HMS Mounsey (K569)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu frigate HMS Mounsey (K569), ngày 20 tháng 8, 1944
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi DE-524
Xưởng đóng tàu Xưởng hải quân Boston, Boston, Massachusetts
Đặt lườn 14 tháng 8, 1943
Hạ thủy 24 tháng 9, 1943
Hoàn thành 23 tháng 12, 1943
Số phận Chuyển cho Hải quân Hoàng gia Anh, 23 tháng 12, 1943
Anh Quốc
Tên gọi HMS Mounsey (K569)
Đặt tên theo William Mounsey[1][2]
Trưng dụng 23 tháng 12, 1943
Nhập biên chế 24 tháng 12, 1943
Xuất biên chế tháng 2, 1946
Tình trạng Hoàn trả cho Hoa Kỳ, 25 tháng 2[3][4] hoặc 27 tháng 2, 1946[2]
Hoa Kỳ
Trưng dụng 25 tháng 2 hoặc 27 tháng 2, 1946
Xóa đăng bạ 28 tháng 3, 1946
Tình trạng Bán để tháo dỡ, 8 tháng 11, 1946
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu
Kiểu tàu Tàu frigate
Trọng tải choán nước
  • 1.140 tấn Anh (1.160 t) (tiêu chuẩn);
  • 1.430 tấn Anh (1.450 t) (đầy tải)
Chiều dài
  • 283 ft 6 in (86,41 m) (mực nước);
  • 289 ft 5 in (88,21 m) (chung)
Sườn ngang 35 ft (11 m)
Mớn nước 10 ft (3,0 m)
Công suất lắp đặt 6.000 hp (4.500 kW)
Động cơ đẩy
Tốc độ 19 kn (22 mph; 35 km/h)
Tầm xa 4.150 nmi (4.780 mi; 7.690 km) ở vận tốc 12 kn (14 mph; 22 km/h)
Số tàu con và máy bay mang được
  • xuồng săn cá voi 27 foot (8,2 m) kiểu Hải quân Anh
  • xuồng tiêu chuẩn kiểu Hải quân Mỹ
Thủy thủ đoàn tối đa 175
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • Radar kiểu SA & SL
  • Sonar Kiểu 128D hoặc Kiểu 144
  • Ăn-ten định vị MF
  • Ăn-ten định vị cao tần Kiểu FH 4
Vũ khí

HMS Mounsey (K569) là một tàu frigate lớp Captain của Hải quân Hoàng gia Anh hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên được Hoa Kỳ chế tạo như là chiếc DE-524, một tàu hộ tống khu trục lớp Evarts, và chuyển giao cho Anh Quốc theo Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Anh được đặt tên theo Đại tá Hải quân William Mounsey (1766-1830), người từng tham gia các cuộc Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ, Chiến tranh Cách mạng PhápChiến tranh Napoleon.[1][2] Nó đã phục vụ cho đến khi chiến tranh kết thúc tại Châu Âu, hoàn trả cho Hoa Kỳ năm 1946, và cuối cùng bị bán để tháo dỡ trong cùng năm đó.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Những tàu frigate lớp Captain thuộc phân lớp Evarts có chiều dài chung 289 ft 5 in (88,21 m), mạn tàu rộng 35 ft 1 in (10,69 m) và độ sâu mớn nước khi đầy tải là 8 ft 3 in (2,51 m). Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.140 tấn Anh (1.160 t); và lên đến 1.430 tấn Anh (1.450 t) khi đầy tải. Hệ thống động lực bao gồm bốn động cơ diesel General Motors Kiểu 16-278A nối với bốn máy phát điện để vận hành hai trục chân vịt; công suất 6.000 hp (4.500 kW) cho phép đạt được tốc độ tối đa 21 kn (24 mph; 39 km/h), và có dự trữ hành trình 4.150 nmi (4.780 mi; 7.690 km) khi di chuyển ở vận tốc đường trường 12 kn (14 mph; 22 km/h).[3]

