalevala, Leino đã tạo ra những khúc balladtruyền thuyết theo phong cách cổ xưa, chủ đề và nhân vật thuộc thời Trung cổ Hämälä của Công giáo La Mã cũng như thế giới Đông La Mã-Karelia và Chính thống giáo-Kalevala.[18] Nhưng sâu xa nhất, các bài thơ đó nhắm đến những câu hỏi cơ bản của con người hiện đại: mối quan hệ mỗi cá nhân với cái chưa biết và cái chết, tự do cá nhân và giới hạn của tri thức.[19] Helkavirsiä được nhận xét là phản ánh "tính chất không khoan nhượng" dấu ấn của Ibsen và khả năng con người thách thức số phận chính mình dựa trên triết lý Nietzsche.[20] "Vòng xoáy dân gian và ngụ ngôn thô ráp" cũng kết nối với truyện thơ Simo Hurtta xuất bản năm 1904, được Leino dùng để mô tả những sự kiện trong Isoviha tại Bắc Karelia.[21]

Thời kỳ sáng tạo của Leino trong những năm đầu thế kỷ 20 được khơi nguồn từ tình yêu dành cho dịch giả Freya Schoultz, hai người kết hôn năm 1905.[22] Hai người có con gái là Eya Helka. Trong tập thơ Talviyö (Đêm đông) (1905) có bài Nocturne (Bóng đêm) tỏa ra vẻ thần bí của một đêm hè mà ông dành tặng cho người mình yêu. Sau chuyến đi dài ngày tới ParisBerlin, quan hệ vợ chồng bắt đầu nguội lạnh. Năm 1908, Leino dọn khỏi nhà chung ở Länsi Ranta (nay là Eteläranta 12). Cũng trong khoảng thời gian đó, ông dần có tình cảm với người bạn là nữ văn sĩ L. Onerva.[1]

Tiểu thuyết Routavuosi, kịch lịch sử, nhà phê bình trên Päivä[sửa | sửa mã nguồn]

Báo văn hóa Päivä xuất bản tại Helsinki năm 1907–1911

Sau cách mạng Nga 1905, Leino đã đưa những trải nghiệm sâu sắc về thời cuộc vào tác phẩm vẫn thường gọi là bộ tiểu thuyết năm băng giá: Tuomas Vitikka (1906), Jaana Rönty (1907) và Olli Suurpää (1908). Trong đó, như sự tiếp nối luận chiến trên báo, ông đã nhổ tận gốc những điểm yếu dân tộc, phân định ra các hạng người trong thời đại mình, như kẻ phản bội lý tưởng và kẻ nổi loạn không đâu, cuối cùng trở nên những kẻ vô chính phủ.[23] Trong tiểu thuyết Tuomas Vitikka, Leino chế nhạo chủ nghĩa dân tộc tự mãn và tạo ra tuyến nhân vật châm biếm từ đại diện các thế hệ khác nhau thuộc phong trào dân tộc Phần Lan, độc giả đương thời có thể dễ dàng nhận ra những con người tiêu biểu này.[24]

Niềm đam mê cháy bỏng của Leino đối với sân khấu tiếp tục cả trong cả những bài phê bình lẫn các vở kịch do chính mình sáng tác. Lấy hình mẫu August Strindberg mà bản thân ngưỡng mộ, Leino tập trung vào lịch sử Trung Cổ và thử nghiệm phát triển tinh thần dân gian Phần Lan trong các vở Lalli (1907) và Maunu Tavast (1908). Vở Simo Hurtta (1908) tiếp tục chủ đề bài thơ cùng tên xuất bản trước đó.[5]

Cuộc Đại đình công 1905, Cải cách hiến pháp 1906 và Bầu cử quốc hội đầu tiên 1907 đã làm trầm trọng thêm các xung đột chính trị xã hội và đẩy Đảng Người Phần Lan, những người thân Thụy Điển, những người theo chủ nghĩa xã hộiĐảng Người Phần Lan Trẻ vào cuộc đấu tranh dữ dội tranh giành ảnh hưởng. Quan hệ với Nga bước vào "thời kỳ băng giá". Đảng Người Phần Lan Trẻ cũng bị chia rẽ nội bộ giữa giai cấp tư sản bảo thủnhững người theo chủ nghĩa cải cách xã hội tự do cùng người ủng hộ phong trào lao động tư sản.[25] Giữa những rối ren này, Eino Leino từ bỏ vai trò nhà hoạt động chính trị cho Đảng Người Phần Lan Trẻ trên tờ Helsingin Sanomat. Ông thất vọng lo sợ rằng tờ báo sẽ không còn tự do độc lập giữa các âm mưu chính trị và mong muốn có trao đổi thảo luận văn hóa-tư tưởng về tương lai đất nước.[26]

Các bài báo nổi tiếng của Leino Aleksis Kivi ja Päivä (Aleksis Kivi và Päivä) (10 tháng 10 năm 1907), Runebergin päivän vietosta sananen (Đôi lời về kỷ niệm Ngày Runeberg) (13 tháng 2 năm 1908) và Hedelmättömyyen henki (Tinh thần khô héo) (1 tháng 12 năm 1908) xuất hiện trên tuần báo mới Päivä (Ngày). Tờ báo này kết hợp mạng lưới các nhà hoạt động nói tiếng Phần Lan và Thụy Điển và những người tự do cánh tả. Trong đó, ông tìm kiếm nguyên nhân mất đoàn kết dân tộc và đưa ra tuyên bố riêng mình về "người Phần Lan có văn hóa". Thay cho tinh thần Phần Lan được xây dựng trên RunebergSnellman, ông đã đào sâu dựa vào Aleksis Kivi và Elias Lönnrot. Leino dùng những bài báo này chỉ trích "nền giáo dục địa phương" tại trường học và "nỗi bi quan mòn mỏi" của đô thành văn minh. Ông nhìn coi kỷ niệm Ngày Runeberg là "cường điệu đánh trống bỏ dùi" và "trò vui thượng lưu".[27]

Chuyến đi Ý – Mùa Bohemia – Sunnuntai[sửa | sửa mã nguồn]

Onnen orja (1913), tập cuối trong loạt tiểu thuyết Orja của Leino

Tháng 8 năm 1908, Eino Leino rời Phần Lan đến Ý. Một phần kinh phí do quỹ quảng bá văn học Phần Lan tài trợ cho việc dịch thuật Thần khúc của Dante. Sau vài tháng ở Đức rồi đến Roma, Leino bắt đầu nghiên cứu chuyên sâu tiếng Ý và viết về Dante. Mùa đông năm 1908–1909, Leino tham gia cùng các tác gia Phần Lan khác đang ở lại Roma như L. Onerva, Aarni Kouta, Santeri Ivalo, Onni Okkonen, Liisi KarttunenHenry Biaudet. Ngoài việc dịch Dante ra tiếng Phần Lan, Leino cũng phác thảo các vở kịch ở Roma và viết du khảo cho tờ Turku Sanomat. MÙa xuân 1909, ông cùng Onerva rời Phần Lan, tạm dừng lại trên đường tới Berlin.[5] Dù hai người không tiến tới hôn nhân nhưng họ tiếp tục giữ tình bạn và hợp tác với nhau cho đến khi Leino qua đời.[1]

Thập niên 1910, hình ảnh Leino định hình như thế giới về sau biết đến: một người Bohemia mặc áo choàng đeo trang sức với những lọn tóc dài, một flâneur lang thang trong các nhà hàng cùng có mạng lưới xã hội rộng rãi . Năm 1914, Leino kết hôn với nghệ sĩ đàn hạc Aino Kajanus là con gái của Robert Kajanus, nhưng ngay năm sau đó, ông bỏ lại lối sống vạch sẵn như vậy.[1]

Trong thời kỳ này, Leino sáng tác rất năng suất, dường như chỉ luôn gia tăng. Bản dịch Thần khúc tiếng Phần Lan được xuất bản từ năm 1912 đến 1914, các tập thơ mới nối tiếp nhau. Sau chuyến đi Roma, Leino bắt đầu viết các tiểu luận lịch sử văn học, trong đó vạch ra hướng phát triển của văn học trong và ngoài nước, đồng thời giới thiệu đại diện các xu hướng văn học khác nhau. Ban đầu, Leino điều chỉnh chân dung các nhà văn Phần Lan làm "câu chuyện nền" Helsingin Sanomat cho tác phẩm Suomalaisias kirjailijaita (Nhà văn Phần Lan) (1909). Những phác thảo khéo léo về tinh thần và môi trường văn hóa các thời đại khác nhau, cũng như tóm lược phù hợp với đặc điểm từng nhà văn giúp cho tác phẩm trở thành một tiểu luận kinh điển của văn học Phần Lan.[28]

Leino tạo ra một lát cắt văn hóa và xã hội thời đại mình trong loạt tiểu thuyết Orja (1911–1913). Nhật vật chính trong đó kiếm ý nghĩa cuộc đời, trải từ Berlin đến Paris và qua Copenhagen đến Roma. Tiểu thuyết Pankkiherroja (1914) mô tả Helsinki của bọn cướp ngân hàng và lũ đầu cơ. Nội tâm và suy ngẫm số phận thi nhân được ẩn dụ trong chuyện về động vật Mesikämmen (1914), Musti (1916) và trong tác phẩm tự thú theo thông thiên học-thuyết phiếm thần Alla kasvon Kaikkivallan (Dưới nhan Đấng Toàn Năng) (1917).

Đầu thập niên 1910, Leino bận rộn với các công việc sân khấu và biểu diễn. Hè năm 1912, cùng với giám đốc nhà hát Kaarle Halme, ông thành lập sân khấu ngoài trời "Helkanäyttamö" ở Seurasaari dành cho các vở kịch Kalevala của mình. Tuy nhiên, hàng nghìn khán giả không nghe rõ lời thoại và chán chường vì thiếu vắng đạo cụ sân khấu hỗ trợ. Nỗ lực kết thúc trong thất bại.[5] Leino cũng thương mại hóa thơ mình để kiếm thêm thu nhập khi đi đọc thơ trên khắp đất nước. Ông liên tục sáng tác kịch bản mới: Tuomas biispa (1909) cũng bối cảnh trung cổ như nhiều vở trước đó, cibf Alcibiades (1909) là bi kịch với bối cảnh Hy La cổ đại. Kirkon vihollinen (Kẻ thù giáo hội) và Maan parhaat (Điều hay nhất của đất nước) (1911) chế nhạo thói đạo đức giả của lớp cựu trào Phần Lan lấy bối cảnh đương thời. Kịch nghị luận Karjalan kuningas (Vua Karelia) (1917) theo lăng kính Kalevala là hồi chuông cảnh tỉnh về lòng nhân hậu thuần khiết. Leino xuất bản gần như tất cả kịch bản trong loạt sáu phần Naamioita (1905–1911). Trong tập năm Naamioiden (1909), Shakkipeli (Ván cờ) đã thu gọn lịch sử xen giữa vào dòng kịch, có thể là do sở thích cá nhân của tác giả. Cả đời Eino Leino thích chơi cờ vua, thậm chí đứng đầu giải Câu lạc bộ cờ vua Helsinki tháng 2 năm 1906.[29]

Leino với Kaarle Halme sau đó tiếp tục hợp tác với nhau trong điện ảnh. Bộ phim truyện đầu tiên của Phần Lan Kesä (Mùa hè) do Leino viết kịch bản còn Halmee đạo diễn. Phim chiếu ra mắt tháng 1 năm 1915 tại nhà hát Lyyra, Helsinki.[30][31]

Một trang bản thảo Helkavirsiä tập 2

Năm 1915, Leino tham gia thành lập tuần báo văn học Sunnuntai (Chúa Nhật).[5] Leino đứng vai trò biên tập, bên cạnh nhóm trí thức, những người theo chủ nghĩa hòa bình và những người theo thuyết thông thiên học tại Helsinki. Nhờ vào mối quan hệ rộng rãi, Leino được nhiều nhà văn và nhà nghiên cứu nổi tiếng trợ giúp. Ông dùng bút danh "Kanttori Sepeteus" để than phiền về thời cuộc thế giới và viết xã luận sâu rộng về tình hình chính trị đương thời. Trong đó, ông cố gắng duy trì niềm tin vào con người giữa sự hỗn loạn của chiến tranh thế giới.[32]

Cuối năm 1916, sau những đêm bận rộn biên tập Sunnuntai, loạt Helkavirsiä thứ hai lên báo. Theo Viljo Tarkiainen, cái nhìn thơ ca về vũ trụ-thần thoại giờ đây bước sang "đôi khi dọc theo ngoại giáo - shaman giáo, đôi khi theo thuyết phiếm thần Cơ Đốc giáo, đôi khi là dòng mơ mộng thần học".[33] Loạt thơ này được diễn giải theo hướng lột tả vẻ gợi cảm và khêu gợi.[34] Cùng năm 1916, ông bắt đầu ngưỡng mộ và say mê Aino Kallas. Tình cảm dành cho nữ văn sĩ Estonia gốc Phần Lan đã cho ra đờiJuhana Herttuan ja Catharina Jagellonican lauluja (Khúc ca của Juhana Herttua và Catharina Jagellonica) (1919) sáng tác theo phong cách Phục Hưng. Lời đối thoại bằng thơ này lần đầu tiên ra mắt tại Turku rồi đến Gripsholm, được chính Leino gọi là món quà "lãng mạn cuối cùng" dành tặng người thương.[35] Eino Leino cũng đề cập số phận thi sĩ của chính mình trong bài thơ Bellerophon (1919) thông qua chuyện thần thoại Hy Lạp về Bellerophon và ngựa thần Pegasus để tổng hợp quan điểm bi thảm-lạc quan về cuộc sống.[36]

Năm 1918[sửa | sửa mã nguồn]

Chân dung Eino Leino do người bạn Akseli Gallen-Kallela vẽ năm 1917

Ngay từ tháng 11 năm 1917, Eino Leino đã căng thẳng cảnh báo trên tạp chí Sunnuntai rằng đất nước đang "bên bờ nội chiến " và chỉ trích gay gắt những người theo chủ nghĩa xã hội khi họ bắt đầu "theo đuổi sự nghiệp bằng máu nhân dân và nọc độc của lũ xâm lược ngoại bang" (Số 40-41/1917). Tình hình chính trị leo thang thành Nội chiến Phần Lan là trải nghiệm cay đắng đối với Leino, người vốn luôn viết về lòng khoan dung cũng như đánh giá cao phong trào lao động có nhiều bạn bè mình trong đó. Mùa xuân năm 1918, Leino chứng kiến Hồng vệ binh chiếm giữ Helsinki và mô tả cảm nhận của mình trong tiểu thuyết phóng sự Xâm chiếm Helsinki (tiếng Phần Lan: Helsingin valloitus) năm 1918. Ông đã chào đón Sư đoàn biển Baltic của Đức mang danh nghĩa giải phóng để xâm lược miền nam Phần Lan và chiếm đóng Helsinki. Mặt khác, Leino về sau thúc đẩy lệnh ân xá chung cho các tù nhân Đỏ[37] và yêu cầu bãi bỏ án tử hình.[38]

Tháng 4 năm 1918, loạt bài báo 6 kỳ của Leino "Vì công nhân Phần Lan" được đăng trên tạp chí Dân chủ Xã hội Työn valta ("Quyền lực Lao động"), với tư cách nhà văn vô tư thuộc tầng lớp "dân nghèo văn minh", ông kêu gọi mạnh mẽ cho hòa bình và hiểu biết lẫn nhau. Ông viết: "Nền dân chủ xã hội sẽ không có tương lai ở Phần Lan trừ khi có thể tiếp thu "những lý tưởng vĩnh cửu" về tính hợp pháp, dân chủtự do dân sự".[b] Theo chủ nghĩa Karelia, Leino cũng từng phục vụ trong chiến tranh với tư cách là cố vấn không chính thức cho Sulo Wuolijoki, thư ký ủy ban đàm phán hiệp ước nhà nước giữa Phần Lan và nước Nga Xô viết. Sau chiến tranh, Leino không bị kết tội vì phục vụ cho chính quyền Phái đoàn Nhân dân Phần Lan (tiếng Phần Lan: Suomen kansanvaltuuskunta).[39]

Leino cũng thuật lại nội chiến trong tiểu thuyết Punainen sankari (Anh hùng đỏ) (1919) và sử thi Vanha pappi (Giáo sĩ già) (1921). Nhân vật chính của Punainen sankari là một thẩm phán cộng sản, tự bỏ đi danh dự để bao che cho tên trùm nhưng cuối cùng phải trả giá bằng chính mạng sống bởi luật pháp cộng sản. Vanha pappi vẽ nên bức tranh rộng lớn khắc họa Tavastia có những giáo sĩ hoạt động ngầm, bị "lũ bất lương trên phố" "bọn thú vật ngoại ô" phe đỏ bắt bớ. Ông mô tả "sự hy sinh quên mình" của những người phe trắng theo phong cách Runeberg với những lý tưởng mạnh mẽ. Tập thơ "Vapaude kirja" (1918) tập hợp các bài theo chủ đề chính trị và đất nước do Leino sáng tác trong hai thập kỷ, trong đó phản ánh những cảm xúc mâu thuẫn do cuộc nội chiến tạo ra. Đối với nhà phê bình đương đại Huugo Jalkanen, tập thơ giống như "chiếc trống ma thuật" để các thế hệ tương lai có thể hình dung ngay lập tức về số phận và trải nghiệm kinh hoàng của tiền nhân.[40]

Tháng 7 năm 1918, bạn bè tổ chức bữa tối sinh nhật lần thứ 40 linh đình cho Leino.[41] Cùng năm, ông được Nhà nước tặng trợ cấp dành cho văn sĩ.[1]

Những năm cuối[sửa | sửa mã nguồn]

Cáo phó Leino trên tờ Suomen Kuvalehti ngày 16 tháng 1 năm 1926

Đầu thập niên 1920, sức khỏe và tinh thần Leino đều suy giảm, ông phải nằm viện dài ngày. Tâm trí chán nản dao động ảnh hưởng đến thái độ và quan điểm ông. Từ một người ủng hộ ứng cử viên tổng thống Carl Gustaf Emil Mannerheim, Leino quay sang ngưỡng mộ Kaarlo Juho Ståhlberg.