Vũ khí trang bị bao gồm ba pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm hoặc phòng không, một khẩu đội 1,1 inch/75 caliber bốn nòng và chín pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và tám máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[3]

DE-524 được đặt lườn tại Xưởng hải quân BostonBoston, Massachusetts vào ngày 14 tháng 8, 1943;[2][3][4] nó được hạ thủy vào ngày 24 tháng 9, 1943.[2][3][4] Con tàu được chuyển giao cho Anh Quốc vào ngày 23 tháng 12, 1943,[2][3][4] và nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia Anh như là chiếc HMS Mounsey (K569) một ngày sau đó, 24 tháng 12, 1943,[2] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Frank Alexander John Andrew.[4]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Trong quá trình phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh, Manners hoạt động trong vai trò chính là hộ tống các đoàn tàu vận tải tại Bắc Đại Tây Dương cũng như các đoàn tàu Vận tải Bắc cực vận chuyển vũ khí và tiếp liệu sang Liên Xô. Nó cũng hỗ trợ cho cuộc tấn công của Đồng Minh lên miền Bắc nước Pháp trong khuôn khổ cuộc đổ bộ Normandy vào tháng 6, 1944.[2]

Vào ngày 2 tháng 11, 1944, khi Mounsey đang hộ tống cho Đoàn tàu RA-61 di chuyển trong biển Barents rời khỏi Liên Xô, nó bị hư hại do trúng một quả ngư lôi dò âm G7es (T5)[5] phóng từ tàu ngầm U-boat Đức U-295. Hư hại buộc nó phải quay trở lại bán đảo Kola để sửa chữa tạm thời; và sau khi hoàn tất nó tham gia cùng Đoàn tàu RA-62 để rời Liên Xô quay trở về Anh. Sau khi được sửa chữa triệt để, con tàu tiếp tục phục vụ hộ tống vận tải.[4][6]

Lúc 23 giờ 00 ngày 10 tháng 5, 1945, ngay khi Thế Chiến II kết thúc tại Châu Âu, Mounsey tiếp nhận đầu hàng của chiếc tàu ngầm U-1023, là chiếc tàu ngầm cuối cùng đã đánh chìm tàu chiến Đồng Minh trong cuộc chiến tranh.[4] Đến đầu năm 1946, con tàu đi sang Hoa Kỳ, đi đến Xưởng hải quân PhiladelphiaPhiladelphia, Pennsylvania vào ngày 7 tháng 2, 1946. Nhằm giảm bớt chi phí mà Anh phải trả cho Hoa Kỳ trong Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease), con tàu đã được Anh hoàn trả cho Hoa Kỳ vào ngày 25 tháng 2[3][4] hoặc 27 tháng 2, 1946[2]

Không còn nhu cầu sử dụng do dư thừa tàu chiến khi chiến tranh đã kết thúc, Hoa Kỳ cho rút tên con tàu khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 28 tháng 3, 1946; và sau đó nó được bán cho hãng North American Smelting Company tại Philadelphia vào ngày 8 tháng 11, 1948 để tháo dỡ. Công việc tháo dỡ hoàn tất vào ngày 9 tháng 11, 1948.[3][4]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b “HMS Mounsey K569 (DE 524)”. Captain Class Frigate Association. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2021.
  2. ^ a b c d e f g h i Mounsey. Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command. ngày 24 tháng 6 năm 2015.
  3. ^ a b c d e f g h “DE-524 HMS Mounsey (K-569)”. NavSource.org. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2021.
  4. ^ a b c d e f g h i Helgason, Guðmundur. “HMS Mounsey (K 569)”. uboat.net. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2021.
  5. ^ Phía Đồng Minh đặt tên kiểu ngư lôi này là GNAT (German Navy Acoustic Torpedo – ngư lôi dò âm của Hải quân Đức)
  6. ^ Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-boats: HMS Mounsey (K 569)”. uboat.net. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2021.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]