Hè 1921, Leino dự chuyến du bút tới Estonia do thân hữu Phần Lan-Estonia là Aino và Gustav Suits tổ chức. Với những đêm thơ, đọc thơ và chào mừng tại TartuTallinn, chuyến đi thành công tốt đẹp và Eino Leino được mọi nơi đón nhận như một thi sĩ nổi bật.[42] Sau chuyến đi, Leino ký giấy kết hôn lần thứ ba với nhân viên ngân hàng Hanna Laitinen, cuộc hôn nhân thực tế chỉ kéo dài vài ngày.[43] Năm 1921, Leino nộp đơn xin từ bỏ quốc tịch Phần Lan. Ông đã viết thư cho Tổng thống Phần Lan Kaarlo Juho Ståhlberg và người đứng đầu Estonia là Konstantin Päts để xin được làm công dân Estonia. Leino cảm thấy mệt mỏi vì thiếu tiền đồng thời bị chỉ trích.[44]

Năm 1925, Leino viết thư cho người bạn Bertel Gripenberg "Cuộc sống luôn là cuộc đấu tranh với những thế lực muôn đời".[45] Năm ấy, ông biên soạn cuốn hồi ký Elämäni kuvakirja. Ngôi nhà cuối cùng Leino thuê ở là Nuppulinna Hyvinkää (nay là Tuusula).[46]

Qua đời[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1926, ông qua đời ở tuổi 47 và rồi được an táng tại Nghĩa trang Hietaniemi ở Helsinki.[47] Là người nổi tiếng đương thời, nhà nước đã chi trả phí an táng đồng thời tổng thống Lauri Kristian Relander và các quan chức khác đến dự tang lễ.[5]

Hiện không chắc chắn về nguyên nhân cái chết của Eino Leino. Trong tác phẩm Mestari, nhà văn Hannu Mäkelä mô tả Leino qua đời vì bệnh tủy sống tiến triển và vôi hóa mạch máu khiến xuất huyết não, trước đó bệnh đã làm rối loạn chức năng vùng bụng. Theo Mäkelä, cả hai bác sĩ Wasastjerna và Lindén đều đã xác định nguyên nhân tử vong của Leino.[48] Nhưng bác sĩ tâm thần của Leino là Väinö Lindén lại dùng bút chì ghi chú bên lề cuốn tiểu sử của L. Onerva rằng ông qua đời vì bệnh giang mai.[44][49]

Phong cách văn chương và tầm quan trọng[sửa | sửa mã nguồn]

Phong cách biến đổi[sửa | sửa mã nguồn]

Leino được coi là người đầu tiên và người định hình quan trọng nhất cho chủ nghĩa lãng mạn dân tộc trong văn học Phần Lan.[50] Trên thực tế, Leino đã tự đặt ra thuật ngữ chủ nghĩa tân lãng mạn dân tộc để mô tả tác phẩm của những tài năng trẻ Phần Lan như nhà soạn nhạc Jean Sibelius, họa sĩ Akseli Gallen-Kallela và kiến trúc sư Eliel Saarinen.[51]

Phong cách của Leino đã phát triển trong suốt 35 năm sự nghiệp. Các tác phẩm đầu tiên kể cả tập thơ nổi tiếng Helkavirsiä (1903) đều có thể thấy ảnh hưởng của sử thi dân tộc Kalevala. Những năm cuối đời, ông trở lại với chủ nghĩa lãng mạn dân tộc.[50]

Ở giai đoạn giữa sự nghiệp, Leino dịch các tác phẩm kinh điển của văn học thế giới sang tiếng Phần Lan. Đồng thời, ông sáng tác trong nhiều thể loại: thơ, kịch, tiểu luận, phê bình và các tác phẩm báo chí khác. Các tác phẩm của ông trải rộng trên khung cảm xúc, từ tình yêu nồng nàn đến ghét đời và chỉ trích gay gắt.[50] Sau những biến cố năm 1908, sự u ám, cô đơn và thất vọng trong cuộc sống trở nên nổi bật trong tác phẩm.[52]

Động lực sáng tác bên trong của Leino bắt nguồn từ sự bất dung giữa chủ nghĩa anh hùng cá nhân tự cho mình là trung tâm và việc đón nhận tinh thần thời đại.[51]

Thành ngữ phổ biến[sửa | sửa mã nguồn]

Nhiều câu thơ của Leino đã được sử dụng như những thành ngữ Phần Lan phổ biến, ví dụ:[53]

  • Kell' onni on, se onnen kätkekön (câu mở đầu bài thơ Laulu onnensta), tạm dịch: Nếu gặp may, hãy giấu đi. Ngụ ý: Phải là người giản dị, không nên khoe khoang, nếu khoe khoang quá làm công chúng ganh tỵ.[54]
  • Ei paha ole kenkään ihminen, vaan toinen on heikompi toista (từ bài thơ Hymyilevä apollo), tạm dịch: Không ai xấu nhưng có người yếu hơn.
  • haihtuvi nuoruuskalliit on laulujen lunnaat (từ bài thơ Elegia), tạm dịch: tuổi xuân đang mấtchuộc lại khúc ca thật đắt
  • kansakunnan kaapin päällä (không rõ nguồn gốc, thường được gán cho Leino), tạm dịch: tủ áo quốc gia
  • syntymässä säikähtänyt (từ bài thơ Tumma), tạm dịch: giật mình chào đời
  • kyltyiri (từ bài thơ Kyltyiri)
  • eli vain syksystä jouluun (từ bài thơ cùng tên nói về tiểu thuyết gia Aleksis Kivi), tạm dịch: chỉ từ mùa thu đến Giáng Sinh.

Đặc điểm và đánh giá[sửa | sửa mã nguồn]

Tác phẩm của Leino luôn được đón nhận trái chiều cả trong giới học thuật và lẫn giới văn nghệ sĩ. Tài năng nhưng nhân cách đa đạng đã khơi dậy nhiều cảm xúc trong lòng độc giả đương thời. Đặc biệt là thế hệ nhà văn thập niên 1920 xa lánh tác phẩm của Leino dù vẫn ngưỡng mộ thời trẻ của ông. Ngay cả những người theo chủ nghĩa hiện đại khởi đầu sự nghiệp sau Thế chiến thứ hai cũng coi Leino đối lập với tác phẩm của họ. Sự coi thường của các tác giả đồng nghiệp dành cho Leino đã ảnh hưởng đến nhiều nhà nghiên cứu, và thực tế là Leino được nghiên cứu tương đối ít cho dù được nhiều giải thưởng, được nhà nước công nhận và trao tặng lương hưu.[1]

Tiểu sử chi tiết nhất về Leino được viết vào thập niên 1930 dưới ngòi bút người yêu và đồng nghiệp của ông là L. Onerva. Qua những trang giấy đầy kịch tính, Onerva cũng viết về đời mình.[1] Cuối năm 1953, Onerva viết trên tạp chí Kaltio:

Trong những tác phẩm vượt trội của Leino, chẳng hạn như vở kịch Maan parhaat (1911), có thể dễ dàng nhận ra những người từng là bạn nhưng hiện thời lại là kẻ thù văn chương, như các tác giả Maila TalvioV. A. Koskenniemi.[1] Họ cũng đáp trả lại, ví dụ như Koskenniemi viết cho biên tập viên tờ Iltalehti:

Trong lời tựa tuyển tập Lyriskt Urval dịch sang tiếng Thụy Điển năm 1931, nhà thơ Elmer Diktonius đã thử mô tả hai địa vị song hành đó của Leino trong văn hóa Phần Lan:

Trong lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh Leino tại Paltaniemi, nhà văn Erno Paasilinna phát biểu khẳng định tính bền vững của các tác phẩm phê bình văn hóa của Leino:

Nhà phê bình văn hóa của tờ Helsingin Sanomat Seppo Heikinheimo thậm chí còn liệt khả năng ngôn ngữ của Leino vào hàng tốt nhất thế giới:

Tuy vậy, trong vòng những thập niên sau đó, Leino vẫn không được đa số yêu thích, như Matti Klinge đã hạ thấp trong nhật ký của mình:

Mặt khác, những người làm sân khấu tân thời vẫn tìm ra những góc nhìn mới và kịch tính trong các tác phẩm của Leino. Chỉ đạo sân khấu Juha Hurme viết:

Thơ phổ nhạc[sửa | sửa mã nguồn]

Syystunmalma dựa trên thơ Leino của Toivo Kuula năm 1911

Thông tin đương thời cho rằng Leino không có khiếu thẩm mỹ âm nhạc, nhưng ông đã thể hiện nhịp điệu và tính nhạc một cách hoàn hảo qua ngôn ngữ thơ. Ông cũng rất giỏi phân tích các buổi hòa nhạc đã nghe.[61]

Những người phổ nhạc cho thơ Leino đầu tiên xuất sắc nhất chính là bạn bè ông: nhà soạn nhạc Toivo Kuula, Leevi MadetojaOskar Merikanto. Kuula phổ nhạc tổng cộng 22 bài thơ, trong đó nổi tiếng nhất là Virta venhettä vie (1906), tác phẩm đột phá Tuijoti tulehen kauan (xuất bản năm 1907), cantata Koolemattumuuen tovosa cho giọng nam trung, hợp xướng và dàn nhạc (1910), rồi Merenkylpijäneidot, Orja poikaImpi ja Pajarin poika (1911) đều dựa trên Helkavirsiä. Trong thơ Leino, Kuula tìm thấy âm thanh của những mảng màu tối lãng mạn đầy suy tư.[62]

Leevi Madetoja cũng bắt đầu sự nghiệp bằng thơ Leino; tác phẩm đầu tiên là Shakkipeliin (1910) viết cho dàn nhạc đã thu hút được sự chú ý.[63] Các bài hát hợp xướng năm phần đầy thách thức, như Iltatunnelma (1916) và Soita somer, helä sikta đã khẳng định vị trí trong làng hợp xướng Phần Lan. Đến thập niên 1940, ngay trước khi qua đời, Madetoja còn tiếp tục hoàn thành các tác phẩm dựa vào thơ Leino như Hän kulevi ö kikkien. So với Kuula và Madetoja, những khúc hát solo của Oskar Merikanno có giai điệu hay, mang âm hưởng dân gian hơn. Một số bài hát phổ thơ Leino được yêu thích nhất vẫn là dựa trên Hymyilevän Apollon: bản song ca Oi kiitos sa Luojani armollinen (1906) và bản hợp xướng O Misumatket stilln sen virren (1905).[64]

Erkki Melartin là nhà soạn nhạc thời kỳ đầu cho Leino. Năm 1906, ông viết nhạc cho vở Hiide miekka của Leino. Ngoài ra, ông còn phổ nhạc cho 12 bản solo, trong số đó có Trong số mười hai bản độc tấu Leino của anh ấy có Mirjamin laulut, Minä metsän polkua kuljenPäivän pojan (1903) dựa trên một vài khổ thơ Päivän laulu. Vở opera ngắn Väinämöinen kosinta (1914) của nhà soạn nhạc Sune Carlsson cũng dựa trên thơ Leino. Trong số ít tác phẩm phổ thơ của Jean Sibelius thì được biết đến nhiều nhất là Maan virsi, cantata dành cho dàn hợp xướng và dàn nhạc giao hưởng ra đời năm 1920.[65]

Trong những thập kỷ đầu tiên của Phần Lan độc lập, đã có thêm thơ Leino được phổ theo phong cách hiện đại, như Ukri (1938–1943) được Aarre Merikkanno soạn cho hợp xướng nam ban và vở opera Simo Hurtta (1948) của Tauno Pylkkänen (1948).[66] Trong số các bản tình ca nổi bật có Tumma (1941) của Lauri Parviainen soạn cho đơn ca với nhạc đệm dương cầm.[67]

Thập niên 1960, Kaj Chydenius đã khiến cho nhiều bài thơ nổi tiếng của Leino lại trở nên sống động theo một cách hoàn toàn mới. Những giai điệu tinh tế đầy cảm xúc của Nocturne, Lappi kesäLemminkäisen äidin kehtolaulun lôi cuốn thế hệ thanh niên thời ấy. Bài hát Lemminkäisen äidin kehtolaulun cũng được sân khấu sinh viên Ylioppilasteatteri đưa vào nhạc kịch theo kịch thơ Tuonela joutsen (1966) của Leino.[68] Từ đó, Chydenius cũng sáng tác và phổ biến thêm nhiều tác phẩm dựa trên thơ Leino.[67]

Năm 1978, kỷ niệm 100 năm ngày sinh Leino, các bài hát phổ thơ được phát hành dưới dạng bản ghi âm.[5][67]

Jukka Ruohomäki sáng tác nhạc điện tử dựa trên Helkavirsiä cho phim hoạt họa máy tính ba phần (1979–1982) do Antti Kari đạo diễn.[69] Nhà soạn nhạc gốc Áo Johann Strohofer cũng dựa vào Helkavirsiä để cho ra đời oratorio Herramme Vapahtajamme ra mắt lần đầu năm 1975. Năm 1980, vở opera của Ilkka Kuusisto dựa trên kịch Sota valosta của Leino được công diễn lần đầu.[5]

Sang thế kỷ 21, Helkavirsiä tiếp tục duy trì là nguồn cảm hứng âm nhạc. Tháng 2 năm 2012, dàn nhạc giao hưởng Tampere trình diễn lần đầu bản giao hưởng số 1 Tuuri của Olli Mustonen viết cho giọng nam trung và dàn nhạc, dựa trên bài thơ Tuuri nằm trong loạt Helkavirsiä đầu tiên.[70] Năm 2007, Kaija Saariaho phổ nhạc bốn bài thơ thời kỳ đầu của Leino để đưa vào Leino Songs for voice and Orchestra. Trước đó vào năm 2006, công ty Hà Lan Munich Records phát hành CD Aina Leino, do ban nhạc Hà Lan Aina cùng với nghệ sĩ độc tấu Phần Lan Pauliina May trình diễn. Album có 14 bài lấy từ thơ Leino, do nhạc sĩ Hà Lan Izak Boom biên soạn.[71]

Kỷ niệm[sửa | sửa mã nguồn]

Đài tưởng niệm[sửa | sửa mã nguồn]

Bảng tưởng niệm trên tường nhà Leino ở Roma bên bờ sông Tiber, nơi ông dịch Thần khúc của Dante.

Năm 1992, sinh nhật Leino vào ngày 6 tháng 7 được gọi là Ngày Eino Leino, thi ca và chào hạ; đồng thời trở thành ngày treo quốc kỳ của Phần Lan.[1]

Công viên Esplanadi ở Helsinkitượng Eino Leino do Lauri Leppänen điêu khắc. Bức tượng ra mắt ngày 26 tháng 9 năm 1953, đúng 63 năm khi Leino xuất bản bài thơ đầu tiên trên tờ Hämeen Sanomi.[72] Trên đế tượng có khắc câu thơ trích trong bài Väinämöisen laulu của Leino: Yksi on laulu ylitse muiden: ihmisen aattehen hengen ankara laulu (tạm dịch: Một là khúc ca trên phần còn lại: bài ca khó nghe của tâm hồn con người). Một điều thú vị là trong bàn tay bức tượng có đồng xu 5 Mác được đặt vào khi đúc.[73]

Năm 1978, kỷ niệm 100 năm ngày sinh Leino, Jouko Toiviainen thiết kế đài tưởng niệm trừu tượng Ukonlintu ja virvaliekki tại nơi sinh của ông tại Paltamo. Dưới bệ là câu thơ trích từ Väinämöisen laulusta: Kansat katoo / ei katoa mahti / jonka on laulanut / mahtaja heimonsa hengen (tạm dịch: Các nước tiêu vong / sức mạnh còn lại / được cất tiếng ca / từ người mang linh hồn bộ tộc).[72] Năm 1980, tại Kajaani đã dựng tượng Leino nằm gần Koivukoski ở Rantapuisto, tác phẩm điêu khắc do Nina Sailo thực hiện dựa trên phác thảo của người chồng là Alpo Sailo.[74] Năm 1978, ngôi nhà cũ vốn bị phá hủy của Leino tại Hövelö ở Paltaniemi đã được phục dựng.[75]

Mộ Leino có mã số U21-15-22 nằm trong khu vực mới tại nghĩa trang Hietaniemi, Helsinki.[76] Bia mộ có khắc huy chương do Ville Vallgren thực hiện.[72] Hội nhà văn Phần Lan dựng đài tưởng niệm mộ phần và chịu trách nhiệm giữ mộ.[77] Trên bia mộ cũng khắc khổ thơ cuối bài Hymni tulelle của Leino.

Nơi Leino từng sống[sửa | sửa mã nguồn]

Trên điện ảnh và truyền hình[sửa | sửa mã nguồn]

Tem bưu chính Phần Lan năm 1978 khắc họa Eino Leino

Năm 1978, đạo diễn Jaakko Pakkasvirta hoàn thành bộ phim Runoilija ja musa (tạm dịch: Nhà thơ và nàng thơ) kể về cuộc đời Leino nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông. Đoạn mở đầu cho biết "tất cả cảnh phim đều là hư cấu, mặc dù được lấy cảm hứng từ các sự kiện có thật". Esko Salminen vào vai Eino Leino. Phim tập trung miêu tả mối quan hệ của Leino với người vợ đầu Freya Schoultz (do Katja Salminen đóng) và người tình L. Onerva (do Elina Salo đóng). Đồng thời, bộ phim mô tả phong trào dân tộc chủ nghĩa của giới văn hóa Phần Lan trước khi độc lập, với những nghệ sĩ như Akseli Gallen-Kallela và Jean Sibelius.[78]

Ngoài Esko Salminen, vai Eino còn được thể hiện bởi các diễn viên như Leo Riuttu trong phim Rousu ja kulkuri (tạm dịch: Bông hồng và kẻ lang thang) của Ilmari Unho năm 1948,[79] Kari Hietalahti trong phim Sibelius của Timo Koivusalo năm 2003[80]Vesa-Matti Loiri trong phim truyền hình Tähtikeinu của Veli-Matti Saikkonen năm 2003 khắc họa cuộc tình tay ba Eino, L. Onerva và Leevi Madetoja.[81]

Năm 1993, Sulevi Peltola đạo diễn và cùng Helena Ihala viết kịch bản phim truyền hình Pankkiherroja dựa trên tiểu thuyết cùng tên của Eino. Matti Pellonpää thủ vai chính Antti Puuhaara.[82]

Tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Thơ[sửa | sửa mã nguồn]

  • Maaliskuun lauluja, Otava, 1896
  • Tarina suuresta tammesta y.m. runoja, WSOY, 1896
  • Yökehrääjä, Otava, 1897
  • Sata ja yksi laulua, Otava, 1898
  • Tuonelan joutsen, näytelmäruno, Otava, 1898
  • Ajan aalloilta, WSOY, 1899
  • Kuvaelmia muinaisajoilta, viết cùng với Jalmari Finne từ lễ kỷ niệm Ngày Báo chí tháng 11 năm 1899, được xuất bản lần đầu trên Helsingin Sanomat ngày 23 tháng 12 năm 1984
  • Hiihtäjän virsiä, Otava, 1900
  • Kivesjärviläiset, thơ tự sự, Otava, 1901
  • Pyhä kevät, Otava, 1901
  • Kangastuksia, Otava, 1902
  • Helkavirsiä, Otava, 1903
  • Simo Hurtta. Runoja isonvihan ajoilta, Otava, 1904
  • Talvi-yö, Otava, 1905
  • Turjan loihtu, thơ kịch, Emil Vainio, 1907
  • Halla, Otava, 1908
  • Tähtitarha, Kirja, 1912
  • Painuva päivä, Kirja, 1914
  • Elämän koreus, Kirja, 1915
  • Helkavirsiä. Toinen sarja. Otava, 1916
  • Karjalan kuningas, thơ kịch, Kirja, 1917
  • Leirivalkeat, Kirja, 1917
  • Vapauden kirja, tuyển thơ, Kirja, 1918
  • Bellerophon, truyện thơ, Ahjo, 1919
  • Juhana Herttuan ja Catharina Jagellonican lauluja. Nil nisi mors, Ahjo, 1919
  • Lemmen lauluja, tuyển thơ, Kirja, 1919
  • Simo Hurtta. Runoja isonvihan ajoilta, toinen sarja, Otava, 1919
  • Ajatar. Tietovirsiä, Otava, 1920
  • Kodin kukka ja uhrikuusi, truyện thơ, Ahjo, 1920
  • Syreenien kukkiessa, Minerva, 1920
  • Vanha pappi, thơ tự sự, Otava, 1921
  • Pajarin poika. Truyên dân gian Karelia. Otava, 1922
  • Puolan paanit. Truyên dân gian Karelia, Otava, 1922
  • Helkavirsiä 1–2, in chung, Otava, 1924
  • Shemeikan murhe. Thơ mới, Gummerus, 1924

Truyện[sửa | sửa mã nguồn]

  • Päiväperhoja. Tập truyện ngắn, Eero Erkko, 1903
  • Kaunosielu. Phóng sự, Otava, 1904
  • Päivä Helsingissä. Châm biếm, Otava, 1905
  • Tuomas Vitikka. Tiểu thuyết, Otava, 1906
  • Jaana Rönty. Tiểu thuyết, Otava, 1907
  • Olli Suurpää. Tiểu thuyết, Otava, 1908
  • Rikos. Nghiên cứu. Bài viết nhiều kỳ trên Helsingin Sanomat mùa xuân 1908, tái bản: Eino Leinon Seura, 1949
  • Nuori nainen. Bốn truyện, Yrjö Weilin, 1910
  • Työn orja. Tiểu thuyết, Yrjö Weilin, 1911
  • Rahan orja. Tiểu thuyết, Yrjö Weilin, 1912
  • Naisen orja. Tiểu thuyết, Kirja, 1913
  • Onnen orja. Tiểu thuyết, Kirja, 1913
  • Seikkailijatar. Truyện Nga, Karisto, 1913
  • Mesikämmen. Truyện Giáng Sinh, Kirja, 1914
  • Pankkiherroja. Phóng sự đời sống Phần Lan hiện đại, Kirja, 1914
  • Paavo Kontio. Lakitieteen tohtori. Tiểu thuyết, Kirja, 1915
  • Musti. Truyện đồng thoại, Karisto, 1916
  • Alla kasvon kaikkivallan. Suy nghĩ, cái nhìn và bộc lộ của trẻ em đương thời, Karisto, 1917
  • Ahven ja kultakalat. Truyện suy ngẫm, Ahjo, 1918
  • Elina. Tường thuật tuổi mới lớn, Minerva, 1919 (Tái bản lần 2 với tựa đề Punainen sankari)
  • Kolme lähti, kaksi palasi. Truyện về luật cấm của Phần Lan, Minerva, 1926

Kịch[sửa | sửa mã nguồn]

  • Johan Wilhelm, Wesanderin kirjakauppa, 1900
  • Sota valosta, Otava, 1900
  • Naamioita I: Väinämöisen kosinta, Hiiden miekka, Pentti Pääkkönen, Lydian kuningas, Meiram, kịch, Otava, 1905
  • Naamioita II: Melankolia, Lalli, Niniven lapset, kịch, Otava, 1907
  • Naamioita III: Maunu Tavast, Simo Hurtta, Ritari Klaus, kịch, Vihtori Kosonen, 1908
  • Naamioita IV: Carinus, Alkibiades, kịch, Vihtori Kosonen, 1909
  • Naamioita V: Tuomas piispa, Tarquinus Superbus, Shakkipeli, kịch, Vihtori Kosonen, 1909
  • Naamioita VI: Kirkon vihollinen, Maan parhaat, Ilotulitus, kịch, Yrjö Weilin, 1911
  • Kalevala näyttämöllä, kịch, Yrjö Weilin, 1911

Phi hư cấu[sửa | sửa mã nguồn]

Kịch bản phim[sửa | sửa mã nguồn]

Dịch[sửa | sửa mã nguồn]

  • Topelius, Zacharias, Draamalliset teokset: Regina von Emmeritz (Werner Söderström 1899–1901)
  • Topelius, Zacharias, Draamalliset teokset: Kypron prinsessa (Werner Söderström 1901)
  • Runeberg, Johan Ludvig, Teokset II: Nadeshda, Kuningas Fjalar (Werner Söderström 1903)
  • Racine, Phaidra (Helsinki 1907) (nguyên tác: Phèdre)
  • Schiller, Friedrich von, Wilhelm Tell (Otava 1907)
  • France, Anatole, Kuningatar Hanhenjalan ravintola (Yrjö Weilin 1910) (nguyên tác: La Rôtisserie de la reine Pédauque)
  • Goethe, Johan Wolfgang von, Iphigeneia Tauriissa. Suomalaisen kirjallisuuden seuran toim. 111 (SKS 1910) (nguyên tác: Iphigenie auf Tauris)
  • Dante, Jumalainen näytelmä 1–3 (Werner Söderström 1912–1914) (nguyên tác: Divina Commedia)
  • Tagore, Rabindranath, Puutarhuri (Kirja 1913) (nguyên tác: The Gardener)
  • Corneille, Cid (Werner Söderström 1917) (nguyên tác: Le Cid)
  • Tagore, Rabindranath, Uhrilauluja (Kirja 1917) (nguyên tác: Gitanjali)
  • France, Anatole, Apotti Coignardin ajatuksia. Poiminut hänen uskollinen oppilaansa Jacobus Paistinkääntäjä (Minerva 1920) (nguyên tác: Les Opinions de Jérôme Coignard)

Tuyển tập và in lại[sửa | sửa mã nguồn]

  • Kootut teokset. 1–16, Otava 1926–1930
  • Elämän laulu. Tuyển tập thơ. V. Tarkiainen tổng hợp và bình giải, Otava 1947
  • Kirjokeppi. Tuyển tập những bài thơ không nằm trong tuyển tập gốc. Aarre Peltonen và Eino Kauppinen biên tập và bình giải, Otava 1949
  • Runot. 1, 1887–1897. Aarre M. Peltonen hiệu đính và phê bình, Otava 1961
  • Runot. 2, 1897–1901. Aarre M. Peltonen hiệu đính và phê bình, Otava 1962
  • Runot. 3, 1901–1908. Aarre M. Peltonen hiệu đính và phê bình, Otava 1964
  • Runot. 4, 1908–1915. Aarre M. Peltonen hiệu đính và phê bình, Otava 1968
  • Eino Leinon runot ja runosuomennokset koottujen teosten ulkopuolelta 1915–1920 . (Bao gồm: Aarre M. Peltonen: Eino Leinon runojen syntyajat ja toisinnot 1915–1920. Tekstikriittinen tutkimus). Tập số 9. Đại học Tampere, Văn học trong nước. 1977
  • Eino Leinon runot ja runosuomennokset koottujen teosten ulkopuolelta 1920-1926 . (Bao gồm: Aarre M. Peltonen: Eino Leinon runojen syntyajat ja toisinnot 1920–1926. Tekstikriittinen tutkimus). Tập số 9. Đại học Tampere, Văn học trong nước. 1977
  • Eino Leino – Elämän kirja. Tuyển tập. Hannu Mäkelä biên tập, Otava 1980
  • Eino Leino. Kodin suuret klassikot 1–4, Weilin+Göös 1986–1990
  • Kirjeet Freya Schoultzille ja omaisille. Kirjeet I. Aarre M. Peltonen biên tập, Otava 1961
  • Kirjeet L. Onervalle. Kirjeet II. Aarre M. Peltonen biên tập, Otava 1960
  • Kirjeet taiteilijatovereille, arvostelijoille ja tutkijoille. Kirjeet III. Aarre M. Peltonen biên tập, Otava 1961
  • Kirjeet Aino Kallakselle, ystäville ja yhteisöille. Kirjeet IV. Aarre M. Peltonen biên tập, Otava 1962
  • Muistelmat. Kulttuurikuvat. Tunnustukset I. 1878–1901. Aarre M. Peltonen biên tập, Otava 1965
  • Pakinat I–II. Aarre M. Peltonen biên tập, Otava 1960

Bản dịch các tác phẩm Leino[sửa | sửa mã nguồn]

Tiếng Thụy Điển[sửa | sửa mã nguồn]

  • Eino Leino, Lyriskt urval. Elmer Diktonius tổng hợp và biên dịch, Söderström 1931
  • Finsk lyrik II. Rafael Lindqvist dịch và giới thiệu, Blinkfyrens förlag 1932. Gồm 26 bài thơ dịch, như Elegi, Lapp-sommar, NocturneLänge såg jag in i elden.
  • Eino Leino, Helkasånger. Thomas Warburton dịch, Schildt 1963
  • Eino Leino, Inför allmaktens anlete. En mystisk trilogi – tankar tänkta, bekännelser gjorda, fjärrsyner sedda av ett tidens barn. Nils-Börje Stormbom dịch. Sahlgren 1991.

Ngôn ngữ khác[sửa | sửa mã nguồn]

Tác phẩm của Leino cũng đã được dịch sang tiếng Anh, tiếng Ý, tiếng Latvia, tiếng Na Uy, tiếng Ba Lan, tiếng Thụy Điển, tiếng Đức, tiếng Hungary, tiếng Nga và tiếng Estonia.[83]

Một số bài thơ lẻ của Leino được dịch sang tiếng Việt và đăng trên tạp chí Văn học nước ngoài:

Nguyên tác khổ 1 của Lapin kesä[84]
Lapissa kaikki kukkii nopeasti,
maa, ruoho, ohra, vaivaiskoivutkin.
Tuot' olen aatellut ma useasti,
kun katson kansan tämän vaiheisiin.

Bản dịch Mùa hè đất Láp của Bùi Việt Hoa, Ngô Thế Oanh[85]
Đất Láp vạn vật đều nở hoa nhanh
Cỏ dại, lúa mì, cả cây bạch dương gầy nhỏ
Tôi vẫn thường nghĩ suy điều đó
Khi nghĩ về số phận dân tôi

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Bản thân Leino cũng mô tả sự phát triển với tư cách nhà thơ trong Eräs tilinteko liên hệ với tập thơ Elämän koreus năm 1903.
  2. ^ Loạt bài "Vì công nhân Phần Lan" đã được tái bản trong Phần XVI của Tuyển tập Leino.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o Nevala 2003, tr. 34–38.
  2. ^ Suutari, Tiina (16 tháng 3 năm 2021). “Kotiseutuna Kajaani: Maanjäristys tuhosi ensimmäisen kirkon Paltaniemellä – Kirkkoaholla on toiminut erikoinen eläintarha” [Quê nhà Kajaani: Trận động đất phá hủy nhà thờ đầu tiên ở Paltaniemi - Kirkkoaho có một sở thú đặc biệt]. Kainuun Sanomat (bằng tiếng Phần Lan). Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2022.
  3. ^ “Paltaniemi, synnyinseutu” [Paltaniemi, nơi sinh] (bằng tiếng Phần Lan). Kainuun Eino Leino -seura ry. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2023.
  4. ^ Heikkinen, Reijo (14 tháng 7 năm 2009). “Paltaniemen monitaitoisen patriarkan, Eino Leinon isän elämänvaiheet” [Giai đoạn cuộc đời cha của tộc trưởng đa tài Paltaniemi, Eino Leino]. Agricola – Suomen humanistiverkko (bằng tiếng Phần Lan). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2021.
  5. ^ a b c d e f g h i “Eino Leino -kronologia 1852-2021” [Eino Leino -niên biểu 1852-2021] (bằng tiếng Phần Lan). Kainuun Eino Leino -seura ry. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2023.
  6. ^ “Hövelö ennen ja nyt” [Hövelö ngày ấy bây giờ], Eino Leino -talo (bằng tiếng Phần Lan), Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2018
  7. ^ Peltonen 1975, tr. 9–13.
  8. ^ a b Heikkinen 2003, tr. 39–85.
  9. ^ Turpeinen 2008, tr. 132.
  10. ^ Häme Sanomat 1890, tr. 3.
  11. ^ Onerva 1932, tr. 243–260.
  12. ^ Nykyajassa 1897, tr. 1.
  13. ^ “Eino Leino” (bằng tiếng Phần Lan). Kainuun Eino Leino -seura ry. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2023.
  14. ^ Peltonen 1978, tr. 73–88.
  15. ^ Leino 1980, tr. 21.
  16. ^ Lyytikäinen 1999, tr. VIII–XIII.
  17. ^ Lyytikäinen 2000, tr. VIII–IX.
  18. ^ Leino 1980, tr. 23.
  19. ^ Leino 1986, tr. 20–21.
  20. ^ Ervasti 1960, tr. 82–86.
  21. ^ Onerva 1932, tr. 268.
  22. ^ Hämeen Sanomat 1905, tr. 2.
  23. ^ Siltala 1999, tr. 622–628, 676–688.
  24. ^ Riikonen 2012, tr. 106–109.
  25. ^ Larmola 1990, tr. 22–47.
  26. ^ Larmola 1990, tr. 305–313.
  27. ^ Eino Leino. “Runeberg-päivän vietosta sananen” [Đôi lời về kỷ niệm Ngày Runeberg] (bằng tiếng Phần Lan). Kainuun Eino Leino -seura. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2023.
  28. ^ Laitinen 1984, tr. 245–253.
  29. ^ Palamaa, Pekka. “Shakkia kolmella vuosisadalla, Helsingin Shakkiklubi 120-vuotta” [Ba thế kỷ cờ vua, câu lạc bộ cờ vua Helsinki 120 năm] (bằng tiếng Phần Lan). Helsingin Shakkiklubi. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2023.
  30. ^ Saarikoski, Jaakko (1948). “Eino Leino elokuvamiehenä” [Eino Leino trong vai trò nhà làm phim]. Seura (bằng tiếng Phần Lan) (29–30).
  31. ^ Salmi, Hannu (1998), “Kaunis alku kotimaiselle teollisuudelle” [Khởi đầu đẹp cho ngành công nghiệp quốc nội], Wider Screen (bằng tiếng Phần Lan), lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 7 năm 2023, truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2023
  32. ^ Onerva 1932, tr. 185–192.
  33. ^ Tarkiainen 1947, tr. 356.
  34. ^ Koskimies 1965, tr. 399–404.
  35. ^ Leino 1980, tr. 30.
  36. ^ Oksala 1986, tr. 176.
  37. ^ Suomen työmies, 3 tháng 11 năm 1920.
  38. ^ Työn valta, 29 tháng 10 năm 1918.
  39. ^ Tuomioja 2006, tr. 102–104.
  40. ^ Jalkanen 1919, tr. 123–127.
  41. ^ Onerva 1932, tr. 236–238.
  42. ^ “Eino Leino”. Estofilia (bằng tiếng Estonia). Tallinn: Suomen suurlähetystö. 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2023.
  43. ^ Mäkelä, Hannu. “Eino Leinon elämä” [Cuộc đời Eino Leino] (bằng tiếng Phần Lan). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2021.
  44. ^ a b “Tätä et tiennyt Eino Leinosta: rakkausfriikki halusi virolaiseksi ja kuoli syfilikseen” [Điều chưa biết về Eino Leino: kẻ cuồng yêu muốn trở thành người Estonia và chết vì bệnh giang mai]. YLE (bằng tiếng Phần Lan). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2023.
  45. ^ Liukkonen, Petri. “Eino Leino”. Books and Writers. Finland: Kuusankoski Public Library. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2007.
  46. ^ Tuusula 2014, tr. 92-93.
  47. ^ “Hietaniemen hautausmaa– merkittäviä vainajia” [Nghĩa trang Hietaniemi – những người nổi tiếng nằm lại] (PDF) (bằng tiếng Phần Lan). Kirkko Helsingissä. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 28 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2023.
  48. ^ “Leinon kuolemasta maansuru” [Tôi đau buồn vì Leino qua đời]. Kaleva (bằng tiếng Phần Lan). Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2023.
  49. ^ Hautala, Harri (19 tháng 4 năm 2017). “Arvoitus ratkesi: Panu Rajala paljastaa uudessa kirjassaan runoilija Eino Leinon karun kuolinsyyn” [Câu đố đã có lời giải: Panu Rajala tiết lộ nguyên nhân cái chết nhà thơ Eino Leino trong cuốn sách mới]. Aamulehti (bằng tiếng Phần Lan). Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2023.
  50. ^ a b c Sjöblom, Tomas. “Eight times state prizewinner” [Người thắng giải nhà nước 8 lần]. 375 humanists (bằng tiếng Anh). Helsinki University. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2023.
  51. ^ a b Greene và đồng nghiệp 2012, tr. 489.
  52. ^ “Leino Eino”. Sininen laulu – Suomen taiteiden arina (bằng tiếng Phần Lan). Yle. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2023.
  53. ^ Uusi-Hallila & Helttunen 2016, tr. 53–55, 63, 81, 175–178.
  54. ^ “Các câu tục ngữ của người Phần Lan”, Hội Tiếng Nói Chung, 12 tháng 1 năm 2023, lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 1 năm 2023, truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2023
  55. ^ L. Onerva (1953). “Eino Leino ja hänen runoutensa” [Eino Leino và thơ]. Kaltio (bằng tiếng Phần Lan) (3/4).
  56. ^ Leino, Eino (1931), Lyriskt Urval (bằng tiếng Thụy Điển), Elmer Diktonius biên dịch, Helsingfors
  57. ^ Paasilinna 1986, tr. 392–399.
  58. ^ Heikinheimo 1997, tr. 162.
  59. ^ Klinge 2002, tr. 9.
  60. ^ Hurme 2014, tr. 137.
  61. ^ Peltonen 1978, tr. 57.
  62. ^ Salmenhaara 1996, tr. 252–265; 427–429.
  63. ^ Salmenhaara 1996, tr. 187; 429–434.
  64. ^ “Oi muistatko vielä sen virren” [Ôi, bạn còn nhớ câu đó không?]. Anekdootteja Leinosta (bằng tiếng Phần Lan). Kainuun Eino Leino -seura. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2023.
  65. ^ “Maan virsi, Op.95 (Sibelius, Jean)”. IMSLP (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2023.
  66. ^ “Simo Hurtta”. Music Finland (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2023.
  67. ^ a b c “Leinon runojen sävellykset” [Âm nhạc phổ thơ Leino]. Kainuun Eino Leino -seura. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2023.
  68. ^ “Kuka” (bằng tiếng Phần Lan). Kaj Chydenius. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2023.
  69. ^ “Mennyt Manner”, Elonet (bằng tiếng Phần Lan), lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 4 năm 2022
  70. ^ Kallionpää, Katri (20 tháng 1 năm 2012). “Olli Mustosen Tuuri-sinfonia sai alkunsa synnytyslaitoksella” [Bản giao hưởng Tuuri của Olli Mustonen bắt đầu trong bệnh viện phụ sản]. Helsingin Sanomat (bằng tiếng Phần Lan). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2023.
  71. ^ “Aina in Press”, Pauliina May (bằng tiếng Anh), Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 1 năm 2009
  72. ^ a b c “Muistomerkit” [Đài tưởng niệm], Kainuun Eino Leino seura ry (bằng tiếng Phần Lan), lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 7 năm 2023, truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2023
  73. ^ “Eino Leinon patsas” [Tượng Eino Leino] (bằng tiếng Phần Lan). Helsingin kaupungin taidemuseo. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2015.
  74. ^ “Eino Leinon patsas” [Tượng Eino Leino] (bằng tiếng Phần Lan). Kajaanin kaupunki. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2015.
  75. ^ “Eino Leino -talo” [Nhà Eino Leino] (bằng tiếng Phần Lan). Kainuun Eino Leino -seura. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2015.
  76. ^ “Hietaniemen hautausmaan merkkihenkilöiden hautoja” [Mộ người nổi tiếng tại nghĩa trang Hietaniemi] (PDF), Helsingin seurakunnat (bằng tiếng Phần Lan), Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 5 tháng 7 năm 2016
  77. ^ Muistomerkkejä ja hautoja [Đài tưởng niệm và mộ phần] (bằng tiếng Phần Lan), Suomen Kirjailijaliitto, Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 8 năm 2012
  78. ^ Mervi Pantti. “Kun eräs aikakausi päättyi – Runoilija ja muusa, Tulipää sekä Pedon merkki kansallisen elokuvan rakentajina” [Khi thời đại kết thúc – Runoilija ja muusa, TulipääPedon merkki làm nền móng điện ảnh quốc gia]. Suomen kansallisfilmografia (bằng tiếng Phần Lan). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2023.
  79. ^ “Ruusu ja kulkuri”, Elonet (bằng tiếng Anh), lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 1 năm 2023, truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2023
  80. ^ “Sibelius”, Elonet (bằng tiếng Anh), lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 5 năm 2023, truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2023
  81. ^ Reijo Perälä; Sirpa Jegorow. “Tähtikeinu on elokuva kahden taiteilijan välisestä elämänmittaisesta rakkaudesta” [Tähtikeinu là phim về tình yêu trọn đời giữa hai nghệ sĩ]. Yle Elävä Arkisto (bằng tiếng Phần Lan). Yleisradio. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2023.
  82. ^ “Pankkiherroja”, Elonet (bằng tiếng Phần Lan), lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 4 năm 2022, truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2023
  83. ^ “Käännökset Leinon tuotannosta” [Bản dịch các tác phẩm Leino], Kainuun Eino Leino -seura (bằng tiếng Phần Lan), lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 7 năm 2023, truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2023
  84. ^ “Lapin kesä” [Mùa hè đất Láp], Kainuun Eino Leino -seura (bằng tiếng Phần Lan), lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 3 năm 2023, truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2023
  85. ^ “Chuyên đề văn học Phần Lan”. Văn học nước ngoài. Hội Nhà Văn Việt Nam (6). 1997.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Greene, Roland; Cushman, Stephen; Cavanagh, Clare; Ramazani, Jahan; Rouzer, Paul; Feinsod, Harris; Marno, David; Slessarev, Alexandra biên tập (2012), The Princeton Encyclopedia of Poetry and Poetics [Bách khoa thơ ca Princeton] (bằng tiếng Anh), Princeton University Press, ISBN 9780691154916
  • Heikinheimo, Seppo (1997), Mätämunan muistelmat [Hồi ký bốc mùi] (bằng tiếng Phần Lan), Otava, ISBN 951-1-14997-0
  • Heikkinen, Reijo (2003), “Aavoja ja vaaroja: Eino Leino ja kotiseutu” [Những địa điểm hoang dã và nguy hiểm: Eino Leino và quê hương], Lönnrot-instituutin julkaisuja n:o 8 (bằng tiếng Phần Lan), Kajaani: Lönnrot-instituutti, ISBN 952-5492-01-X
  • Hurme, Juha (2014), Nyljetyt ajatukset [Suy nghĩ da diết] (bằng tiếng Phần Lan) (ấn bản 2), Kustannusosakeyhtiö Teos, ISBN 9789518515701
  • Jalkanen, Huugo (1919), Esseitä ja arvosteluja [Luật và đánh giá] (bằng tiếng Phần Lan), Hämeenlinna: Arvi A. Karisto Osakeyhtiö
  • Koskimies, Rafael (1965), “Eino Leino”, Suomen kirjallisuus IV [Văn học Phần Lan IV] (bằng tiếng Phần Lan), Suomalaisen kirjallisuuden seura/Otava, tr. 326–428
  • Laitinen, Kai (1984), Metsästä kaupunkiin: Esseitä ja tutkielmia kirjallisuudesta [Từ rừng về phố: Tiểu luận và chuyên luận văn học] (bằng tiếng Phần Lan), Helsinki: Otava, ISBN 951-1-07971-9
  • Larmola, Yrjö (1990), Poliittinen Eino Leino: Nuorsuomalaisuus ja poliittinen pettymys Eino Leinon tuotannossa 1904–1908 [Chính trị Eino Leino: Người Phần Lan Trẻ và thất vọng chính trị trong tác phẩm của Eino Leino 1904–1908] (bằng tiếng Phần Lan), Väitöskirja: Helsingin yliopisto, Helsinki: Otava, ISBN 951-1-11285-6
  • Leino, Eino (1980), Mäkelä, Hannu (biên tập), Elämän kirja, Valikoima Leinon tuotannosta [Cuốn sách cuộc đời, tuyển tập Leino] (bằng tiếng Phần Lan), Otava, ISBN 951-1-05620-4
  • —— (1986), Nevala, Maria-Liisa (biên tập), Kodin suuret klassikot, Eino Leino 1 [Tác phẩm kinh điển quốc nội, Eino Leino 1] (bằng tiếng Phần Lan), Weilin+Göös, tr. 5–88
  • Lyytikäinen, Pirjo (1999), “Symbolismi, Kalevala ja Eino Leino”, Leino, Eino: Tuonelan joutsen; Sota valosta; Väinämöisen kosinta; Karjalan kuningas (bằng tiếng Phần Lan), Helsinki: Suomalaisen Kirjallisuuden Seura, tr. VII–XVI, ISBN 951-746-126-7
  • —— (2000), “Ihmiset, sankarit ja jumalat”, Leino, Eino: Helkavirsiä I–II (bằng tiếng Phần Lan), Helsinki: Suomalaisen Kirjallisuuden Seura, tr. VII–XVI
  • Oksala, Teivas (1986), Eino Leinon tie Paltamosta Roomaan: Tutkielmia runoilijan suhteesta antiikkiin ja klassiseen perintöön [Hành trình Eino Leino từ Paltamo đến Roma: Tiểu luận về mối quan hệ của thi sĩ với di sản cổ điển và kinh điển] (bằng tiếng Phần Lan), Suomalaisen Kirjallisuuden Seuran toimituksia 442, Helsinki: Suomalaisen kirjallisuuden seura, ISBN 951-717-446-2
  • Onerva, L. (1932), Eino Leino. Runoilija ja ihminen. 1–2 [Eino Leino. Thi nhân và con người. 1–2] (bằng tiếng Phần Lan), Otava
  • Paasilinna, Erno (1986), “Kirjailija Erno Paasilinna puheessaan Paltaniemellä Leinon 100-vuotisjuhlissa 1977”, Kansan palvelijoita [Đầy tớ nhân dân] (bằng tiếng Phần Lan)
  • Peltonen, Aarre M. (1975), Eino Leinon varhaiskehitys ja -tuotanto [Tác phẩm và phát triển ngòi bút giai đoạn đầu của Eino Leino], Monistesarja: Tampereen yliopisto. Kotimainen kirjallisuus n: o 4 (bằng tiếng Phần Lan), Tampere: Tampereen yliopisto
  • Riikonen, H. K. (2012), Satiiri Suomessa [Châm biếm tại Phần Lan] (bằng tiếng Phần Lan), Eino Leino satiirikkona, Toimittaneet Sari Kivistö ja H. K. Riikonen. Suomalaisen Kirjallisuuden Seuran toimituksia 1396, Helsinki: Suomalaisen Kirjallisuuden Seura, ISBN 978-952-222-401-9
  • Salmenhaara, Erkki (1996), Kansallisromantiikan valtavirta 1885–1918. Suomen musiikin historia 2 [Dòng chính thống của chủ nghĩa lãng mạn dân tộc 1885–1918. Lịch sử âm nhạc Phần Lan 2] (bằng tiếng Phần Lan), WSOY
  • Siltala, Juha (1999), Valkoisen äidin pojat. Siveellisyys ja sen varjot kansallisessa projektissa [Các con trai của mẹ da trắng: Cội nguồn và dấu vết trong tác phẩm dân tộc] (bằng tiếng Phần Lan), Helsinki: Otava, ISBN 951-1-14738-2
  • Tarkiainen, Viljo (1947), Helkavirsiä II 1916. – Elämän laulu. Valikoima Eino Leinon runoja [Helkavirsiä II 1916 – Bài thơ cuộc đời. Tuyển tập thơ Eino Leino] (bằng tiếng Phần Lan), Koonnut ja selityksillä varustanut V. Tarkiainen, Otava
  • Tuomioja, Erkki (2006). Häivähdys punaista: Hella Wuolijoki ja hänen sisarensa Salme Pekkala vallankumouksen palveluksessa [Chớp đỏ: Hella Wuolijoki và chị em gái Salme Pekkala phục vụ cách mạng] (bằng tiếng Phần Lan). Helsinki: Tammi. ISBN 978-951-31369-3-2.
  • Turpeinen, Oiva (2008), Anders Lönnbohm – maanmittari ja runoilijoiden isä [Anders Lönnbohm – nhà khảo sát đất đai và cha đẻ các thi sĩ] (bằng tiếng Phần Lan), Somerniemi: Amanita, ISBN 978-952-5330-25-0
  • Uusi-Hallila, Tuula; Helttunen, Anne (2016), Sitaattien salat: mitä jokaisen tulee tietää suomalaisesta kirjallisuudesta [Bí mật danh ngôn: điều nên biết về văn học Phần Lan] (bằng tiếng Phần Lan) (ấn bản 2), Helsinki: Suomalaisen Kirjallisuuden Seura, ISBN 9789522226853
Tạp chí
  • Ervasti, Esko (1960), Suomalainen kirjallisuus ja Nietzsche. 1900-luvun vaihde ja siihen välittömästi liittyvät ilmiöt [Văn học Phần Lan và Nietzsche. Bước sang thế kỷ 20 và những hiện tượng liên đới trực tiếp], B 77 (bằng tiếng Phần Lan), Turun yliopisto
  • Klinge, Matti (2002). “--”. Humanistin iltapäivä (bằng tiếng Phần Lan).
  • Nevala, Maria-Liisa (2003). “Leino, Eino (1878–1926)”. Studia biographica (bằng tiếng Phần Lan). Helsinki: Suomalaisen Kirjallisuuden Seura. 6. ISBN 951-746-447-9.
  • “Kajaanin linna” [Lâu đài Kajaani]. Häme Sanomat (bằng tiếng Phần Lan) (77). 26 tháng 9 năm 1890.
  • “Nykyaika”. Nykyajassa (bằng tiếng Phần Lan) (1). 15 tháng 12 năm 1897.
  • “Awioliittoon kuulutettiin Eino Leino ja ...”. Hämeen Sanomat (bằng tiếng Phần Lan) (98). 30 tháng 8 năm 1905.
  • Kulttuurimaisema ja rakennuskanta [Cảnh quan văn hóa và kiến trúc] (PDF) (bằng tiếng Phần Lan), Tuusula, 2014, Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 7 tháng 12 năm 2022, truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2023

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]